SỐNG, CHẾT,
TÁI SINH,
TRUNG ẤM, CÚNG
VONG
Nguyên Giác
Sinh và tử,
tái sinh và
trung ấm, cách
nào để cúng vong… đó là
các
quan tâm lớn của
nhiều
Phật tử. Bài viết
này sẽ
dựa vào Kinh để
khảo sát những
vấn đề đang được
Phật tử
quan tâm và
thảo luận.
Trước tiên, cần
nêu rõ rằng, những chữ
như
tái sinh, hay
trung ấm thân (thời
gian
sau khi chết
trong đời này mà
chưa thọ thân của
đời sau) có thể
gây nhầm lẫn là có một
“cái tôi” nào đang
luân hồi; thực sự
vốn không hề có “cái
tôi” nào hết. Nên nhìn
rằng
chúng ta như một
chùm bọt sóng (sắc, thọ,
tưởng, hành, thức) đang
trôi trên dòng sông
tham ái,
liên tục
biến đổi trên
dòng sông đó. Không nên
nhìn như có cái gì gọi
là “cái đang là” mà nên
nhìn như chỉ có “cái
đang hình thành”; chỉ
như thế mới không bị
vướng vào
chấp trước rằng
các
thủ uẩn là ngã
hay có gì như là thực.
Dòng sông
vô thường trên
thân tâm
chúng ta vẫn đang
chảy xiết;
Đức Phật có khi
gọi tượng hình là trận
lũ, và thúc giục
mọi người hãy
vượt trận lũ, tức là
vượt
tham ái, để qua
bờ
giải thoát.
Khi
trí thức phương
Tây (Hoa Kỳ và Châu Âu)
tin theo
Phật giáo, nhiều
người chọn
thái độ xem
Phật giáo đa dạng
như bàn tiệc,
tùy ý
lựa chọn. Thậm
chí, nhiều vị tự nhận
lập trường
thế tục
(secular), xem
Phật giáo chỉ như
triết lý sống, gạt bỏ cả
chuyện
tái sinh, bất kể
Đức Phật nói
trong kinh rất nhiều về
luân hồi và thúc
giục
học nhân phải
tu học khẩn cấp
như lửa cháy trên đầu để
giải thoát. Trong
khi đó, một số
trí thức phương
Tây chỉ chọn
Thiền tập bổ sung
vào
đức tin
tôn giáo đã có
của họ.
Thực sự, chính ngay
trong các
tôn túc
tăng ni cũng tự
có
lựa chọn
tùy ý kiểu
Phật giáo Bàn
Tiệc;
thí dụ, nhiều vị
tăng ni không tin
hoặc không
quan tâm về
năng lực
thần chú như các
vị theo
Mật Tông, tuy
rằng trong
Trường Bộ, có
Kinh DN 32 ghi bài
thần chú khuyên
là
tứ chúng nên học
thuộc để được
hộ trì, trích bản
dịch
Hòa Thượng Thích
Minh Châu (sẽ
viết tắt: bản TMC):
“…Tôn giả, Hộ Kinh
Āṭānāṭiya này
che chở,
hộ trì, ngăn
không cho ai làm hại các
vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
Nam cư sĩ,
Nữ cư sĩ và khiến
các vị này sống
an lạc. Khi một
vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
Nam cư sĩ,
Nữ cư sĩ nào sẽ
học Hộ Kinh Āṭānāṭiya
này một cách
chín chắn,
rõ ràng, nếu có
loài
phi nhân nào… [quấy
nhiễu thì]… các
hàng
phi nhân sẽ dìm
đầu vị ấy xuống. Này
Tôn giả, các hàng
phi nhân sẽ chẻ
đầu vị ấy ra làm bảy
mảnh.” (1)
Bài viết này sẽ dẫn
kinh, kèm với các nối
kết (link) để dễ
tham khảo, thứ tự
chỉ là đọc tới đâu, viết
tới đó, vì vốn học của
người viết không nhiều
dể nhìn
toàn diện. Người
viết xin
thành kính
sám hối trước
Tam Bảo về tất cả
những bất toàn.
.. o
..
Câu hỏi: Có
nên cúng tế, làm các
nghi lễ
bố thí cho người
chết hay không?
Đức Phật
trả lời câu hỏi
này trong Kinh AN
10.177, trích bản TMC:
“Thưa
Tôn giả Gotama,
bố thí có
lợi ích gì cho
các
bà con huyết
thống đã chết không? Các
bà con huyết
thống đã chết có được
thọ hưởng
bố thí ấy hay
không?
—Này Bà-la-môn, nếu
có
tương ưng xứ,
thời có
lợi ích, không có
lợi ích
nếu không có
tương ưng xứ…
(…)—Thưa
Tôn giả Gotama,
nếu
bà con huyết
thống đã chết, không
sanh vào chỗ ấy, và các
bà con huyết
thống khác cũng không
sanh vào chỗ ấy, thời ai
hưởng
bố thí ấy?
—Không có
trường hợp ấy,
không có cơ hội ấy, này
Bà-la-môn, rằng chỗ ấy
có thể trống không trong
một
thời gian dài,
không có người
bà con huyết
thống đã chết. Nhưng này
Bà-la-môn, người
bố thí không phải
không có hưởng quả.”
(2)
.. o
..
Câu hỏi:
Cúng tế người chết có
phải vô ích?
Ngay cả không
tương ưng xứ,
cũng vẫn sinh ra
ruộng phước (dẫn
tới
ruộng phước gọi
là đạt thẩn). Trong
Tạp A Hàm, Kinh
1041, bản dịch của hai
thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức
Thắng, trích:
“Bà-la-môn
bạch Phật: Thưa
Cù-đàm, nếu con vì
tín tâm
bố thí cho người
thân tộc, nhưng
họ không sanh vào trong
chốn Nhập xứ
ngạ quỷ và cũng
không có các
thân tộc
quen biết khác
sanh vào chốn Nhập xứ
ngạ quỷ, thì
thức ăn do
lòng tin
bố thí đó ai sẽ
hưởng?
