Vận dụng thiền quán vào xã hội hiện đại để góp phần xây dựng thế giới hòa bình an lạc
van dung
VẬN DỤNG THIỀN QUÁN VÀO XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
ĐỂ GÓP PHẦN XÂY DỰNG THẾ GIỚI HÒA BÌNH AN LẠC
Thích Bổn Huân
Lời dẫn
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại bước vào một kỷ nguyên đầy biến động với
đà phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Nhìn một
cách tổng thể chúng ta thấy rằng trình độ dân trí và đời sống vật chất được nâng
cao đáng kể, nhưng đời sống tinh thần có nhiều lúc lại rơi vào khủng hoảng. Bài
viết này đề cập đến vấn đề khủng hoảng tinh thần trong đời sống xã hội hiện nay
và nêu ra phương pháp khắc phục thông qua việc vận dụng thiền quán vào đời sống
thường nhật, giúp cho người thực hành thiền quán hiểu rõ và kiểm soát được thân
tâm với hoàn cảnh đang sống, bình tĩnh xử lý các tình huống để vượt qua những
khó khăn bế tắc trong cuộc sống, khống chế và điều phục được các tâm bất thiện,
đạt được những lợi ích về tinh thần và có được nội tâm thanh thản, đời sống an
lành hạnh phúc thật sự.
Thiền là một lĩnh vực rất đa dạng, phong phú về thể loại và phương cách
thực hành. Trong Phật giáo có nhiều trường phái thiền như: Thiền Như lai, Thiền
Tổ sư, Thiền Nguyên thuỷ, Thiền Phát triển v.v… Nguyên nhân có nhiều trường phái
khác nhau như vậy là bởi Phật giáo có một quá trình hình thành phát triển lâu
dài, tính đến nay đã hơn 2.600 năm, theo dòng thời gian được truyền lưu khắp nơi
trên thế giới, để thích nghi với phong tục tập quán và văn hóa tín ngưỡng của
từng địa phương, từng quốc gia. Sau khi được truyền vào Trung Quốc, với tinh
thần khai phóng đầy sáng tạo, các Tổ sư khai sáng các dòng thiền đã lập nên
những tôn chỉ theo quan điểm riêng mình. Tuy vậy, về nền tảng giáo lý cơ bản
(giới-định-tuệ) thì không có nhiều điểm khác nhau. Phương cách hành trì đều trải
qua các bước giữ giới rồi đến thiền định để phát sinh trí tuệ. Thiền định bao
gồm thiền chỉ và thiền quán. Nó có thể giúp cho hành giả đạt được đời sống sống
an lành trong thực tại và từng bước đi đến giác ngộ giải thoát.
1.
Các vấn đề của nhân loại trong xã hội hiện đại
Nhân loại ngày nay có đời sống hướng ngoại nhiều hơn, sống gấp và sống vội
hơn. Quỹ thời gian của mỗi người dường như lúc nào cũng bị thiếu. Rất nhiều
người không có thời gian để tĩnh tâm nhìn sâu vào đời sống của mình, của những
người thân trong gia đình, vì vậy mà các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong các gia
đình hiện đại ngày càng trở nên nghiêm trọng. Hơn nữa, mối quan hệ giữa người
với người ngày càng nhạt dần theo quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Nhiều người đối xử với nhau chỉ vì vụ lợi hoặc lợi ích cá nhân. Tình cảm lối xóm
láng giềng không còn chan hòa như ông bà chúng ta trước kia.
Nhiều người trong xã hội ngày nay đang sống trong tình trạng khủng hoảng
niềm tin, khủng hoảng tinh thần. Nguyên nhân thì có rất nhiều: những tranh chấp
về kinh tế; sự chia rẽ và lòng thù hận do phân biệt sắc tộc, phân biệt tín
ngưỡng tôn giáo; sự phân biệt ý thức hệ giữa các đảng phái chính trị tranh giành
quyền lực thống trị xã hội; tầng lớp thống trị không quan tâm đến các vấn đề như
hòa bình, tự do, dân chủ, công bằng… Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống xã hội hiện nay như sự biến đổi khí hậu, nạn phá rừng tràn
lan, khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức… Các loại dịch bệnh hiểm nghèo như
ung thư, tiểu đường, tai biến, đột quỵ…
ngày càng phổ biến… Nói chung, con người chúng ta ngày nay đa số đang sống
trong trạng thái khủng hoảng và bị động trước thế giới tự nhiên.
