Vài nét về Hòa thượng Từ Phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
mo lon
VÀI NÉT VỀ HÒA THƯỢNG TỪ PHONG
TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, có lẽ chúng ta không thể nào quên
một thời kỳ vàng son, rực rỡ, là thời đại Lý-Trần. Ngược lại, chúng ta cũng
không thể không nhớ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi Phật giáo không
còn ở ngôi vị quốc giáo như thời hoàng kim xưa kia nữa.
Có thể nói, kể từ năm 1920, chư vị tiền bối tâm huyết đã phát động phong trào
chấn hưng Phật giáo. Trong đó, Hòa thượng Thích Từ Phong (1864-1939)(2)
là một trong những nhân vật tiên phong và có công rất lớn vào giai đoạn đầu.
Trong bài viết này, người viết sẽ trình bày vài nét về vai trò của Hòa thượng Từ
Phong trong Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, qua ba phương diện.
1.
Khởi xướng Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam
Hòa thượng Từ Phong là một trong những nhân vật tiên
phong phát động phong trào chấn hưng Phật giáo. Chúng ta biết được điều này
thông qua bài “Tự trần” của Hòa thượng Khánh Hòa (đăng trong Tạp chí
Phật Hóa Tân Thanh Niên, số 1 ra tháng 9 năm 1929)(3),
khi được hỏi tại sao Ngài không đến các chùa lớn nổi tiếng để vận động Phong
trào Chấn hưng Phật giáo, xây dựng trường học để đào tạo
Tăng tài, Hòa thượng Khánh Hòa đáp rằng: “Ôi! Hỏi đến
thêm buồn, chín mười năm trước thầy Giác Hải cũng thường nhắc nhở đến việc này,
song ai nấy đều làm thinh, mới đây nhân lễ kỵ ở Hội Khánh, thầy Giác Hải cũng
đến đó giảng giải về việc chỉnh lý Tăng đồ, rốt cuộc
không ai tán thành cả”(4).
Liên quan đến vấn đề này, trong Tạp chí Từ Bi Âm
kỳ thứ 5 cũng có đề cập: Hòa thượng Từ Phong có tỏ rằng
28 năm nay Ngài cũng muốn lập một hội để lo xương minh Phật học, nên thường khi
Ngài thừa dịp chứng minh trường hương hay là trường kỳ với dự đám trai đàn cúng
kiến trong các chùa thì Ngài có diễn thuyết, khuyên bạn đồng đạo hiệp cùng Ngài
mà lập hội ấy(5). Qua đó cho thấy, Hòa
thượng Từ Phong luôn thao thức lo lắng cho sự tồn vong của Phật giáo, trải qua
gần 30 năm, Ngài đã hết lòng kêu gọi chư vị Tôn túc hãy cùng nhau đồng tâm hiệp
lực chấn hưng Phật giáo nhưng chưa được hưởng ứng.
Mãi cho đến ngày 26 tháng 8 năm 1931, nhờ sự
hoạt động tích cực của Hòa thượng Khánh Hòa, Sư Thiện Chiếu, cùng các Hòa thượng
trong các Sơn môn, Tổ đình và một số Phật tử hữu tâm, một Hội Phật học đầu tiên
của Phật giáo Việt Nam được thành lập, đó chính là Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật
Học(6). Lúc này, Hòa thượng Từ Phong là một ‘bậc
niên cao kỷ trưởng’ (69 tuổi), ‘bực chí nhơn và
đạo đức’, đang trụ trì chùa Giác Hải, được bầu làm Chánh Hội trưởng(7).
Nhưng sau đó hội không tiến hành được Phật sự như mong muốn, vì một số cư sĩ
ngăn trở. Năm 1933, các Hòa thượng Khánh Hòa, Từ Phong, Chánh Tâm, Tâm Quang,
Khánh Anh, Huệ Quang lui về miền Tây thành lập Phật học đường lưu động gọi là
Liên Đoàn Phật Học Xã để đào tạo Tăng tài. Mỗi chùa luân phiên mở lớp học 3
tháng, thường thỉnh Hòa thượng Từ Phong đến giảng dạy.
Chẳng bao lâu Liên Đoàn Phật Học Xã gặp khó khăn về tài chính
phải tan rã. Sau đó, Hội Lưỡng Xuyên Phật Học ra đời ngày 13/8/1934, khóa đầu
tiên do Hòa thượng An Lạc chùa Vĩnh Tràng làm Hội trưởng, Hòa
thượng Từ Phong làm Chứng minh Đạo sư.