Phật bảo
Bà-la-môn:
Giả sử ông vì
những
thân tộc
quen biết mà
bố thí, nhưng họ
không sanh vào trong
chốn Nhập xứ
ngạ quỷ và lại
cũng không có những
người
quen biết khác
sanh vào chốn
ngạ quỷ, thì việc
bố thí do
lòng tin, tự mình
sẽ được phước.
Của bố thí do
lòng tin của
người
thí chủ đó, sẽ
không mất đạt-thẩn.”
(3)
.. o
..
Câu hỏi: Có
bao giờ gặp lại người đã
chết như khi họ còn
sống?
Không gặp lại được.
Do vậy,
Đức Phật luôn
luôn
hối thúc
tu hành khẩn cấp
và chớ nên giữ
nỗi buồn
xa lìa người
thân, Kinh Snp 3.8,
trích dịch:
“Khi thấy một thi
thể, nên biết rằng,
‘Người này sẽ không gặp
mình nữa đâu.’ Y hệt như
lửa trong ngôi nhà cháy
bị nước
dập tắt, một
người
trí tuệ, học
nhiều và
nhạy cảm nên
nhanh chóng
xua đuổi
nỗi buồn khởi
dậy, y hệt gió thổi bạt
đi một mảnh bông gòn.”
(4)
.. o
..
Câu hỏi:
Khi đã chết, không ai
làm
hồi sinh được?
Đúng vậy. Do vậy,
Đức Phật dạy rằng
thân người là quý, và
quan tâm lớn nhất
là phải tu
giải thoát. Trong
Kinh Pháp Cú,
Bài Kệ 114 viết:
“Sống 100 năm
trong đời mà
không
nhận ra
Niết Bàn, không
bằng một ngày
trong đời của
người
nhận ra
Niết Bàn.”
Phần Tích truyện cho
bài kệ này kể về
cuộc đời
Ni trưởng
Kisagotami. Nguyên là vợ
của một
trưởng giả thành
Savatthi, khi đứa con
trai
duy nhất chết, bà
tuyệt vọng, đi
hỏi xem có ai có thể
giúp con bà
sống lại.
Nỗi buồn lớn tới
nổi làm bà
mất trí. Một
người nói với bà rằng
hãy tới gặp
Đức Phật.
Đức Phật noi rằng
ngài có thể làm đứa bé sống
lại, nếu bà tìm
được các hạt cải
(mustard) trắng từ một
gia đình chưa
từng có ai qua đời. Bà
ôm đứa con trước ngực,
đi gõ cửa nhà này sang
nhà kia,
tuyệt vọng vì
không thể
tìm ra nhà ai
chưa từng có người thân
chết. Bà
nhận ra rằng
không có nhà nào
thoát khỏi
nỗi buồn người
thân từ trần. Bà đưa xác
con vào rừng,
trở về trình với
Đức Phật, và
Đức Phật nói rằng
cái chết tới với tất cả
chúng sinh và
trước khi lòng tham
người ta
thỏa mãn, cái
chết tới mang họ đi. Bà
nghe như thế, tức khắc
đắc quả
Dự Lưu, xin
xuất gia. Và rồi
một
thời gian sau, bà
đắc quả
A La Hán.
Câu chuyện trên
chỉ có trong Luận thư,
phần
chú giải
Pháp Cú, không có
trong kinh nào khác, và
do vậy có
học giả nêu
nghi vấn là
chuyện kể được thêm vào,
vì Tích truyện trong
Luận thư
xuất hiện sau
Kinh Pháp Cú
khoảng 700 năm. Thêm
nữa, người ta khó
hình dung rằng
Đức Phật khuyên
một bà mẹ đang ôm xác
con hãy tới gõ cửa các
nhà trong thành phố để
hỏi xin hạt cải trắng…
một công việc đòi rất
nhiều
thể lực.
Trong khi đó, Kinh SN
5.3 có nói về
Ni trưởng
Kisagotami trong khi
ngồi thiền dưới
một gốc cây thì bị
Ác Ma xuất
hiện, quậy phá,
nhắc rằng bà từng khóc
sướt mướt khi đứa con
trai chết.
Ni trưởng
Kisagotami
trả lời
Ác Ma rằng bà đã
chinh phục đạo
binh
Tử Thần rồi,
không còn
nỗi buồn nào nữa
hết. (5)
.. o
..
Câu hỏi: Có
phải
ái dục làm cho
tâm
xao động để
chúng sanh
luân hồi theo
nghiệp?
Trong Kinh SN 1.57,
bản dịch TMC:
“—Cái gì sanh thành
người? Cái gì luôn dong
ruỗi? Cái gì chịu luân
hồi? Cái gì người nương
tựa?
—Ái dục sanh thành
người,
Chính tâm luôn
dong ruỗi,
Chúng sanh chịu
luân hồi,
Chính nghiệp,
người nương tựa.” (6)
.. o
..
Câu hỏi:
Làm sao để
tái sinh vào cõi
chư thiên?
Trong Kinh AN 8.36,
bản dịch TMC:
“Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có hạng người
căn bản làm phước
do
bố thí trên một
quy mô to lớn,
căn bản làm phước
do
giới đức trên một
quy mô to lớn, nhưng
không
đạt được
căn bản làm phước
do
tu tập. Người ấy,
sau khi thân hoại
mạng chung, được
sanh cọng trú với
chư Thiên ở
Tam thập Tam thiên.
