Bàn về chín pháp tịnh diệt trong kinh Trường A-hàm
ban ve
Bàn về chín pháp tịnh diệt
trong kinh Trường A-hàm
Trong toàn bộ kinh điển thuộc
Đại tạng kinh Đại chánh tân tu, cụm từ ‘tịnh diệt chi’ (淨滅枝/支)
chỉ xuất hiện 20 lần và chỉ có trong hai kinh số 10 và 11 thuộc Trường A-hàm,
đó là kinh Thập thượng và kinh Tăng nhất.
Cả hai bản kinh, trong phần
chín pháp, đã cùng nói ‘có chín pháp đưa đến nhiều thành tựu’ và gọi tên
là ‘cửu tịnh diệt chi pháp’ (九淨滅枝法),
với nội dung như sau:
云何九成法?謂九淨滅枝法:戒淨滅枝、心淨滅枝、見淨滅枝、度疑淨滅枝、分別淨滅枝、道淨滅枝、除淨滅枝、無欲淨滅枝、解脫淨滅枝。
Với mục đích để cho người học
Phật đọc, hiểu và thực hành được lời dạy của Đức Phật dễ dàng hơn, chúng tôi xin
được chia sẻ cách hiểu về tên gọi và nội dung của chín pháp này.
1. Về tên gọi
Cho đến thời điểm này, các
bản Việt dịch kinh Trường A-hàm, vẫn chưa thống nhất khi dịch‘cửu tịnh
diệt chi pháp’ là ‘chín tịnh diệt pháp’, hoặc ‘chín chi tịnh diệt’,
hoặc ‘chín tịnh cần chi’.
Hai cách dịch trước chưa rõ
nghĩa, khó hiểu, vì chưa nói rõ tịnh diệt có nghĩa là gì. Cách dịch sau là hiểu
nó bằng một cụm từ khác, do bởi dịch giả cho rằng, ‘tịnh diệt chi’ tương
đương với ‘tịnh cần chi’ - từ được đề cập đến trong chín pháp cần tu tập
của kinh số 34, kinh Thập thượng thuộc Trường bộ Nikāya - đồng
thời chú thích là ‘thành phần cần nỗ lực để thanh tịnh’. Nhờ chú thích
này, chúng ta có thể hiểu ‘cửu tịnh diệt chi pháp’ là ‘chín phần thành
cần nỗ lực tu tập để thanh tịnh.’
Thực ra, ‘tịnh diệt’ (淨滅),
có nghĩa là diệt hết, diệt hết hoàn toàn, diệt sạch, thanh tịnh, thanh tịnh vắng
lặng, thanh tịnh hoàn toàn. Như vậy, ‘cửu tịnh diệt chi pháp’ có thể hiểu
là chín pháp diệt sạch phiền não lậu hoặc đưa đến thanh tịnh hoàn toàn, tức
‘chín pháp thanh tịnh’, hay ‘chín pháp thanh tịnh hoàn hoàn’.
Để hiểu rõ hơn về cụm từ này,
chúng ta cần tìm hiểu nội dung của nó.
2. Về nội dung
Trước hết, để tham khảo,
chúng ta cùng đọc lại hai bản dịch về nội dung chín pháp này.
- Bản dịch 1:
“Thế nào là chín pháp đưa đến
nhiều thành tựu? Đó là chín pháp tịnh diệt chi: một, giới tịnh diệt chi; hai,
tâm tịnh diệt chi; ba, kiến tịnh diệt chi; bốn, độ nghi tịnh diệt chi; năm, phân
biệt tịnh diệt chi; sáu, đạo tịnh diệt chi; bảy, trừ tịnh diệt chi; tám, vô dục
tịnh diệt chi; chín, giải thoát tịnh diệt chi.”
- Bản dịch 2:
“Thế nào là chín thành pháp?
Đó là chín tịnh cần chi: giới tịnh cần chi, tâm tịnh cần chi, kiến tịnh cần chi,
độ nghi tịnh cần chi, phân biệt tịnh cần chi, đạo tịnh cần chi, trừ tịnh cần
chi, vô dục tịnh cần chi, giải thoát tịnh cần chi.”