Qua đó cho thấy, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào,
Hòa thượng Từ Phong cũng luôn hết lòng hy sinh cho đạo
pháp, điều này được thể hiện rất rõ trong Tạp chí Từ Bi Âm kỳ thứ 5:
Bổn chí phóng sự thấy Ngài nhơn đức từ bi chạnh tưởng mới hỏi Ngài sao già cả yếu
đuối rồi không ở nhà mà tịnh dưỡng, để cho mấy ông Sa-môn còn sức mạnh lo cho
đạo cũng đặng, Hòa thượng Từ Phong bèn trả lời rằng:
“Từ nhỏ đến lớn tôi ăn cơm của Phật, mặc áo của
đàn na thí chủ, ở chùa của thập phương. Mấy món ấy là của đạo hết, mà nay đạo đã
suy đồi, nếu tôi còn một chút hơi thở, còn đi đặng đôi bước, nói được một câu
chuyện thì cũng nên đến chùa Linh Sơn nầy mà chung lo cho đạo cùng các ngài thì
tôi mới an lòng sau khi tôi tịch diệt theo Phật. Nếu tôi không tầm mối thì tôi
không phải ông thầy tu viễn đức và còn mặt mũi nào mà ngó các ngài và thấy mấy
người đệ tử của tôi”(8).
Ôi! Thế mới biết tấm lòng của ngài Từ Phong
thiết tha vì đạo pháp đến mức nào. Với trình độ am hiểu Phật pháp uyên
thâm, tác phong đạo đức cao và nhiệt tâm xiển dương Chánh
pháp, Hòa thượng Từ Phong đã đóng
góp rất lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nói chung và đặc biệt là
Phật giáo miền Nam nói riêng.
2.
Văn hóa
Khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy vào giai đoạn
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
triều Nguyễn độc tôn Nho học, Phật
giáo “bị kỳ thị và suy đồi tột độ”. Vấn đề này được Hòa
thượng Thiện Hoa trình bày rất rõ trong tác phẩm 50 năm (1920-1970) chấn hưng
Phật giáo Việt Nam như sau:
Mỗi khi đại lễ như rằm lớn, làm chay,
làm phước, thuyết pháp, giảng đạo v.v… đều phải xin phép chính quyền. Chư Tăng
thường bị chính quyền bắt đi lính, làm xâu, hoặc canh gác.
Phật giáo thời bấy giờ bị kỳ thị và suy đồi tột
độ, chỉ còn hình thức cúng bái, mê tín dị đoan. Chư Tăng
hầu hết chỉ lo đi cúng đám làm kế sinh nhai. Đến đổi ông Tăng không khác gì
người tục! Đạo Phật thời bấy giờ bị người chê là yếm thế, tiêu cực hay nhu
nhược. Ông Tăng không còn giá trị gì cả!(9).
Do đó, tuy các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt
động riêng rẽ, không có một tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự
giao lưu phát triển về Phật học cũng suy giảm. Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc,
Việt Nam bị chia làm ba miền, trong khi chính quyền Bảo hộ tìm mọi cách phát
triển Công giáo thì Phật giáo Việt Nam càng bị chèn ép. Một số ngôi chùa lớn
cũng bị phá hủy, Viện Viễn Đông Bác Cổ sưu tập các tài liệu, di vật nhưng không
nhằm mục đích truyền bá Phật giáo cũng góp phần làm suy giảm các kinh sách tại
các chùa.
Trước tình hình xã hội có nhiều biến chuyển như thế, công cuộc đổi mới cần được
xúc tiến để củng cố nền văn hóa cũ bằng ngôn ngữ thuần Việt và hòa nhập cùng nền
văn hóa mới. Các nhà trí thức cổ động phong trào nâng cao dân trí và công việc
đầu tiên là phổ cập chữ quốc ngữ.
Trong đó, chữ
Nôm là một sáng tạo độc lập của ông cha ta, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt,
có tác dụng trong sinh hoạt văn hóa cũng như trong việc phát triển nền văn hóa
dân tộc.