Tại đây, này các
Tỷ-kheo,
Thiên chủ Sakka
sau khi làm thật nhiều
căn bản
phước nghiệp do
bố thí, sau khi
làm thật nhiều
căn bản
phước nghiệp do
giới đức,
vượt qua Bốn
thiên vương trên
mười điểm: tuổi thọ
chư Thiên, dung
sắc
chư Thiên,
an lạc
chư Thiên,
danh tiếng
chư Thiên,
Tăng thượng lực
chư Thiên, thiên
sắc,
thiên hương,
thiên vị, thiên
xúc.” (7)
.. o
..
Câu hỏi: Có
phải cách
bố thí
tốt hơn phẩm vật
bố thí?
Biết cách
bố thí sẽ được
tái sinh vào
cõi trời. Kinh DN
23 kể về cách
bố thí, bản dịch
TMC:
“Rồi
Tôn giả Gavampati
đi vào trong
thế giới
loài Người và nói
như sau: “Hãy
bố thí một cách
hoàn bị. Hãy
bố thí với tự tay
mình làm. Hãy
bố thí một cách
có suy tư. Hãy
bố thí các đồ
không phế thải. Tôn chủ
Pāyāsi, vì
bố thí không hoàn
bị, vì
bố thí không tự
tay mình làm, vì
bố thí không có
suy tư, vì
bố thí đồ phế
thải, sau khi thân hoại
mạng chung, được
sanh
nhập chúng với
Bốn Đại
Thiên vương,
trong cung điện trống
không của Serisaka. Còn
thanh niên Uttara, bị bỏ
qua trong một cuộc
bố thí này, vì đã
bố thí một cách
có hoàn bị, vì đã
bố thí với tự tay
mình làm, vì đã
bố thí một cách
suy tư, vì đã
bố thí với các đồ
không phế thải, sau khi
thân hoại
mạng chung, được
sanh lên
thiện thú,
Thiên giới,
nhập chúng với
chư Thiên ở Tam
thập tam thiên”…” (8)
.. o
..
Câu hỏi: Có
thể đoán được người này
hay người kia sẽ
tái sanh về đâu?
Đúng vậy. Muốn biết
người này, người kia
tái sanh vào cõi
dữ hay lành, chỉ cần
nhìn về
thân khẩu ý của
họ mà đoán. Kinh SN 6.57
ghi về hai đường
tái sinh
lành dữ, theo bản
dịch TMC:
“Người ấy do làm
ác hạnh về thân,
về lời, về ý, sau khi
thân hoại
mạng chung sanh
vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ,
địa ngục... Người
ấy do làm
thiện hạnh về
thân, về lời, về ý, sau
khi thân hoại
mạng chung sanh
vào cõi lành,
Thiên giới,
thế giới này...”
(9)
.. o
..
Câu hỏi: Ai
tái sanh?
Câu hỏi không
thích nghi. Không
nên nhìn như có ai, có
tôi, hay có người đang
sanh diệt, vì
thực sự không có cái gì
là ai, là tôi, hay là
người. Chỉ nên nhìn là
có mắt thấy và có
nhãn thức đang
sanh diệt…
tương tự với tai
nghe, mũi ngửi, lưỡi
nếm, thân chạm xúc, ý tư
lường đang
sanh diệt theo
luật
duyên khởi. Kinh
SN 35.33 viết, trích bản
TMC:
“—Này các Tỷ-kheo,
tất cả phải bị sanh. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào
là tất cả phải bị sanh?
Mắt, này các Tỷ-kheo,
phải bị sanh. Các sắc
phải bị sanh.
Nhãn thức phải bị
sanh. Nhãn xúc phải bị
sanh. Do duyên nhãn xúc
khởi lên
cảm thọ gì, lạc,
khổ hay bất khổ
bất lạc;
cảm thọ ấy phải
bị sanh … Tai … Mũi … …
Lưỡi … Thân … Ý phải bị
sanh. Các pháp phải bị
sanh.
Ý thức phải bị
sanh. Ý xúc phải bị
sanh. Do duyên ý xúc
khởi lên
cảm thọ gì, lạc,
khổ hay bất khổ
bất lạc;
cảm thọ ấy phải
bị sanh.
Thấy vậy, này các
Tỷ-kheo, bậc
Đa văn Thánh
đệ tử
nhàm chán đối với
mắt … ” … không còn trở
lui
trạng thái này
nữa”. (10)
.. o
..
Câu hỏi: Vì
sao tái sanh?
Chỉ vì
tham ái, vì
ưa thích, vì vui
với cái được thấy (được
nghe, được ngửi…) do vậy
khởi tâm có cái
tôi
ưa thích và dính
mắc vào cái được tôi ưa
thich (ngã,
ngã sở), từ đó
hình thành nên căn nhà
(thân/tâm) của
chúng sanh. Kinh
SN 23.2, trích bản TMC:
“Tôn giả Rādha bạch
Thế Tôn: “Chúng
sanh, chúng sanh”, bạch
Thế Tôn, được nói
đến như vậy.
Cho đến như thế
nào, bạch
Thế Tôn, được gọi
là chúng sanh?
—Này Rādha, dục nào
(chanda), tham nào, hỷ
nào,
khát ái nào đối
với sắc,
triền phược ở
đấy,
triền miên ở đấy,
do vậy gọi là
chúng sanh
(sattà)… thọ … tưởng …
các hành … Dục nào, tham
nào, hỷ nào,
khát ái nào đối
với thức,
triền phược ở
đấy,
triền miên ở đấy,
do vậy gọi là
chúng sanh.
Ví như, này
Rādha, các đứa con trai
hay các đứa con gái chơi
với cái nhà bằng đất.