Thêm nữa, một số các bạn trẻ ngày nay quá say đắm vào thế giới ảo, không
tìm thấy được lý tưởng sống và mục đích sống cho mình. Một số khác lại không có
đủ sức đề kháng với các trào lưu văn hóa ngoại lai, thích sống lập dị hoặc rơi
vào các tệ nạn xã hội, có lối sống ích kỷ và không cần quan tâm đến những người
xung quanh. Mặt trái của sự phát triển công nghệ thông tin qua mạng Internet đã
làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển bình thường của giới trẻ ngày nay. Các
phim ảnh có nội dung người lớn tràn lan trên mạng, và các trò chơi điện tử bạo
lực giả tưởng đã làm thay đổi tính cách hướng thiện của rất nhiều người trẻ,
khiến tâm lý họ ngày càng trở nên bạo động, thủ đoạn, dục vọng, tham lam, nổi
loạn và bất chấp. Những điều đó đã dẫn đến những việc làm nguy hiểm gây hậu quả
nghiêm trọng cho bản thân, gia đình và xã hội mà chúng ta thường bắt gặp đây đó
hoặc xem trên báo chí mỗi ngày. Do đó, việc tích cực ứng dụng và phổ biến thực
hành thiền vào trong xã hội ngày nay là việc làm hết sức cần thiết, nhằm giúp
cho người thực hành thiền kiểm soát được tâm ý, lấy lại sự quân bình nội tâm,
hạn chế những tác động xấu từ cuộc sống hiện đại, và đạt được đời sống an lành
và hạnh phúc thật sự.
2.
Việc thực hành thiền quán
Phật giáo ra đời hơn 2.600 năm trước, khi đất nước Ấn Độ đang trong tình
trạng rối ren về mặt tư tưởng và tình trạng phân biệt giai cấp nghiệt ngã. Sau
khi thành đạo, Đức Phật đã đi khắp nơi để thuyết giảng về lòng từ bi, sự bình
đẳng, lòng bao dung, tôn trọng dân chủ, sự hiểu biết chân thật và thực hành các
thiện pháp nhằm thúc đẩy xã hội tiến bộ… Ngài khuyến khích phá bỏ sự phân biệt
đối xử về giai cấp và chủng tộc, thực thi đường lối giáo dục mang tính thiết
thực, đem lại sự an bình và hạnh phúc thực sự cho xã hội. Ngài giảng dạy các học
thuyết về tính không, vô thường, duyên sinh, vô ngã, sự khổ và nguyên nhân của
khổ v.v… Điều này cho chúng ta thấy rằng công việc giáo dục và cải cách tư tưởng
xã hội là việc làm mà Đức Phật đã làm suốt cả cuộc đời. Trong nhiều bài kinh,
Đức Phật đã dạy cho các đệ tử những phương cách điều phục thân tâm, thành tựu
chánh trí, đạt được đời sống an lành và giải thoát. Và một trong các phương cách
đó là pháp thực hành thiền quán.
Thiền quán là phương pháp hành trì quán chiếu nội tâm, nhìn sâu vào tâm
để thấy được tâm mình và hiểu được tâm người, thấy được tầm quan trọng của tâm
khi chúng ta sống và đối xử với mọi người, với các sự vật hiện tượng trong thế
giới quanh ta. Qua sự quán chiếu và tư duy, chúng ta hiểu rõ rằng vũ trụ và nhân
sinh đều chịu sự chi phối của luật nhân quả trùng trùng duyên khởi và trải qua
chu kỳ: thế giới có thành, trụ, hoại, không; vạn vật có sanh, trụ, dị, diệt; và
con người có sinh, già, bện, chết v.v... Thế nên trong suốt cuộc đời hoằng pháp
độ sinh, Đức Phật luôn chú trọng chỉ bày cho chúng ta nhận diện được bản thể
chân tâm không sanh không diệt của con người. Điều quan trọng trước nhất là quán
chiếu tìm tâm, thấy tâm, điều phục tâm, trừng tâm, chuyển hóa tâm, minh tâm và
xả tâm v.v... Trong kinh Pháp cú, Đức Phật có nói rõ về tâm như sau:
“Tâm dẫn đầu các pháp/ Tâm làm chủ, tâm tạo/ Nếu với tâm nhiễm ô/ Nói
lên hay hành động/ Khổ não bước theo sau/ Như xe theo vật kéo.