Với cách hiểu cụm từ ‘tịnh
diệt chi’ đã nêu trên, chúng tôi đề nghị một cách dịch khác, như sau:
“Thế nào là chín pháp đưa đến
nhiều thành tựu? Đó là chín pháp thanh tịnh hoàn toàn: Thanh tịnh hoàn toàn do
giới, thanh tịnh hoàn toàn do tâm định, thanh tịnh hoàn toàn do thấy biết chân
lý, thanh tịnh hoàn toàn do đoạn trừ sự hoài nghi, thanh tịnh hoàn toàn do thấy
biết chánh đạo và phi đạo, thanh tịnh hoàn toàn do thấy biết về phương pháp hành
trì, thanh tịnh hoàn toàn do nhận thức toàn diện về đường lối hành trì, thanh
tịnh hoàn toàn do dứt sạch lậu hoặc và thanh tịnh hoàn toàn do giải thoát.”
Để xác tín cách hiểu này,
chúng tôi căn cứ vào những kinh văn có nội dung tương đồng chín pháp kể trên.
3. Cơ sở kinh văn
Kinh Thất xa, số 9
Trung A-hàm, đã lấy ví dụ bảy trạm xe để làm phương tiện di chuyển nhanh nhất từ
Xá-vệ đến Sa-kê-đế nhằm chỉ rõ lộ trình tu tập cũng đi qua bảy giai đoạn, đó là:
giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, nghi cái tịnh, đạo phi đạo tri kiến tịnh, đạo
tích tri kiến tịnh, đạo tích đoạn trí tịnh. Kinh ghi: “Vì giới thanh tịnh mà
tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh, vì tri kiến thanh
tịnh nên nghi cái thanh tịnh, vì nghi cái thanh tịnh, nên đạo phi đạo tri kiến
thanh tịnh, vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh nên đạo tri kiến thanh tịnh, vì
đạo tích tri kiến thanh tịnh nên đạo tích đoạn trí thanh tịnh, vì đạo tích đoạn
trí thanh tịnh nên Thế Tôn thi thiết Vô dư Niết-bàn.”[2]
Kinh tạng Pāli tương đương,
đó là kinh Trạm xe, số 24 Trung bộ Nikāya, cũng ghi chép tương tự:
“Này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh;
tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh
chỉ có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ có
mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo tri kiến
thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến
thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh
tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả,
sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước
Bát-niết-bàn.”[3]
Cùng nội dung trên, kinh
Tăng nhất A-hàm, phẩm Đẳng pháp 39, cũng ghi nhận như vậy[4]:
giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến thanh tịnh, vô do dự thanh tịnh, hành tích
thanh tịnh, đạo thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh.
Kinh được xem là tương đương
với kinh Thập thượng và Tăng nhất trong hệ thống kinh tạng Nam
truyền là kinh Thập thượng, số 34 của Trường bộ Nikāya, cùng có
nội dung chín pháp, nhưng được xếp vào ‘chín pháp cần tu tập’,
như sau: “Thế
nào là chín pháp cần phải tu tập? Chín thanh tịnh cần chi: Giới hạnh thanh tịnh
thanh
tịnh cần chi, tâm thanh tịnh thanh tịnh cần chi, kiến thanh tịnh thanh tịnh cần
chi,
đoạn nghi
thanh tịnh thanh tịnh cần chi, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh thanh tịnh cần
chi, đạo tích trí kiến
thanh tịnh thanh tịnh cần chi,
tri
kiến
thanh tịnh thanh tịnh cần chi, tuệ thanh tịnh thanh tịnh
thanh tịnh
cần chi, giải thoát thanh tịnh
thanh
tịnh cần chi. Như vậy là chín pháp cần được tu tập.”[6]
So sánh các bản kinh trên với
kinh Thập thượng và Tăng nhất của Trường A-hàm, chúng ta có
bảng:
Trường A-hàm |
Trung A-hàm |
Tăng nhất A-hàm |
Trung bộ kinh |
Trường bộ kinh |
Giới tịnh diệt |
Giới tịnh |
Giới thanh tịnh |
Giới thanh tịnh
(sīlavisuddhi) |
Giới thanh tịnh thanh