Cho đến khi đối
với những nhà bằng đất
ấy, lòng tham chưa
thoát ly,
lòng dục chưa
thoát ly, lòng ái
chưa
thoát ly, lòng
khát chưa
thoát ly, lòng
nhiệt tình chưa
thoát ly, lòng
khát ái chưa
thoát ly,
thời chúng còn
tham dính vào, thích
chơi,
chất chứa, và đắm
trước những nhà bằng đất
ấy.” (11)
.. o
..
Câu hỏi:
Cái gì
nuôi dưỡng chúng
sanh?
Đó là bốn loại
thức ăn: thứ
nhất,
thực phẩm nuôi
thân mạng (edible
food); thứ nhì,
xúc thực, tức là
thế giới trong
tâm hình thành từ tiếp
cận căn-cảnh-thức
(sense-impressions); thứ
ba, tư
niệm thực hay là
hành (volitions); thứ
tư, là
thức thực
(consciousness). Nhưng
tất cả đều do ái mà ra.
Kinh SN 12.11, bản dịch
TMC viết, trích:
“Này các Tỷ-kheo, có
bốn loại đồ ăn này khiến
cho
các loại sanh vật
hay
các loại
chúng sanh được
tồn tại hay khiến
cho
các loại sắp sanh
thành được thọ sanh. Thế
nào là bốn? Một là
đoàn thực hoặc
thô hoặc tế, hai là
xúc thực, ba là
tư
niệm thực, bốn là
thức thực. Này
các Tỷ-kheo, bốn loại đồ
ăn này khiến cho
các loại sanh vật
hay khiến cho
các loại
chúng sanh được
tồn tại hay khiến
cho
các loại sắp sanh
thành được thọ sanh.
Và này các Tỷ-kheo,
bốn loại đồ ăn này do
cái gì làm nhân, do cái
gì
tập khởi, do cái
gì tác sanh, do cái gì
làm cho hiện hữu? Bốn
loại đồ ăn này do ái làm
nhân, do ái
tập khởi, do ái
tác sanh, do ái làm
hiện hữu.”(12)
.. o
..
Câu hỏi: Có
thể tiếp cận
thế giới mà không
đắm nhiễm, tức là
vô sanh, hay
không?
Có thể, đó là khi
thế giới
căn-cảnh-thức dựng lập,
mà không xem đó là
thức ăn. Chữ
“sắc” trong kinh dẫn sau
là
thế giới của
“sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp” (cái được
thấy, cái được nghe, cái
được ngửi, cái được nếm,
cái được chạm xúc, cái
được tư lường
suy nghĩ) –
nếu không
say đắm vị ngọt
của sắc (những cái thấy
nghe hay biết…) thì
không bị đắm chìm.
Tương tự với thọ,
tưởng, hành, thức.
Kinh SA 13, bản dịch
của hai thầy Tuệ Sỹ &
Thích Đức Thắng, trích:
“Nếu
chúng sanh nào
không nếm vị ngọt của
sắc thì sẽ không nhiễm
đắm sắc. Vì
chúng sanh nếm vị
ngọt của sắc cho nên bị
đắm trước.
“Cũng vậy,
chúng sanh nào
không nếm vị ngọt của
thọ, tưởng, hành, thức
thì
chúng sanh ấy
không bị đắm nhiễm thức.
Vì
chúng sanh nếm vị
ngọt của thọ, tưởng,
hành, thức cho nên
chúng sanh ấy bị
nhiễm trước vào
thức.” (13)
.. o
..
Câu hỏi:
thế giới này
sanh diệt thế
nào, tức là
tập khởi thế nào
và
đoạn diệt thế
nào?
Kinh SN 12.44, bản
dịch TMC viết:
“Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là
thế giới tập
khởi?
Do duyên con mắt và
các sắc,
nhãn thức khởi
lên. Do ba cái
tụ họp, nên có
xúc. Do duyên xúc nên có
thọ. Do duyên thọ nên có
ái. Do duyên ái nên có
thủ. Do duyên thủ nên có
hữu. Do duyên hữu nên có
sanh. Do
duyên sanh, nên
có già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não
sanh khởi. Đây là
thế giới
tập khởi.
Do duyên lỗ tai và
các tiếng… Do duyên lỗ
mũi và các hương… Do
duyên lưỡi và các vị… Do
duyên thân và các xúc…
Do duyên ý với các pháp,
ý thức khởi lên.
Do ba cái
tụ họp nên có
xúc. Do duyên xúc nên có
thọ… Do
duyên sanh nên
già chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não,
sanh khởi. Này
các Tỷ-kheo, đây là sự
tập khởi của
thế giới.
Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là
thế giới đoạn
diệt?
Do duyên con mắt và
các sắc,
nhãn thức khởi
lên. Do ba cái
tụ họp nên có
xúc. Do duyên xúc nên có
thọ. Do duyên thọ nên có
ái. Do sự
ly tham,
đoạn diệt ái ấy
một cách
hoàn toàn nên thủ
diệt. Do thủ diệt nên
hữu diệt… Đây là sự
đoạn diệt của
toàn bộ
khổ uẩn này. Đây
là
thế giới
đoạn diệt.
Do duyên lỗ tai và
các tiếng… Do duyên lỗ
mũi và các hương… Do
duyên lưỡi và các vị… Do
duyên thân và các xúc…”
(14)
.. o
..
Câu hỏi: Có
một thức
bất biến đã và
đang
luân chuyển kiếp
này sang kiếp kia trong
cuộc tái sanh?
Không, không hề có
thức
bất biến nào như
thế. Trong Kinh MN 38,
bản dịch TMC, trích:
“Tỷ-kheo tên là Sati
khởi
tà kiến: thức này
dong ruổi,
luân chuyển nhưng
không đổi khác.