Riêng đối với Phật giáo, chữ Nôm đã được chư vị Tôn túc, các nhà nghiên cứu Phật
học sử dụng để phiên dịch tam tạng kinh điển, biên soạn kinh sách Phật giáo để
phổ biến rộng rãi, giúp cho nhiều người đọc hiểu dễ dàng hơn. Trên tinh thần đó,
Hòa thượng Từ Phong đã sử dụng chữ Nôm kết hợp với chữ Hán để biên soạn
hoặc phiên dịch, diễn nghĩa kinh sách Phật giáo.
Theo Tiểu sử danh Tăng Việt Nam,
trong cuộc đời hoằng dương đạo pháp của mình,
Hòa
thượng Từ Phong đã biên soạn một số tác phẩm như:
1.
Khải cáo phát minh văn (1909)
2.
Quy nguyên trực chỉ (diễn Nôm) (1912)
3.
Tông cảnh yếu ngữ lục diễn nghĩa (1915).
Ngoài ra, người viết phát hiện Ngài còn biên soạn một tác phẩm Hán Nôm đó là:
Phát Bồ-đề
tâm văn diễn nghĩa (1932).
Có thể nói những tác phẩm này không chỉ góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng
văn học và văn hóa Phật giáo Việt Nam mà còn có giá trị ảnh hưởng rất lớn đối
với Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ. Nội dung tư tưởng của
các tác phẩm ấy không ngoài mục đích xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam,
củng cố nếp sống tu học, hoàn thiện nhân cách đạo đức cho hàng Tăng Ni, Phật tử
nói riêng và cho mọi người trong xã hội nói chung.
3. Giáo dục
Với tấm lòng thiết tha vì đạo, Hòa thượng Từ Phong
đã chung sức cùng chư vị Tôn túc để chấn hưng Phật giáo. Một trong những công
tác Phật sự nổi bật của Ngài là giảng dạy giáo lý cho Tăng Ni, Phật tử; mở
trường Phật học đào tạo Tăng tài, hoằng dương Phật pháp. Để nhấn mạnh vai trò
của công tác giáo dục, Hòa thượng Từ Phong đã trình bày hết sức
rõ ràng qua bài “Kệ minh Phật học biên văn bố cáo” như sau:
Ngày nay cao tăng chúng đức, đoàn thể liên lạc nên rồi, hiện
xuất tinh thần hiệp lực, kiến lập học đường, từ học đường này, thời kết quả
đặng. Tiên thánh có nói: “Thử chi nhất học, tối diệu tối huyền”. Một việc học
này, làm đầu trước ba giới Thánh hiền. Chư sơn tình đồng
chí hợp, tôn sùng giáo pháp, trang nghiêm ngôi Tam bảo
lại, đạo Phật truyền bá phổ thông rồi, trai lành gái tín thấy vậy, đều phát tâm
chánh tín, vui đẹp trong nền đạo đức, tôn giáo nhà Phật tiến phát, càng thêm tỏ
rạng(10).
Đại ý đoạn văn này khuyên các bậc cao tăng
chúng đức hãy cùng nhau hiệp lực kiến lập học đường, phát triển học nghiệp cho
hàng Tăng Ni trẻ. Đối với Phật giáo, học là phương thức hữu hiệu nhất để hình
thành đội ngũ Tăng sĩ trí thức có khả năng truyền bá Phật pháp, giúp cho Tam bảo
được trường tồn trên thế gian này. Cũng nhờ đó mà hàng thiện nam tín nữ biết
phát tâm chánh tín, nền đạo đức nhân loại được củng cố, Phật giáo càng ngày càng
phát triển, ngọn đèn Chánh pháp càng thêm tỏ rạng.
Riêng đối với Hòa thượng Từ Phong,
sự nghiệp giáo dục được thể hiện qua một số công tác Phật sự hết
sức cụ thể và rất có ý nghĩa, như trong Việt Nam Phật giáo sử luận đề
cập:
Vào khoảng năm 1920, tuy tình trạng Phật giáo ở đất Việt
không có gì sáng sủa, nhưng rải rác trong xứ vẫn còn những vị cao Tăng duy trì
mạng mạch của Phật pháp. Ở trong Nam có Thiền sư Từ Phong
duy trì đạo tràng Giác Hải ở Chợ Lớn, mở lớp giảng giải Phật pháp cho Tăng sĩ
trong vùng, tổ chức khắc bản in kinh và khuyến khích việc phiên dịch kinh Phật
ra quốc ngữ. Từ năm 1922, Thiền sư đã cho xuất bản bộ “Quy nguyên trực chỉ” do
ông tự tay phiên dịch ra quốc ngữ(11).