tịnh cần chi |
Tâm tịnh diệt |
Tâm tịnh |
Tâm thanh tịnh |
Tâm thanh tịnh
(cittavisuddhi) |
Tâm thanh tịnh thanh
tịnh cần chi |
Kiến tịnh diệt |
Kiến tịnh |
Kiến thanh tịnh |
Kiến thanh tịnh
(diṭṭhivisuddhi) |
Kiến thanh tịnh thanh
tịnh cần chi |
Độ nghi tịnh diệt |
Nghi cái tịnh |
Vô do dự thanh tịnh |
Độ nghi thanh tịnh
(kaṅkhāvitaraṇavisuddhi) |
Đoạn nghi thanh tịnh
thanh tịnh cần chi |
Phân biệt tịnh diệt |
Đạo phi đạo tri kiến
tịnh |
Hành tích thanh tịnh |
Đạo phi đạo trí kiến
thanh tịnh
(maggāmaggañā
ṇadassanavisuddhi) |
Đạo
phi đạo tri kiến thanh tịnh thanh tịnh cần chi |
Đạo tịnh diệt |
Đạo tích tri kiến
tịnh |
Đạo thanh tịnh |
Đạo tích trí kiến
thanh tịnh
(paṭipadāñāṇadassanavisuddhi) |
Đạo tích trí kiến
thanh tịnh thanh tịnh cần chi |
Trừ tịnh diệt |
Đạo tích đoạn trí
tịnh |
Tri kiến thanh tịnh |
Trí kiến thanh tịnh
(ñāṇadassanavisuddhi) |
Tri kiến thanh tịnh
thanh tịnh cần chi |
Vô dục tịnh diệt |
|
|
|
Tuệ thanh tịnh thanh
tịnh cần chi |
Giải thoát tịnh diệt |
|
|
|
Giải thoát thanh tịnh
thanh tịnh cần chi |
Như vậy, ngoài hai pháp cuối
cùng là ‘vô dục tịnh diệt’ và ‘giải thoát tịnh diệt’, bảy pháp còn
lại trong kinh Thập thượng và Tăng nhất của Trường A-hàm
đồng nhất với bảy pháp thanh tịnh của các bản kinh kia. Điều đáng chú ý là, cho
dù được xếp vào thành phần ‘cần phải tu tập’, thì nội dung chín pháp
trong kinh Thập thượng của Trường bộ Nikāya - là kinh tương đương
với Thập thượng và Tăng nhất của Trường A-hàm - là đồng
nhất với ‘chín pháp đưa tới nhiều thành tựu’, bởi những thành phần cần
phải nỗ lực tu tập này đều nhằm đạt được mục đích thanh tịnh. Dĩ nhiên, ‘vô
dục tịnh diệt’ chính là ‘tuệ thanh tịnh thanh tịnh cần chi’ và
‘giải thoát tịnh diệt’ chính là ‘giải thoát thanh tịnh thanh tịnh cần
chi.’
Nếu chúng ta lấy tam vô lậu
học giới, định, tuệ để xem xét bảy pháp thanh tịnh thì, ‘giới thanh tịnh’
thuộc về giới học vô lậu; ‘tâm thanh tịnh’ thuộc về định học vô lậu; từ
‘kiến thanh tịnh’ đến ‘đạo tích tri kiến thanh tịnh’ thuộc về tuệ
học vô lậu. Còn ‘đạo tích đoạn trí thanh tịnh’ dĩ nhiên là thành tựu mục
tiêu đạt được giải thoát tối hậu, tức vô dư niết-bàn. Như vậy, ‘vô dục thanh
tịnh’ (tức tuệ thanh tịnh thanh tịnh cần chi) và ‘giải thoát thanh tịnh’
(tức giải thoát thanh tịnh thanh tịnh cần chi) phải chăng là sự tập thành không
cần thiết? Không hẳn, bởi cũng có thể thời đại kết tập kinh Trường A-hàm
và Trường bộ kinh đã cho rằng ‘đạo tích đoạn trí thanh tịnh’ hoặc
‘trí kiến thanh tịnh’ vẫn chưa đạt đến cảnh giới viên mãn, cho nên mới
thêm vào hai pháp sau cùng như thế! Bởi chính Trung A-hàm số 9, kinh
Thất xa, đã nói: “Vì đạo tích đoạn trí thanh tịnh mà Thế Tôn Sa-môn
Cù-đàm thi thiết Vô dư Niết-bàn, thì tức là lấy hữu dư mà gọi là vô dư”; và
cũng chính Trung bộ số 24, kinh Trạm xe, cũng nói: “Hiền giả,
nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài
cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước
Bát-niết-bàn.”
4. Giải thích từ luận tạng
Thành thật luận,
mục bảy pháp thanh tịnh, đã giải thích như sau:
- Giới thanh tịnh nghĩa là
luật nghi thanh tịnh.
- Tâm thanh tịnh tức là đạt
được thiền định.
- Kiến thanh tịnh nghĩa là
đoạn trừ thân kiến.
- Độ nghi thanh tịnh nghĩa là
đoạn trừ nghi kết.
- Phân biệt thanh tịnh nghĩa
là đoạn trừ giới cấm thủ.
- Đạo thanh tịnh nghĩa là tư
duy Bát Thánh đạo.
- Trừ thanh tịnh nghĩa là Vô
học đạo.