Chư Tỷ-kheo, Ta đã
dùng nhiều
pháp môn nói thức
do
duyên khởi. Không
có duyên, thức không
hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh
cá, không những
xuyên tạc Ta vì
đã tự
chấp thủ
sai lạc, còn
tự pháp hoại mình
và tạo nên nhiều tổn
đức, và như vậy sẽ đưa
đến
bất hạnh và
đau khổ
lâu dài cho kẻ mê
mờ ấy...
...Này các Tỷ-kheo,
có ba sự
hòa hợp mà một
bào thai
thành hình: ở
đây,
cha mẹ có giao
hợp và người mẹ không
trong thời có thể thụ
thai, và
hương ấm
(gandhabba) không
hiện tiền, như
vậy
bào thai không
thể
thành hình. Ở
đây, cha và mẹ có giao
hợp, và người mẹ trong
thời có thể thụ thai,
nhưng
hương ấm
(gandhabba) không
hiện tiền, như
vậy
bào thai không
thể
thành hình. Và
này các Tỷ-kheo, khi nào
cha mẹ có giao
hợp, và người mẹ trong
thời có thể thụ thai, và
hương ấm có
hiện tiền; có ba
sự
hòa hợp như vậy,
thì
bào thai mới
thành hình.”
(15)
.. o
..
Câu hỏi: Có
trung ấm (giữa
đời này và
đời sau)
không, và cách nào để
vượt dòng sanh tử?
Có
trung ấm, tức
khoảng giữa đời này và
đời sau, nhưng
Kinh không nói
thời lượng
trung ấm. Cách
vượt thoát
sanh tử là lìa
chấp trước, không
dính mắc. Trong
Trung Bộ, Kinh MN
144, bản dịch TMC viết:
“Tôn giả Mahācunda
nói với
Tôn giả Channa:
—Do vậy, này
Hiền giả Channa,
lời dạy này của
Thế Tôn phải được
thường trực
tác ý: “Ai có
chấp trước là có
dao động. Ai
không chấp trước
là không có
dao động. Không
có
dao động, thời có
khinh an; có
khinh an thời
không có hy cầu (nati);
không có hy cầu thời
không có khứ lai; không
có khứ lai thời không có
tử sanh; không có tử
sanh thời không có đời
này, không có
đời sau, không có
giữa hai đời. Như
vậy là sự đoạn tận đau
khổ”. (16)
.. o
..
Câu hỏi:
Cái gì làm nhiên liệu
cho tái sanh? Khi
thân này đoạn tận trong
khi chưa thọ thân khác,
cái gì làm nhiên liệu
cho
trung ấm?
Sanh là do
chấp thủ, nhưng
tham ái vẫn luôn
luôn là nhiên liệu.
Trong Kinh SN 44.9, bản
dịch TMC viết, trích:
“Ví như, này Vaccha,
một ngọn lửa cháy đỏ khi
nào có nhiên liệu
(saupàdàna), không phải
không có nhiên liệu.
Cũng vậy, này Vaccha, Ta
tuyên bố về
sanh khởi đối với
người có
chấp thủ (sanh
y), không phải với người
không có
chấp thủ.
—Thưa
Tôn giả Gotama,
trong khi có gió thổi
ngọn lửa đi thật xa,
thời
Tôn giả Gotama
tuyên bố cái gì
làm nhiên liệu cho ngọn
lửa này?
—Này Vaccha, trong
khi có gió thổi ngọn lửa
đi thật xa, thời Ta nói
chính gió là nhiên liệu.
Trong khi ấy, này
Vaccha, chính gió là
nhiên liệu (upàdàna).
—Thưa
Tôn giả Gotama,
trong khi một loài
hữu tình
quăng bỏ thân này
để sanh vào một thân
khác, thời
Tôn giả Gotama
tuyên bố cái gì
làm nhiên liệu cho thân
này?
—Này Vaccha, trong
khi một loài
hữu tình
quăng bỏ thân này
và sanh vào một thân
khác, này Vaccha, Ta
tuyên bố rằng
trong khi ấy chính ái
(tanhà) là nhiên liệu
(upàdànam).” (17)
Bản Anh dịch của
Bhikkhu Bodhi, dùng chữ
cụ thể hơn, rằng
khi đã từ trần mà chưa
tái sanh:
“When, Vaccha, a
being has laid down
this body but has not
yet been reborn in
another body, I
declare that it is
fuelled by craving. For
on that occasion craving
is its fuel.” (Dịch:
Vaccha, khi một
chúng sanh
đã nằm thân này xuống
rồi, mà chưa
tái sanh trong
một thân khác,
ta nói rằng…) (17)
Ghi chú #382 nơi
trang 1456 của Bhikkhu
Bodhi trong bản sách
giấy
Tương Ưng Bộ cho
Kinh SN 44.9, nói rằng
lời dạy của
Đức Phật cho thấy
một khoảng trống
trung ấm giữa
thời điểm chết của thân
này và thời điểm
nhập thai cho
thân sau, và Kinh này
trái với kiểu
lý luận “tái sanh
tức khắc” của Theravada.
(17)
Bản Anh dịch của
Bhikkhu Sujato cũng
tương tự:
“When someone who
is attached has laid
down this body, Vaccha,
and has not been reborn
in one of the realms, I
say they’re fueled by
craving. For craving is
their fuel then.”
(17)
.. o
..
Câu hỏi: Có
phải
chúng sanh trong
cõi
trung ấm lang
thang vất vơ như
văn học dân gian
thường nói?
Trả lời rằng
không
nhất thiết,
bởi vì tất cả đều từ
hạnh nghiệp. Trong Kinh
DN 2,
Đức Phật
sử dụng
hình ảnh ngôi nhà
dụ cho thân người, khi
chết đi là rời nhà này
để vào nhà kia, nhưng
vẫn có những
chúng sanh chưa
vào nhà mới được, vẫn
còn (nơi
trung ấm) đang
“đi qua lại trên đường,
ngồi ở giữa ngã tư hay
trên đài thượng.” Người
trên đài thượng là bậc
thánh
được giải thoát
trong nơi
trung ấm, gọi là
Trung gian
Niết-bàn (Bhikkhu
Sujato: they’re
extinguished in-between
one life and the next).