Bên cạnh đó, Tiểu sử danh Tăng Việt Nam còn cho biết:
Hòa thượng Từ Phong “vốn là người uyên bác lại tinh
tấn nghiên cứu học hỏi nên Ngài sớm trở thành một Pháp sư tinh thông kinh điển,
có tài hùng biện luôn thuyết phục người nghe. Vì
vậy ai cũng thích đến nghe pháp với Ngài”(12).
Chính vì thế, thời bấy giờ các tự viện ở Nam bộ thường liên kết thành một hội
gọi là Hội Lục Hòa, dựa vào hình thức mỗi lần một chùa
luân phiên qua lại tổ chức hội họp nhằm tạo tình đoàn kết để phát động phong
trào chấn hưng Phật giáo, Ngài thường được thỉnh thuyết giảng trong các lần hội
họp đó. Ngoài ra, Ngài còn được các chùa thỉnh làm Pháp sư trong các dịp khai
trường Hương như: Chùa Long Quang (Vĩnh Long), năm Kỷ Dậu (1909); Tổ đình Giác
Lâm (Sài Gòn), năm Nhâm Tý (1912); Chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), năm Kỷ Mùi (1919);
Chùa Bửu Long (Vĩnh Long), năm Canh Thân (1920).
Có thể nói những dịp này là cơ hội để Hòa thượng Từ Phong
có thể hoằng dương Chánh pháp và chấn
hưng Phật học một cách hiệu quả nhất. Với tấm lòng hy sinh vì đạo pháp,
Ngài không quản ngại gian lao vất vả, không chỉ mở lớp tại bổn tự của mình là
chùa Giác Hải mà còn đi đến các đạo tràng chùa khác để giảng dạy Phật pháp. Tất
cả việc làm của Ngài không ngoài mục đích giúp cho Tăng Ni và Phật tử am hiểu
Phật pháp để tu tập đạt được lợi ích an lạc cho tự thân, đồng thời góp phần giáo
dục nhân cách đạo đức cho mọi người trong xã hội.
Nói tóm lại, Hòa thượng Thích
Từ Phong là một trong những nhân vật tiên phong phát động Phong
trào Chấn hưng Phật giáo miền Nam nói riêng và
Phật giáo Việt Nam nói chung giai đoạn đầu thế kỷ XX. Kể từ lúc
xuất gia cho đến trọn cuối đời, Ngài luôn hăng hái hoạt động Phật sự, hết lòng
hy sinh cho đạo pháp chỉ vì mục đích duy nhất là hoằng dương
Phật pháp và bảo vệ ngôi nhà Phật giáo Việt Nam được
trường tồn vững mạnh. Sự cống hiến của Ngài về các phương diện văn hóa,
giáo dục không chỉ đóng góp tích cực cho phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
xưa kia mà còn có giá trị ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Việt Nam hiện nay.
CHÚ THÍCH
– TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Chánh Trí Mai Thọ Truyền (2007), Phật giáo Việt Nam, NXB. Tôn
giáo, tr. 19-20.
2. Trong Tiểu sử danh Tăng Việt Nam
(Thích Đồng Bổn chủ biên, 1996) ghi rằng Hòa thượng Thích Từ
Phong (1864-1938); tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của người viết thông qua
một số nguồn tư liệu và khảo sát thực địa qua
các bài vị, bia tháp của Hòa thượng Từ Phong tại Chùa
Giác Hải (quận 6, TP.HCM) và Chùa Thiền Lâm (Gò Kén, Tây Ninh), thì Hòa
thượng Từ Phong viên tịch ngày 24/1/1939.
3 và 4. Nguyễn Đại Đồng, TS. Nguyễn Thị Minh (2010), Phong trào Chấn hưng
Phật giáo, NXB. Tôn giáo, tr. 21-38 và
tr. 32.
10. Thích Từ Phong (1939), “發菩提心文演義”
(Phát Bồ-đề tâm văn diễn nghĩa) (Hán - Nôm), tr. 54a
(người viết dịch).
11. Nguyễn Lang (1996), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập
3, NXB. Văn học, Hà Nội, tr. 17.
12. Thích Đồng Bổn chủ biên (1996), Tiểu sử danh Tăng Việt Nam, tập 1,
Thành hội Phật giáo TPHCM ấn hành, tr. 116-117.