Tâm dẫn đầu các pháp/ Tâm làm chủ, tâm tạo/ Nếu với tâm thanh tịnh/ Nói
lên hay hành động/ An lạc bước theo sau/ Như bóng không rời hình.”
Trong các phương pháp thiền quán, có phương pháp được xem là xương sống
của việc hành thiền, đó là việc quán chiếu “thân, thọ, tâm, pháp”, điều được Đức
Phật dạy trong kinh Đại niệm xứ. Người thực hành thiền quán Tứ niệm xứ
lâu dài chắc chắn sẽ đạt được sự bình an và hạnh phúc trong hiện tại. Thế nên
trong nhà thiền có bài kệ tán dương thiền quán Tứ niệm xứ như sau:
Có con đường độc nhất
Bốn cơ sở quán niệm
Giúp chúng sinh thanh tịnh
Diệt phiền não khổ ưu
Thành tựu được chánh trí
Và chứng nhập Niết-bàn.
Một quán thân trên thân
Hai quán thọ trên thọ
Ba quán tâm trên tâm
Bốn quán pháp trên pháp.
Bốn đề mục thiền quán này rất quan trọng cho người thực hành. Nó giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về thân và tâm, điều phục được thân tâm, nhận ra cảm giác
khổ đau và vui sướng vốn không thật, thân tâm và thế giới này đều là duyên sinh
giả hợp lúc có lúc không, thân người là giả tạm sớm còn tối mất, không một vật
gì là tồn tại vĩnh hằng. Cho nên các đề mục thiền quán Tứ niệm xứ nêu trên
thường được áp dụng trong cách thực hành thiền đối trị các trạng thái tâm tiêu
cực.
3.
Thiền quán và các lợi ích của thiền khi áp dụng các đề mục đối trị
Các đề mục thiền quán được áp dụng cho việc đối trị những trạng thái
tâm tiêu cực của con người, được ví như vị bác sĩ tùy theo chứng bệnh của bệnh
nhân mà cho toa bốc thuốc. Toa thuốc có thể linh động chứ không phải cố định
theo khuôn mẫu chung cho tất cả mọi người, bởi vì nghiệp duyên và căn tính con
người không ai giống ai, dưới đây người viết đưa ra một số ví dụ điển hình:
-
Nếu bạn là người tham lam vàng bạc của cải vật chất, cách thiền quán đối trị là
hãy tư duy sâu về những hệ lụy của người có rất nhiều tiền. Tại sao có nhiều
người lắm tiền nhưng lại ăn không ngon, ngủ không yên và không có hạnh phúc?
Chắc chắn là vì họ có những nỗi lo về tiền bạc. Tiền bạc lắm khi cũng là nguyên
nhân đưa người ta đến những vấn đề khốn đốn như tham nhũng hối lộ phải vào tù,
trộm cướp, người thân tranh giành tài sản mà đoạn tuyệt với nhau… Sau một thời
gian thực hành thiền quán như vậy, chúng ta sẽ thấy rõ sự tham muốn tiền tài vật
chất của mình từng bước được chuyển hóa, dần đi đến chỗ khi nhìn thấy vàng bạc
của cải vật chất, tâm ta không dao động, không còn bị vật chất cuốn hút, làm khổ
như trước kia.
-
Nếu bạn là người có lòng tham sắc dục, cách thiền quán đối trị là hãy quán chiếu
về sự bất tịnh và giả tạm của thân thể, hoặc quán sát về thi thể người chết đang
trương sình nơi bãi tha ma v.v… Kết quả là sau một thời gian thực hành thiền
quán như vậy, bạn sẽ thấy sự tham muốn sắc đẹp của mình từng bước được điều
phục, và dần đi đến chỗ tâm thấy sắc không động, do đó không còn bị sự cuốn hút
say mê sắc đẹp làm khổ bạn như trước nữa.