Kinh DN 2, bản dịch
TMC viết, trích:
“Như vậy vị ấy với
thiên nhãn thuần
tịnh
siêu nhân thấy sự
sống chết của
chúng sanh. Vị ấy
biết rõ rằng
chúng sanh, người
hạ liệt kẻ cao
sang, người
đẹp đẽ kẻ thô
xấu, người
may mắn kẻ
bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của chúng.
Này
Đại vương,
ví như một tòa
lầu có thượng đài, giữa
ngã tư đường, một người
có mắt đứng trên ấy,
sẽ thấy những người
đi vào nhà, đi từ
nhà ra, đi qua lại trên
đường, ngồi ở giữa ngã
tư hay trên đài thượng.
Người ấy nghĩ: “Những
người này
đi vào nhà, những
người này đi từ nhà ra,
những người này đi qua
lại trên đường, những
người này ngồi giữa ngã
tư, trên đài thượng”.
Cũng vậy, này
Đại vương với
tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không
cấu nhiễm, không
phiền não,
nhu nhuyến, dễ
sử dụng,
vững chắc, bình
thản như vậy, Tỷ-kheo
dẫn tâm, hướng tâm đến
trí tuệ về
sanh tử của
chúng sanh. Vị ấy
với
thiên nhãn thuần
tịnh,
siêu nhân, thấy
sự sống và chết của
chúng sanh.”
(18)
.. o
..
Câu hỏi: Có
phương pháp nhanh
chóng nào để
giải thoát, không
còn vướng
gì nữa
trong đời này,
đời sau và đời
chặng giữa (trung
ấm)?
Câu
trả lời là có
Thiền pháp như
thế.
Đức Phật nói
trong Kinh Bahiya (Ud
1.10),
ngôn ngữ rất
minh bạch về đời
chặng giữa, bản TMC:
“- Vậy này Bàhiya,
Ông
cần phải học tập
như sau: "Trong cái
thấy, sẽ chỉ là cái
thấy. Trong cái nghe, sẽ
chỉ là cái nghe. Trong
cái thọ tưởng, sẽ chỉ là
cái thọ tưởng. Trong cái
thức tri, sẽ chỉ là các
thức tri ". Như vậy,
nàyBàhiya, Ông
cần phải học tập.
Vì rằng, này Bàhiya, nếu
với Ông, trong cái thấy,
sẽ chỉ là cái thấy;
trong cái nghe, sẽ chỉ
là cái nghe; trong cái
thọ tưởng, sẽ chỉ là cái
thọ tưởng; trong cái
thức tri, sẽ chỉ là cái
thức tri. Do vậy, này
Bàhiva, ông không là chỗ
ấy. Vì rằng, này Bàhiya,
Ông không là đời này,
không là
đời sau, không là
đời chặng giữa. Như
vậy là đoạn
tận khổ đau.”
(19)
Lời
Đức Phật rất
minh bạch rằng có
một đời chặng
giữa --
chúng ta quen gọi
là
trung ấm. Cuối
bài sẽ dẫn thêm ba bản
tiếng Anh của Kinh
Bahiya.
.. o
..
Câu hỏi:
Khi
Tôn giả
Màlukyaputta nói rằng tự
thấy mình già rồi, nên
xin
Đức Phật
thuyết pháp
vắn tắt để tự
thân khẩn cấp tu
giải thoát,
Đức Phật dạy pháp
nào?
Tương tự như Kinh
trên, Kinh Màlukyaputta
Sutta trích như sau,
cũng nói về cõi
trung ấm:
“—Bạch
Thế Tôn, dầu cho
con già yếu, niên cao,
đại lão, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã
đến cuối
cuộc đời, mong
Thế Tôn hãy
thuyết pháp
vắn tắt cho con!
Mong
Thiện Thệ hãy
thuyết pháp
vắn tắt cho con!
Chắc chắn con sẽ
hiểu ý nghĩa lời
Thế Tôn giảng.
Chắc chắn con sẽ
trở thành người
thừa
tự pháp của
Thế Tôn...
…này Màlukyaputta,
đối với các pháp được
thấy, được nghe, được
cảm nhận, được biết đến,
Ông sẽ chỉ thấy được với
những vật thấy được, chỉ
nghe được với
những vật
nghe được, chỉ
cảm nhận được đối với
những vật cảm nhận được,
chỉ
nhận biết được
đối với những vật
nhận biết được.
Cho nên, này
Màlukyaputta, Ông không
có vì cái ấy. Do vì, này
Màlukyaputta, Ông không
có vì cái ấy, nên Ông
không có: “Ở nơi đây”.
Do vì, này Màlukyaputta,
Ông không có: “Ở nơi
đây”, do vậy, này
Màlukyaputta, Ông sẽ
không có đời này,
đời sau, và giữa
hai đời ấy. Đây là
sự
chấm dứt khổ
đau.” (20)
.. o
..
Câu hỏi:
Thường nghe nhiều thầy
nói về pháp tu
vô sở trụ (không
chấp trước –
không trụ vào
sắc thanh hương
vị xúc pháp), xin hỏi
pháp này có vượt
sinh tử
cả đời này,
đời sau, và
đời chặng giữa hay
không?
Đó cũng là pháp đoạn
tận khổ đau ngay
ở đây và bây giờ,
chủ đề của
Kinh Kim Cang.