Du-già sư địa luận,
phần Nhiếp sự, giải thích:
- Tỳ-kheo an trú trọn vẹn nơi
giới, giữ gìn biệt giải thoát luật nghi, nếu muốn hiểu rộng thì phải đọc trong
phần học địa của Thanh văn. Vị ấy nhờ giữ giới trọn vẹn như thế nên không còn
hối tiếc. Nếu giải thích rộng, nghĩa là người này tâm đã đạt được chánh định,
dần dần dẫn đến an trú đầy đủ nơi bốn thiền. Vị ấy khi đã đạt được định tâm như
thế lần hồi sẽ an trú bất động, chất trực, nhu nhuyến, thú hướng đến chỗ tâm
định mà chứng đắc lậu tận trí thông, chứng nhập hiện quán Bốn Thánh đế, đoạn hết
thân kiến và tất cả mọi phiền não do chấp ngã mà có, đạt được chánh kiến vô lậu
của bậc hữu học. Do đạt được chánh kiến, nên đối với chân lý khổ, tập, diệt, đạo
cũng như Phật, Pháp và Tăng vĩnh viễn đoạn sạch nghi hoặc; do đã đoạn sạch nghi
hoặc nên vượt qua sự do dự, nghi ngờ, vì vậy mà gọi là độ nghi thanh tịnh.
Lại nữa, đối với chánh đạo
chánh kiến mà trước đây mình đã thực hành, biết đúng như thật đó là chánh đạo,
nhờ vậy mà có thể đoạn kiến sở đoạn, sau đó đoạn tu sở đoạn; đồng thời, đối với
phi đạo tà kiến mà trước đây mình đã thực hành, cũng biết rõ đó là phi đạo. Như
vậy, đối với chánh đạo và
phi đạo đã khéo léo phân biệt rồi, liền xa lìa phi đạo, thực hành chánh đạo,
gọi đó là phân biệt thanh tịnh.
Lại nữa, đối với bốn thứ đạo
tích trên con đường đạo, cần phải hiểu biết như thật, đó là: khổ tu, chậm chứng;
khổ tu, nhanh chứng; lạc tu, chậm chứng; lạc tu, nhanh chứng. Như thế gọi là đạo
thanh tịnh.
Đối với đạo tích như vậy, nếu
muốn hiểu rộng thì phải đọc trong phần học địa của Thanh văn. Đối với đạo tích
này, cần phải hiểu biết như thật, nghĩa là trước hết phải đoạn trừ tất cả đạo
tích, tức là phải siêu việt lên nó, chứ không phải chỉ đoạn trừ những phiền não
trói buộc. Dù vậy, bước đầu tu tập, hiểu biết như thật có nghĩa là đoạn trừ một
phần của đạo tích, tức đoạn trừ khổ tu, chậm chứng; lạc tu, chậm chứng. Sau khi
đã hiểu biết như thật vậy rồi, thì y cứ nơi đạo tích khổ tu, nhanh chứng và lạc
tu, nhanh chứng mà tinh cần tu tập. Từ đó, tu tập không gián đoạn, vĩnh viễn
diệt trừ mọi lậu hoặc, ngay trong đời này mà chứng đắc Vô tạo cứu cánh Niết-bàn;
sau khi thân hoại mạng chung thì chứng Vô dư y Bát-niết-bàn. Đây gọi là trừ
thanh tịnh.
Hiển dương Thánh giáo luận,
phẩm Nhiếp sự, giải thích:
- Giới thanh tịnh nghĩa là,
như có người khéo an trụ nơi giới luật, thủ hộ giới biệt giải thoát, giữ gìn oai
nghi đúng như pháp, hành xử theo luật nghi, với tội nhỏ đã thấy sợ hãi lớn,
siêng năng thọ trì học xứ. Đó là giới thanh tịnh.
- Tâm thanh tịnh nghĩa là,
nhờ giữ giới thanh tịnh nên xa lìa tham dục và các pháp bất thiện, an trú đầy đủ
nơi sơ thiền, nhị, tam, tứ thiền. Đó là tâm thanh tịnh.
- Kiến thanh tịnh nghĩa là,
khi tâm đã thanh tịnh, trắng sạch, vô nhiễm, xa lìa mọi phiền não, an trú bất
động, vì muốn chứng đắc trí lậu tận nên quán sát Tứ đế, hiểu biết đúng như thật
đây là khổ thánh đế, đây là khổ tập thánh đế, đây là khổ diệt thánh đế, đây là
hướng đến khổ diệt hành đạo thánh đế. Đó là kiến thanh tịnh.
- Độ nghi thanh tịnh nghĩa
là, nhờ kiến thanh tịnh, nên đối với Phật, Pháp, Tăng không còn tâm nghi ngờ.
- Đạo phi đạo trí kiến thanh
tịnh nghĩa là, nhờ độ nghi thanh tịnh mà có được thấy biết như chánh trí, chỉ có
pháp do Phật dạy, Tăng thực hành mới có thể đạt được giải thoát. Điều này có
nghĩa là gì? Nghĩa là chỉ có Phật pháp mới có thể chấm dứt hoàn toàn khổ đau,
chứng đắc khổ diệt hoàn toàn, còn pháp của ngoại đạo thì không được như thế.
- Đạo tích trí kiến thanh
tịnh nghĩa là, nhờ Đạo phi đạo trí kiến thanh tịnh có được thấy biết như chánh
trí, biết rõ đạo giải thoát có bậc thấp, bậc vừa, bậc cao. Bậc thấp tức là khổ
tu mà chứng chậm. Bậc vừa tức là khổ tu mà nhanh chứng và lạc tu mà chậm chứng.
Bậc cao tức là lạc tu mà nhanh chứng.
- Đạo tích đoạn trí kiến
thanh tịnh nghĩa là, nhờ đạo tích trí kiến thanh tịnh có được thấy biết như
chánh trí, từ đó nghĩ rằng, ta nên đoạn đạo tích bậc thấp và bậc vừa, chỉ tu tập
đạo tích bậc cao, bởi đó là đạo tích vi diệu bậc Thánh hành trì.
- Vô duyên tịch diệt thanh
tịnh (tức là vô dục thanh tịnh) nghĩa là, nhờ đạo tích đoạn trí kiến thanh tịnh
mà chứng đắc Vô dư Niết-bàn, mọi lậu hoặc đã vĩnh viễn đoạn trừ.
- Quốc độ thanh tịnh (tức
giải thoát thanh tịnh) nghĩa là, chư Phật có khả năng vô thượng, có thể thị hiện
quốc độ trang nghiêm thanh tịnh tuyệt đối, không thể nghĩ bàn.
5. Kết luận
Như vậy, từ những cơ sở Kinh
và Luận tạng nêu trên, chúng ta có thể kết luận rằng, ‘cửu tịnh diệt chi’
được nói đến trong hai bản kinh Thập thượng và Tăng nhất của
Trường A-hàm chính là ‘chín pháp thanh tịnh’ vậy. Phải chăng khi gọi
là ‘thanh tịnh’, nghĩa là đề cập đến mục đích tối hậu của chín pháp này. Và khi
cho rằng, cần phải tu tập, ý muốn nói rằng đây là những lộ trình tu tập cụ thể.
Một điều nữa, từ trường hợp này cho thấy, Phật dạy là thuận thứ, phải từ thấp
lên cao, không thể có chuyện chứng chánh trí một cách thình lình.
Và đây chỉ là pháp phương
tiện, dù bảy pháp hay chín pháp, như người từ Xá-vệ đi đến Sa-kê-đế, người ấy
phương tiện “đi đến cỗ xe thứ nhất, ngồi trên cỗ xe thứ nhất đi đến cỗ xe thứ
hai; rồi bỏ cỗ xe thứ nhất cỡi cỗ xe thứ hai đến cỗ xe thứ ba; bỏ cỗ xe thứ hai
ngồi trên cỗ xe thứ ba đến cỗ xe thứ tư; bỏ cỗ xe thứ ba ngồi trên cỗ xe thứ tư
đến cỗ xe thứ năm; bỏ cỗ xe thứ tư ngồi trên cỗ xe thứ năm đến cỗ xe thứ sáu; bỏ
cỗ xe thứ năm ngồi trên cỗ xe thứ sáu đến cỗ xe thứ bảy; bỏ cỗ xe thứ sáu ngồi
trên cỗ xe thứ bảy; trong một ngày là đến Sa-kê-đế.” Cũng vậy, “Hiền giả,
vì giới thanh tịnh mà tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh,
vì tri kiến thanh tịnh nên nghi cái thanh tịnh, vì nghi cái thanh tịnh, nên đạo
phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh nên đạo tri kiến
thanh tịnh, vì đạo tích tri kiến thanh tịnh nên đạo tích đoạn trí thanh tịnh, vì
đạo tích đoạn trí thanh tịnh nên Thế Tôn thi thiết Vô dư Niết-bàn.”
Đây cũng chính là lời dạy:
“Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống gì là phi pháp”
của Đức Thế Tôn vậy!