-
Nếu bạn là người hay nóng giận, xin hãy quán chiếu gương mặt phúc hậu thánh
thiện giàu lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật, tư duy quán chiếu về hậu quả của những
người hay nóng giận không kiềm chế được, đã động thủ giết người nên phải đền tội
v.v… Sau đó từng bước sửa đổi tính tình cho bớt nóng giận. Khi cơn giận lên đến
đỉnh điểm, tâm chúng ta sẽ mất bình tỉnh, mất kiểm soát và có thể hung hãn làm
những việc tai hại gây hậu quả nghiêm trọng dẫn đến nguy hiểm khó lường. Kết quả
là sau một thời gian thực hành thiền quán, bạn sẽ thấy lòng nóng giận của mình
từng bước được cải thiện và dần đi đến thuần thiện hiền hòa, không còn cảm thấy
khổ sở bới cái tính hay nóng giận của mình như trước.
-
Nếu bạn là người sắp gần đất xa trời với lòng nhiều sợ hãi về sự chết chóc, hãy
quán chiếu rằng sự sống và cái chết vốn là hai mặt của một bàn tay. Cái chết
chẳng qua là một cuộc dừng chân nghỉ ngơi của hành giả khi đêm xuống, rồi sáng
hôm sau lại tiếp tục cuộc hành trình tiến về phía trước với việc tiếp nối một
đời sống mới. Bởi sinh tử là lẽ thường nhiên nên không việc gì phải lo sợ. Kết
quả là sau một thời gian thực hành thiền quán như vậy, bạn sẽ thấy sự sợ hãi cái
chết của mình từng bước được điều phục và dần đi đến chỗ không còn sợ nữa.
-
Nếu bạn là người trẻ tuổi với lòng nhiệt tình nhiều hoài bão phía trước, sau
thời gian thực tập thiền quán bạn sẽ nhận thấy rõ những sở trường và sở đoản của
mình, sáng suốt chọn cho mình một con đường, một nghề nghiệp thích hợp với sở
trường, thích hợp với nhu cầu xã hội để tiến bước về tương lai với lòng tự tin,
thực hiện chính xác những gì mình đã chọn và gặt hái thành công.
-
Nếu bạn là người tài xế, hãy quán chiếu lại những cảnh chết chóc tang thương vì
tai nạn giao thông mà bạn thường bắt gặp trên đường hay thông qua báo chí. Điều
đó sẽ khiến bạn cảm nhận rõ hơn những nỗi khổ niềm đau của những người không may
bị tai nạn giao thông làm mất đi một phần thân thể hay chịu sự tật nguyền đau
đớn suốt cuộc đời. Kết quả là sau thời gian thực tập thiền quán như vậy, tâm của
bạn sẽ an định bình tĩnh và chú tâm hơn khi bạn ngồi phía sau tay lái. Bạn yêu
cuộc sống này hơn, biết quý trọng sinh mạng của mình và mạng sống của người
khác. Bạn sẽ thấy rõ những hậu quả nghiêm trọng mà tai nạn giao thông đã gây ra
mỗi ngày, và càng cẩn thận hơn khi ngồi vào tay lái.
-
Nếu bạn là một kỹ sư, sau thời gian thực tập thiền quán, bạn sẽ nhận rõ hơn
trách nhiệm và nhiệm vụ của mình đối với xã hội, với chất lượng và tuổi thọ các
công trình do chính công ty của mình làm ra. Điều đó thật tốt đẹp biết bao khi
hiện nay lương tâm nghề nghiệp của một số người trong các ngành nghề bị lãng
quên. Họ chú trọng và chạy theo cuộc sống hưởng thụ vật dục. Đạo đức nghề nghiệp
bị xuống cấp trầm trọng, nhưng họ chẳng quan tâm và cũng chẳng có thời gian nghĩ
về hậu quả của nó.
-
Nếu bạn là một nhà chính trị, sau thời gian thực tập thiền quán sâu sắc, bạn sẽ
nhận rõ hơn về chức vụ và quyền lực mà bạn đang có được là do người dân tin
tưởng bạn mà biểu quyết hoặc bầu cử trao quyền cho bạn. Quyền lực đó là của nhân
dân chứ không phải của chính bạn, cho nên bạn không nên vì nó mà tỏ ra hách dịch
quan liêu, lợi dụng chức quyền để tham nhũng hối lộ, hà hiếp dân chúng v.v…
Những sai phạm hay lạm quyền của bạn, một ngày nào đó pháp luật sẽ trừng trị.
Nếu không bị luật pháp trừng trị, bạn cũng không thể nào thoát khỏi sự trừng
phạt của luật nhân quả. Do đó, việc thực tập thiền quán có công năng giúp bạn
nhận ra giá trị thật của bạn, và bạn sẽ cố gắng trở thành một nhà chính trị có
lương tâm nghề nghiệp, sống hết lòng vì nước vì dân, vì lý tưởng cao thượng tốt
đẹp.
-
Nếu bạn là một doanh nhân, sau thời gian thực tập thiền quán sâu sắc, bạn sẽ rõ
hơn về việc giữ gìn chữ tín, nội lực cạnh tranh với nhiều yếu tố quan trọng khác
giúp cho công ty của bạn tồn tại và phát triển. Ngoài ra, đòi hỏi bạn phải có
cái tâm tích đức làm phước thông qua công tác từ thiện. Việc làm này tạo nên
những phước báo, giúp cho bạn và công ty luôn gặp được may mắn, vượt qua những
khó khăn và dễ dàng gặt hái kết quả tốt đẹp.
-
Nếu bạn là người thành công, thông minh, học giỏi, giàu sang và được mọi người
quý mến v.v…, sau thời gian thực tập thiền quán sâu sắc, bạn sẽ thấy rằng những
điều tốt đẹp mà bạn đang có được là không chỉ nhờ sự cố gắng của bạn ở hiện tại
mà còn do nhiều đời kiếp ở quá khứ bạn đã rất nỗ lực tinh cần học hành, làm nghề
chân chính, làm nhiều việc phước thiện không biết mệt mỏi, cho nên từ những nhân
duyên phước báo đó, đời này khi được sinh ra, bạn là người rất ư hạnh phúc, muốn
gì có nấy. Khi hiểu được sự vận hành của quá trình nhân quả qua việc thiền quán,
bạn càng nỗ lực làm việc nhiều hơn, tinh tấn học tập và thiền quán nhiều hơn để
phát sinh trí tuệ. Bạn sẽ trích ra một phần tài sản để làm từ thiện, mang lợi
ích đến cho nhiều người và góp phần kiến tạo một xã bình an hạnh phúc.
-
Nếu bạn là người hay gặp sự thất bại, đụng đâu hư đó, làm việc gì cũng chẳng nên
thân, nhiều lúc chán đời muốn tự tử cho xong v.v... Sau thời gian thực tập thiền
quán sâu sắc, bạn sẽ thấy rõ được nguyên nhân và quả khổ của mình. Chắc hẳn
nhiều đời kiếp trước kia của bạn, bạn đã từng lười biếng học hành, không có ý
chí tiến thủ nổ lực vươn lên trong cuộc sống, lại còn dung túng những ý nghĩ
tiêu cực v.v… Cho nên khi hiểu được nguyên nhân và kết quả của vòng xoáy luân
hồi bất tận trong nhân gian, bạn sẽ không còn oán trời trách người, mà chỉ trách
cứ bản thân mình, qua đó bạn sẽ tỉnh ngộ, nỗ lực cố gắng làm lại từ đầu bằng sự
quyết tâm cao độ, chắc chắn vào thời điểm nào đó trong tương lai bạn sẽ thay đổi
được cuộc đời của mình theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
Nhà Phật có câu: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, yếu
tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị”. Có nghĩa là: Nếu muốn biết nguyên
nhân trước kia, thì hãy nhìn kết quả hiện tại, nếu muốn biết kết quả trong tương
lai, thì hãy xem những việc đang làm. Vì thế, người thực hành thiền quán sâu sắc
sẽ hiểu rõ về quy luật nhân quả của tất cả sự vật hiện tượng theo lý duyên sinh
với vòng xoáy luân hồi bất tận trong không gian vô cùng và thời gian vô tận. Cho
nên đạo đức học Phật giáo thường nhắc đến câu “phàm làm việc gì, trước phải
nghĩ đến hậu quả của nó”. Do đó khi chúng ta thực tập thiền quán, chính là
lúc sử dụng thời gian vào sự chú tâm để tư duy quán chiếu về các chuỗi mắt xích
liên hệ hữu cơ giữa nhân duyên và quả báo, từ đó nhận rõ được nguyên nhân sinh
ra hạnh phúc hay khổ đau, thất bại hay thành công, phiền não hay vui sướng, giàu
sang hay nghèo đói v.v… của con người, và từ đó có thể điều phục những vấn đề
tiêu cực trong tâm, đồng thời tạo điều kiện cho các yếu tố tích cực trong tâm
được phát triển, làm cho cuộc sống của mình và người trở nên ngày càng có ý
nghĩa. Trong nhà Phật có câu: “Tâm bình thế giời bình, tâm an vạn sự an”.
Kết Luận
Thực hành thiền xưa nay đã được xem là phương cách quan trọng giúp cho
người hành trì đạt được sự quân bình về nội tâm và thanh lọc thân tâm, ngoài ra
còn được xem là phong cách sống nghệ thuật, hướng đến các giá trị đạo đức cho
một xã hội văn minh tiến bộ và phát triển hài hòa. Tâm lý học Phật giáo phân ra
nhiều dạng thức về tâm như: 8 tâm vương, 51 tâm sở, 24 tâm bất tương ưng hành
v.v… Thiền quán tức là dụng tâm để quán chiếu nhằm thấu triệt vấn đề, đối trị,
khống chế và điều phục các tâm tiêu cực như: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến
v.v… Tạo điều kiện phát triển các tâm tích cực như: lòng bao dung vị tha; lòng
từ bi hỷ xả; sự hiểu biết sáng suốt; sự cảm thông chia sẽ; sự tinh tấn cầu học;
ý chí tiến thủ vươn lên trong cuộc sống, lòng nhiệt thành giúp đỡ mọi người v.v…
Ngoài ra thiền quán còn giúp chúng ta thanh lọc thân và tâm trong sạch, tinh
thần nhẹ nhàng thanh tịnh, nhận diện được chân tâm bản tính thuần khiết của
mình. Vì thế việc phổ biến phương pháp thiền quán vào xã hội ngày nay là góp
phần làm
cho thế giới hòa bình và đời sống chúng ta ngày một an lạc hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Pháp sư Thánh Nghiêm, Nguyên Bửu
(dịch)
(2011), Thiền và ngộ (trọn bộ 2 tập), NXB. Phương Đông.
2.
Thu Giang Nguyễn Duy Cần (1971), Phật học tinh hoa, NXB. Khai Trí.
3.
Thích Minh Châu (dịch) (2000), Kinh Pháp cú, NXB. Tôn
Giáo.
4.
Thích Minh Châu (2012), Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, NXB. Tổng
Hợp.
5.
Thích Minh Châu (2002), Hành
thiền,
Hà Nội: NXB. Tôn
Giáo.
6.
D.Suzuki, Thiền
luận
(3 tập), NXB. Tổng
Hợp
Tp.HCM .
7.
Sayadaw U Kundalabhivamsa, Tỳ-kheo Thiện Minh (dịch) (2000), 9 yếu tố
phát triển Thiền quán, NXB. Tp. HCM.
8.
Kimura Taiken, Thích Quảng Độ
(dịch)
(2012), Nguyên
thuỷ
Phật
giáo
tư
tưởng
luận,
NXB. Tôn
Giáo,
tb.
9.
Kimura
Taiken, Thích Quảng Độ
(dịch)
(1969), Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận, NXB. Lá Bối, tb 2012.
10.
Kimura
Taiken, Thích Quảng Độ
(dịch)
(1969), Đại
thừa
Phật
giáo
tư
tưởng
luận,
Tu
thư Đại học Vạn
Hạnh,
tb 2012.
11.
Thenchen
Thrangu, Nguyên Hương
(dịch)
(2004), Sự thực hành về Thiền chỉ và Thiến quán, NXB. Tổng
Hợp
Tp. HCM.
12.
Nguyễn
Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận (trọn bộ 3 quyển), NXB. Văn Học
Hà Nội.
13.
Thích
Thanh Từ (2008), Thiền
sư
Việt Nam,
NXB. Tổng Hợp Tp. HCM.
14.
Thiền học đời Trần, Viện
Nghiên
cứu Phật học Việt Nam, 1995.