Kinh MN 144 cũng nhắc về
đời này,
đời sau, và đời
chặng giữa, bản TMC
trích:
“Tôn giả Mahācunda
nói với
Tôn giả Channa:
—Do vậy, này
Hiền giả Channa,
lời dạy này của
Thế Tôn phải được
thường trực
tác ý: “Ai có
chấp trước là có
dao động. Ai
không chấp trước
là không có
dao động. Không
có
dao động, thời có
khinh an; có
khinh an thời
không có hy cầu (nati);
không có hy cầu thời
không có khứ lai; không
có khứ lai thời không có
tử sanh; không có tử
sanh thời không có đời
này, không có
đời sau, không có
giữa hai đời. Như
vậy là sự đoạn tận đau
khổ”. (21)
.. o
..
Câu hỏi: Có
thể
giải thoát nơi
trung ấm hay
không?
Rất là
hy hữu. Một số vị
vào được
Niết Bàn nơi
trung ấm thân,
khi chết là vào
Thánh vị
A Na Hàm và từ
đây vào
Trung gian
Niết bàn. Kinh AN
7.55, bản dịch TMC viết,
trích:
“Tỷ-kheo trong khi
thực hành như vậy
suy nghĩ như sau:
“Nếu cái này không có,
cái này có
thể không phải
của ta. Nếu cái này sẽ
không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái
gì có, cái gì được
thành, ta đều từ bỏ”. Vị
ấy có được xả. Vị ấy
không tham đắm
sanh hữu, không
tham đắm
tích tụ của hữu;
với
chánh trí tuệ, vị
ấy thấy có
con đường
vô thượng
tịch tịnh. Vị ấy
chưa
chứng ngộ
trọn vẹn
hoàn toàn
con đường ấy. Vị
ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn
hoàn toàn mạn
tùy miên. Vị ấy
chưa đoạn tận
trọn vẹn
hoàn toàn
hữu tham
tùy miên. Vị ấy
chưa đoạn tận
trọn vẹn
hoàn toàn
vô minh
tùy miên. Do diệt
tận năm hạ phần
kiết sử, vị ấy
chứng được
Trung gian
Niết-bàn.
Ví như, này các
Tỷ-kheo, một cái bát
bằng sắt được đốt cháy
cả ngày và được đập
đánh, một miếng vụn có
thể văng ra và
trở thành nguội
lạnh. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong
khi
thực hành,
suy nghĩ như sau:
“Nếu cái này không có,
cái này có
thể không phải
của ta. Nếu cái này sẽ
không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái
gì có, cái gì được
thành, ta đều từ bỏ”. Vị
ấy có được xả, vị ấy
không tham đắm hữu,
không tham đắm
hậu hữu; với
chánh trí tuệ, vị
ấy thấy có
con đường
vô thượng
tịch tịnh. Và vị
ấy chưa
chứng ngộ
trọn vẹn
hoàn toàn
con đường ấy. Vị
ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn
hoàn toàn mạn
tùy miên. Vị ấy
chưa đoạn tận
trọn vẹn
hoàn toàn
hữu tham
tùy miên. Vị ấy
chưa đoạn tận
trọn vẹn
hoàn toàn
vô minh
tùy miên. Do diệt
tận năm hạ phần
kiết sử, vị ấy
chứng được
Trung gian
Niết-bàn.”(22)
Bản tiếng Anh của
Bhikkhu Sujato nói rõ
hơn: With the ending
of the five lower
fetters they’re
extinguished in-between
one life and the next.
(Dịch: Do diệt tận năm
hạ phần
kiết sử, các vị
này vào
Niết bàn nơi
thân trung ấm
khoảng giữa đời này và
đời sau.) (22)
.. o
..
Câu hỏi:
Chúng ta nên làm
gì để giúp tất cả các
chúng sanh, trong
đó có
cha mẹ nhiều đời
của
chúng ta, trong
thân trung ấm, vì
họ có thể đang “đi từ
nhà cũ ra mà chưa tìm
được nhà mới, đang đi
qua lại trên đường, hay
đang ngồi ở giữa ngã tư”
với
nghiệp thức bất
định?
Xin mạn phép
trả lời rằng nên
hàng ngày
tụng Kinh
Từ Bi (Metta
Sutta).
Bản kinh ngắn này
cũng có thể dùng cho
pháp
Thiền Tâm Từ,
trong đó
Đức Phật dạy là
hãy nguyện
bình an cho tất
cả mọi loài, kể cả
những loài sắp sinh
(hiểu là trong
thân trung ấm).
Đây cũng là một trong
những
bản kinh xưa
nhất, khi
chư tăng còn phải
sống nơi góc rừng, chân
núi – ký số
Kinh Từ Bi trong
nhóm
Kinh Tập ghi là
Sutta Nipata I.8.
Trích
Kinh Từ Bi, bản
dịch của Thầy Thích
Nhất Hạnh:
“Và đây là điều họ
luôn luôn
tâm niệm:
Nguyện cho
mọi người và mọi
loài đươc sống trong
an toàn và
hạnh phúc, tâm tư
hiền hậu và
thảnh thơi.
Nguyện cho tất cả các
loài sinh vật trên trái
đất đều được sống
an lành, những
loài yếu, những loài
mạnh, những loài cao,
những loài thấp, những
loài lớn, những loài
nhỏ, những loài ta có
thể nhìn thấy, những
loài ta không thể nhìn
thấy, những loài ở gần,
những loài ở xa, những
loài đã sinh và
những loài sắp sinh.
Nguyện cho đừng loài
nào
sát hại loài nào,
đừng ai coi nhẹ
tính mạng của ai,
đừng ai vì giận hờn hoặc
ác tâm mà mong
cho ai bị
đau khổ và khốn
đốn.
Như một bà mẹ đang
đem
thân mạng mình
che chở cho đứa
con
duy nhất,
chúng ta hãy đem
lòng từ bi mà đối
xử với tất cả mọi loài…”
(23)
Trong các bản tiếng
Anh cũng chỉ mang một
nghĩa
cụ thể là
thân trung ấm:
Andy Olendzki dịch
là: Whether born
already or not yet born
(dù đã sanh hay chưa
sanh);
Amaravati Sangha
dịch: Those born and
to-be-born (những ai
đã sanh và sắp sanh);
Ven. Khantipalo dịch:
those that are here,
those seeking to exist
(những
chúng sanh nơi
đây, và những
chúng sanh đang
tìm nơi sanh).
Có 19 bản dịch tiếng
Anh Kinh Metta Sutta
cũng ghi nối kết ở
(23).
Thêm nữa,
Kinh Từ Bi nên
tụng hàng ngày,
Thiền Tâm Từ nên
tập hàng ngày, không chỉ
để
cầu nguyện cho
cha mẹ nhiều đời
trong
thân trung ấm và
tất cả các
chúng sanh
ba cõi, mà còn vì
lời
Đức Phật dạy rằng
cúng dường
Đức Phật và hàng
trăm bậc Thánh, rằng xây
chùa và dâng cúng
Tam Bảo cũng
không có
phước đức bằng “có
ai dầu chỉ trong một
khoảnh khắc vắt sữa bò,
tu tập từ tâm… và
có ai dầu chỉ trong một
khoảnh khắc búng ngón
tay,
tu tập
tưởng vô thường.”
(Kinh AN 9.20) (24)
Do vậy, hàng ngày
tụng Kinh
Từ Bi,
tu Thiền
Tâm Từ cũng là
một cách cúng vong
tuyệt vời nhất
vậy.
Nguyên Giác
(Thư Viện Hoa Sen)
GHI CHÚ:
(1) Kinh DN 32, bản
Việt:
https://suttacentral.net/dn32/vi/minh_chau
- bản Anh (Bhikkhu
Sujato):
https://suttacentral.net/dn32/en/sujato
(2) Kinh AN 10.177:
https://suttacentral.net/an10.177/vi/minh_chau
(3) Kinh SA 1041:
https://suttacentral.net/sa1041/vi/tue_sy-thang
(4) Kinh Snp 3.8:
https://suttacentral.net/snp3.8/en/mills
(5) Kinh SN
5.3:
https://suttacentral.net/sn5.3/vi/minh_chau
(6) Kinh SN 1.57:
https://suttacentral.net/sn1.57/vi/minh_chau
(7) Kinh AN 8.36:
https://suttacentral.net/an8.36/vi/minh_chau
(8) Kinh DN 23:
https://suttacentral.net/dn23/vi/minh_chau
(9) Kinh AN 6.57:
https://suttacentral.net/an6.57/vi/minh_chau
(10) Kinh SN 35.33:
https://suttacentral.net/sn35.33-42/vi/minh_chau
(11) Kinh SN 23.2:
https://suttacentral.net/sn23.2/vi/minh_chau
(12) Kinh SN 12.11:
https://suttacentral.net/sn12.11/vi/minh_chau
(13) Kinh SA 13:
https://suttacentral.net/sa13/vi/tue_sy-thang
(14) Kinh SN 12.44:
https://suttacentral.net/sn12.44/vi/minh_chau
(15) Kinh MN 38:
https://suttacentral.net/mn38/vi/minh_chau
(16) Kinh MN 144:
https://suttacentral.net/mn144/vi/minh_chau
(17) Kinh SN 44.9,
bản của HT Thích
Minh Châu: https://suttacentral.net/sn44.9/vi/minh_chau
bản Bhikkhu Bodhi:
https://suttacentral.net/sn44.9/en/bodhi
Note #382 của
Bhikkhu Bodhi: “Tam ahaṃ
taṇhūpādānaṃ vadāmi. The
Buddha’s statement seems
to imply that a temporal
gap can intervene
between the death moment
and reconception. Since
this contradicts
Theravāda orthodoxy, Spk
contends that at the
death moment itself the
being is said to be “not
yet reborn” because the
rebirth-consciousness
has not yet arisen.” (The
Connected Discourses of
the Buddha: A New
Translation of the
Samyutta Nikaya)
bản Bhikkhu Sujato: https://suttacentral.net/sn44.9/en/sujato
(18) Kinh DN 2: https://suttacentral.net/dn2/vi/minh_chau
(19) Kinh Bahiya: https://thuvienhoasen.org/a25130/kinh-bahiya
Bản của Bhikkhu
Anandajoti: Bāhiya, you
will not be here or
hereafter or in between
the two—just this is the
end of suffering.”
https://suttacentral.net/ud1.10/en/anandajoti
Bản của Ireland:
then, Bahiya, you will
be neither here nor
beyond nor in between
the two. Just this is
the end of suffering."
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.1.10.irel.html
Bản của Thanissaro
Bhikkhu: When there is
no you there, you are
neither here nor yonder
nor between the two.
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.1.10.than.html
(20) Kinh
Màlukyaputta Sutta:
https://suttacentral.net/sn35.93/vi/minh_chau
(21) Kinh MN 144:
https://suttacentral.net/mn144/vi/minh_chau
(22) Kinh AN 7.55,
bản HT Thích
Minh Châu:
https://suttacentral.net/an7.55/vi/minh_chau
Bản Bhikkhu Sujato:
https://suttacentral.net/an7.55/en/sujato
(23)
Kinh Từ Bi, bản
dịch HT
Nhất Hạnh:
https://thuvienhoasen.org/a10456/kinh-tu-bi-metta-sutta
Nhóm 19 bản Anh dịch
Metta Sutta:
http://www.leighb.com/mettasuttas.htm
(24) Kinh AN 9.20:
https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau