Nhất thừa (一乘) trong các A-hàm Hán ngữ: Ánh sáng mới về một vấn đề cũ nơi Nikāya Pāli
nhat thua
Nhất thừa (一乘) trong các A-hàm Hán ngữ: Ánh sáng mới về một vấn đề cũ nơi Nikāya
Pāli
Jan Nattier – Nguyên Hiệp dịch
Giới thiệu
Một trong những khái niệm nổi tiếng nhất trong văn học Phật giáo Đông Á là khái
niệm “nhất thừa”. Theo khái niệm này, thường được sử dụng nơi những kinh sách Ấn
Độ là ekayāna và ở nơi những kinh sách Đông Á là nhất thừa (Hán:
一乘; Nhật: Ichijō), Đức Phật đã dạy những đệ tử của mình ba con đường riêng đưa
đến giác ngộ: con đường đưa đến quả vị A-la-hán, con đường đưa đến Bích Chi
Phật, và con đường đưa đến Phật quả. Tuy nhiên, việc có nhiều con đường này chỉ
là một “phương tiện thiện xảo” mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sử dụng để đưa tất cả
những đệ tử của mình đến đích Phật quả duy nhất. Niết-bàn của A-la-hán hay của
Bích Chi Phật chỉ là một phương tiện, một “điểm dừng chân nghỉ ngơi” trên con
đường đi đến đích cuối cùng. Xem xét về phương diện con đường, điều này hàm ý
rằng Bồ-tát thừa không chỉ là con đường cao nhất và xứng đáng nhất (một quan
điểm được chấp nhận trong tất cả những kinh điển Đại thừa Ấn Độ) mà còn là con
đường chân thật duy nhất.
Tất cả những giáo pháp liên quan đến những thừa khác chỉ là những phương tiện
tạm thời mà Đức Phật trao cho những đệ tử mà họ chưa sẵn lòng nghe về Phật quả
cuối cùng của họ. Con đường Bồ-tát, nói tóm lại, được miêu tả như con đường phổ
quát, bao gồm tất cả mọi Phật tử cho dù họ có nhận thức điều đó hay không.
Tuy
nhiên, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng khái niệm này không hề phổ biến trong
giới Phật tử Đại thừa Ấn Độ.
Ngược lại, vào thời kỳ hình thành Đại thừa – tức là vào thời điểm khi một số
Phật tử đầu tiên chủ trương quan điểm rằng các Phật tử có thể chọn trở thành một
vị Phật thay vì một A-la-hán – quan điểm ba thừa riêng biệt dường như phổ biến.
Phần nào ngạc nhiên, có bằng chứng rằng quan điểm này vẫn là tiêu chuẩn ở nơi
những gì có thể được miêu tả là Phật giáo Đại thừa “dòng chính” ở Ấn Độ trong
nhiều thế kỷ. Ví dụ, học thuyết “chủng tính” (gotra, chủng tộc/thị tộc) nổi
tiếng của Duy thức tông (Yogācāra) rõ ràng hàm ý những con đường khác nhau – và
những đích đến thật sự khác nhau – cho những người có những khả năng tâm linh
khác nhau. Cho đến thế kỷ VIII, học giả Tịch Thiên (Śāntideva) của Trung quán
tông (Mādhyamika) vẫn công nhận tính giá trị của những chọn lựa khác nhau cho dù
ông mô tả chi tiết cách thực hành theo con đường Bồ-tát.
Như vậy, sự thực hành Đại thừa không thể đánh đồng với việc chấp nhận quan điểm
“nhất thừa”. Sự thực, lịch sử sơ kỳ của Đại thừa ở Ấn Độ – và có lẽ trước đó nữa
– được mô tả như là “thời kỳ tam thừa”.
Cuối
cùng, tư tưởng “nhất thừa” trở nên được biết rộng rãi (nếu không muốn nói được
chấp nhận chung) ở Ấn Độ. Câu hỏi về khi nào, và trong những phạm vi nào, nó đã
đạt được vị trí một quan điểm chính thống chắc hẳn cần phải nghiên cứu thêm. Tuy
nhiên, điều chắc chắn là rằng quan điểm về một thừa duy nhất đưa đến Phật quả
nhanh chóng đạt được sự chấp nhận rộng rãi ở Đông Á, mà ở đó nó trở thành một
trong những khái niệm trọng tâm nơi tư tưởng Phật giáo Trung Quốc. Không quá
ngạc nhiên, một tìm kiếm bằng máy tính hai từ “nhất thừa” (一乘) ở nơi kinh tạng
Phật giáo Hán ngữ đã đưa ra một số lượng lớn các trường hợp; một tìm kiếm ban
đầu nơi phiên bản kinh tạng điện tử Taishō hiện nay (tập 1-55 và 85) đã mang lại
trên 6.400 trường hợp.
Tuy
nhiên, những trường hợp này không hề được phân bổ đều trong kinh tạng. Từ một
xem xét theo niên đại, cho thấy rõ rằng không có trường hợp nhất thừa nào
có thể được tìm thấy trong những bản kinh được dịch trước thời Trúc Pháp Hộ
(竺法護/Dharmarakṣa, 265-309 TL).
Trường hợp duy nhất của hai từ nhất và thừa đi cùng với nhau ở nơi
bản dịch trước Trúc Pháp Hộ là ở nơi bản dịch Bồ-tát bổn tập kinh (菩薩本業經,
T281) của Chi Khiêm, ở đó tên của một trong các vị Phật trong mười phương được
gọi là Nhất Thừa Độ (一乘度, 10.447a2). Tuy nhiên, một sự so sánh với những phiên
bản của cùng bản kinh cho thấy rằng điều này có thể không phải là cách diễn đạt
nguyên thủy của Chi Khiêm, mà thực sự là kết quả của một sự chỉnh sửa trong khâu
biên chép. (Trong mọi trường hợp, không hề có sự thảo luận về khái niệm “nhất
thừa” ở trong suốt bản kinh). Kiểu phân bổ này cho thấy khả năng rằng chính Trúc
Pháp Hộ là người đầu tiên giới thiệu nhất thừa như là từ tương đương của
từ Sanskrit (hay Prakrit) ekayāna. Ngoài ra, có thể chỉ vào thời của Trúc
Pháp Hộ – tức là vào cuối thế kỷ III TL – việc tìm kiếm một thuật ngữ cho từ
ekayāna trở nên cần thiết, vì không chỉ riêng từ nhất thừa mà chính
quan điểm về một thừa duy nhất dường như vắng mặt nơi những kinh sách được dịch
sang Hán ngữ trước thời kỳ này.
Tuy
nhiên, gây chú ý hơn sự bất đối xứng thời gian này là một sự bất đối xứng địa
lý. Nếu chúng ta một mặt thực hiện những tìm kiếm riêng nơi những tập của ấn bản
Taishō mà chúng chính yếu bao gồm những bản dịch những kinh sách Ấn Độ, và mặt
khác chính yếu là những tác phẩm Đông Á, một vấn đề gây chú ý xuất hiện: phần
lớn những trường hợp nhất thừa là ở nơi những bộ luận và những luận giải
được sáng tác ở Đông Á hơn là ở nơi những bản văn được dịch từ những nguyên tác
Ấn Độ.
Điều này cho thấy rằng không có gì khó khăn để tìm ra một chứng cứ văn bản cụ
thể cho những gì mà những học giả đã nghi ngờ suốt một thời gian dài: rằng khái
niệm “nhất thừa” đóng một vai trò nổi bật ở Đông Á hơn nhiều ở Ấn Độ.
Những
kiểu cách phân bổ thuật ngữ nhất thừa ở trong kinh tạng Hán ngữ cần được
nghiên cứu cặn kẽ trong tương lai. Tuy nhiên, những gì tôi muốn tập trung ở nơi
bài viết này lại là một điều khác mà nó đã xuất hiện ở nơi những kết quả tìm
kiếm này: sự thật rằng, có một số ít, nhưng
ý nghĩa, những trường hợp về thuật ngữ nhất thừa được tìm thấy ở nơi phần
kinh tạng bao gồm những kinh không thuộc Đại thừa, tức là nơi những kinh A-hàm (āgama).
Những trường hợp ở nơi A-hàm
Kinh
tạng Hán ngữ như chúng ta có – tức là ấn bản Taishō được sử dụng rộng rãi, được
các học giả trích dẫn phổ biến nhất và hiện cũng có mặt ấn bản điện tử CBETA –
là một sản phẩm học thuật của Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Trước thời kỳ này, tiêu chuẩn ở Đông Á là đặt văn học Bát-nhã
(Prajñāpāramitā) lên hàng đầu, và như vậy đặt quyền ưu tiên vào các kinh Đại
thừa. Một sự sắp xếp như vậy được phản ánh ở nơi một phạm vi rộng lớn những bản
viết tay truyền thống và những bản kinh được in ấn, và nó vẫn còn được lưu giữ ở
nơi những ấn bản hiện đại chẳng hạn như ấn bản Hàn Quốc
và Trung Quốc.
Tuy nhiên, đầu thế kỷ XX, Nhật Bản với một nhận thức mới, đã trao quyền ưu tiên
cho nguồn văn học Phật giáo phi Đại thừa được lưu giữ bằng tiếng Pāli, và điều
này dường như muốn nói rõ rằng kinh tạng nên được sắp xếp theo trình tự phát
triển lịch sử của nó. Như vậy, những tập đầu tiên của ấn bản Taishō được dành
cho những bản dịch Hán ngữ những kinh không thuộc Đại thừa, bắt đầu với các bộ
A-hàm được lưu giữ bằng Hán ngữ cùng với những bản dịch các kinh riêng lẽ liên
quan đến chúng (tập 1-2) và những phân loại Jātaka, Avadana, cùng những
tác phẩm viết về tiểu sử Đức Phật (tập 3-4).
Để tìm
thuật ngữ nhất thừa (一乘) ở nơi một sự sắp xếp như vậy, khá ngạc nhiên, là
có không dưới 30 trường hợp trong hai tập đầu của ấn bản Taishō. Một số ít trong
này có thể lập tức được gạt sang một bên; ví dụ, một trường hợp chỉ đề cập đến
một chiếc xe ngựa thông thường mà không có hàm ý triết học nào.
Chín trường hợp khác xuất hiện ở nơi bản kinh có tiêu đề Ương-quật-ma-la kinh
(央掘魔羅經, Aṅgulimāla sūtra), một bản kinh mà ở đó vị tướng cướp sát nhân khét
tiếng Aṅgulimāla xuất hiện như một nhân vật chính.
Mặc dù những người biên tập Taishō xác nhận nó là một phiên bản của kinh
Aṅgulimāla được tìm thầy trong Trung bộ Pāli (MN 86), mà nó lại được
đồng nhất với những bản kinh tương tự được tìm thấy nơi Tạp A-hàm (T99
[1077], T100 [16] và Tăng nhất A-hàm (T125[38.6])
Hán
ngữ,
thì rõ ràng đây là một tác phẩm khác nhiều – sự thực, đây là một bản kinh Đại
thừa tán dương “nhất thừa” bằng những thuật ngữ mà chúng hoàn toàn nằm ở nơi
kinh Pháp hoa. Nói cách khác, sự có mặt của thuật ngữ nhất thừa ở
đây không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về việc sử dụng cụm tự ekayāna
ở trong một bản kinh A-hàm; khác hơn, nó là kết quả của việc liệt kê danh mục
sai của những người biên tập Taishō.
Trong
số 20 trường hợp còn lại của cụm từ nhất thừa ở nơi phần A-hàm của ấn bản
Taishō, chiếm phần lớn – một tổng số 17 trường hợp, nằm ở nơi 6 bản kinh khác
nhau – là ở nơi phiên bản Tạp A-hàm (Saṁyuktāgama) do Guṇabhadra
(求那跋陀羅/Câu-na-bạt-đà-la, 435-443 TL) dịch.
Do đó tôi sẽ tập trung vào danh sách những trường hợp này ở đây, dành bản kinh
có chứa ba trường hợp còn lại (một bản dịch đời Tống kinh Janarṣabha)
cho phần thảo luận vắn tắt bên dưới.
Nhất thừa (đạo)/ 一 乘 (道) trong kinh Tạp A-hàm (T99)
Bản
dịch Tạp A-hàm của Guṇabhadra là bộ A-hàm Hán ngữ duy nhất mà ở đó thuật
ngữ nhất thừa xuất hiện. Trong cả 17 trường hợp, theo sau nhất thừa
là chữ đạo (道, con đường), khiến cho thấy rõ rằng ba chữ này được phối hợp cùng
với nhau. Tạm dừng thảo luận ý nghĩa chính xác của nhất thừa đạo ở nơi
những ngữ cảnh này, tôi sẽ chỉ dịch cụm từ Hán ngữ này theo nghĩa đen là “con
đường một cỗ xe”.
(1)
Kinh số 561
Trong
kinh này A-nan nói với một vị Bà-la-môn như sau:
如來, 應,
等正覺, 所知, 所見, 說四如意足, 以一乘道淨眾生,滅苦惱,斷憂悲。何等為四?/ Như Lai, Ứng, Chánh đẳng giác, Sở
tri, Sở kiến, thuyết tứ như ý túc, dĩ nhất thừa đạo tịnh chúng sanh, diệt
khổ não, đoạn ưu bi, hà đẳng vi tứ? (2.147b1-3).
Như
Lai, Bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác, Bậc được biết, Bậc được thấy [sic],
dạy tứ như ý túc, và dùng con đường một cỗ xe [này mà] thanh tịnh chúng sanh,
giúp diệt trừ khổ đau và phiền não, đoạn tận ưu phiền và bi ai. Thế nào là bốn?
Bản
kinh sau đó tiếp tục liệt kê bốn như ý túc (Ÿddhipāda),
mà nó được đưa ra (ở trong phiên bản kinh này) là mong muốn (欲, chanda), tinh
tấn (精進, vīrya), tâm (心, citta) và tư duy (思惟, mīmāṁsā). Mỗi trong bốn chi phần
này lần lượt được miêu tả là bao hàm định (定, samādhi) và đoạn (斷, prahāṇa). Tuy
nhiên, tại sao bản kinh lại đề cập đến những thực hành này như là “con đường một
cỗ xe” vẫn còn chưa rõ, và bản kinh Pāli tương ứng – mà nó thiếu từ tương ứng
với cụm từ này – không thể đưa ra sự hỗ trợ nào.
(2)
Kinh số 563
Ở đây
A-nan nói với một vị khách đến viếng, Abhaya người Licchavī, là một đệ tử của vị
đạo sư Kỳ-na Mahāvīra: 如來, 應, 等正覺, 所知, 所見, 說三種離熾然, 清淨超出道, 以一乘道淨眾生, 離憂悲、越苦惱,
得真如法, 何等為三?/ Như Lai, Ứng, Chánh đẳng giác, Sở tri, Sở kiến, thuyết tam chủng ly
xí nhiên, thanh tịnh siêu xuất đạo, dĩ nhất thừa đạo tịnh chúng sanh, ly
ưu bi, diệt khổ não, đắc chân như pháp, hà đẳng vi tam? (2.147c12-15)
Nhìn
qua, đoạn văn phần nào khó hiểu này cho thấy muốn nói điều như sau:
Như
Lai, Bậc A-la-hán, Đẳng chánh giác, Bậc được biết, Bậc được thấy [sic], dạy ba
loại giúp từ bỏ sự thiêu đốt, thanh tịnh con đường siêu thế. Ngài dùng con đường
một cỗ xe này thanh tịnh chúng sanh, đoạn trừ lo âu phiền muộn của họ, khiến họ
vượt thoát khổ đau phiền não, và đạt được pháp chân như.
Thế nào là ba?
A-nan
tiếp tục giải thích rằng ba sự thực hành được đề cập là giới (ở đây cụ thể được
đồng nhất với prātimokṣa), an trú nơi tứ thiền (jhāna) và hiểu rõ
Tứ Thánh đế. Cụm từ nhất thừa đạo xuất hiện hai lần nơi những dòng theo
sau (147c20-21 và 148a1), cả hai lần nơi đoạn lập lại như vậy. Tuy nhiên, lần
này bản Pāli tương ứng đưa ra một đoạn khá gần giống.
Tisso
kho imā Abhaya nijjarā visuddhiyo tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambudhhena sammadakkhātā sattānaṁ visuddhiyā sokapariddavānaṁ
samatikkamāya dukkhadomanassānaṁ atthagamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa
sacchikiriyāya. Katamā tisso.
Abhaya, có ba pháp thanh tịnh giúp đoạn trừ nhiệt não được Thế Tôn, bậc Trí giả,
bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác chơn chánh tuyên thuyết, khiến chúng
sanh thanh tịnh, khiến vượt thoát sầu bi, khiến chấm dứt khổ ưu, khiến đạt được
chánh lý, khiến chứng được Niết-bàn. Thế nào là ba?
Ba
thực hành này sau đó được liệt kê (với khác biệt ở phần thứ ba mà từ đó được tìm
thấy nơi bản Hán ngữ): giới, an trú nơi tứ thiền, và biết sự đoạn trừ các lậu
hoặc (āsava) nhờ vào giải thoát tâm (cetovimutti) và giải thoát
kiến (paññāvimutti).
Bản
Pāli giúp giải thích tại sao bản dịch của Guṇabhadra lại quá khó hiểu, vì nó chỉ
ra khả năng nhầm lẫn giữa những từ tương ứng Prakrit của từ Sanskrit √jiva (đốt
nóng, thiêu đốt) (hoặc √jvar [bị sốt, khổ từ cơn đau thiêu đốt]) và nir√jṝ (đoạn
diệt/trừ), cũng như có thể có một nhầm lẫn nữa giữa những hình thức Prakrit mà
chúng giống với từ Pāli sammadakkhātā (chơn chánh tuyên bố) và
samatikkanta (vượt qua hay thoát khỏi). Tuy nhiên, nó không thể giúp làm
sáng tỏ nghĩa của nhất thừa đạo trong bản dịch của Guṇabhadra, vì bản
Pāli không có cụm từ tương ứng này.
(3)
Kinh số 550
Một
đoạn tương tự xuất hiện ở đầu bản kinh này, ở đó Tôn giả Mahākatyāyana nói với
một nhóm Tỳ-kheo như sau:
佛、世尊、如來、應、等正覺,所知,所見,說於法出苦處,昇於勝處。說一乘道淨諸眾生,離諸惱苦,憂悲悉滅,得真如法, 何等為六?/ Phật, Thế Tôn,
Ứng, Đẳng chánh giác, Sở tri, Sở kiến, thuyết ư pháp xuất khổ xứ, thăng ư thắng
xứ. Thuyết nhất thừa đạo tịnh chư chúng sanh, ly chư não khổ, ưu bi tất
diệt, đắc chơn như pháp. Hà đẳng vi lục? (2.143b20-23)
Phật, Thế Tôn, Như Lai, Bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác, Bậc được biết, Bậc được
thấy [sic], dạy một pháp khiến [chúng sanh] thoát khỏi cõi khổ và tiến đến nơi
thù thằng. Ngài dạy
con
đường một cỗ xe khiến thanh tịnh chúng sanh, khiến họ thoát khỏi mọi
khổ não, đoạn diệt mọi ưu bi, và chứng đắc pháp chân như. Thế nào là sáu?
Bản
kinh sau đó tiếp tục liệt kê chi tiết sáu anusmŸti
(六念/lục niệm), đó là nhớ nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng, giới, thí và thiên, lần lượt
đề cập đến mỗi chi phần trong chúng với việc sử dụng cùng ngôn ngữ.
Lần nữa, bản Pāli tương ứng cũng không có đoạn tương đương chứa cụm từ nhất
thừa đạo.
Tuy nhiên, nó có tuyên bố là nó liên quan đến sáu thực hành mà lần lượt nhờ vào
mỗi trong sáu pháp này mà “một số người được thanh tịnh” (ekacce sattā
visujjhanti).
Tuy
nhiên, ở trường hợp này, việc trợ giúp lại đến từ một nguồn ngoài mong đợi, vì
trong số những bản viết tay chưa được công bố ở nơi bộ Schøyen có một tờ đơn từ
một phiên bản Sankrit của kinh Kātyāyana mà nó chứa một phần tương ứng
của đoạn này. Phần của đoạn văn liên quan đến việc thảo luận của chúng tôi, để
cho tiện, là theo bản được tái tạo lại của Harrison (với những chữ nghiêng được
thêm vào như ở trong những trường hợp trước), là như sau:
ṣaØ
ime āyuṣmaṃtas tena bhagavatā jānatā paśyatā tathāgatenārhatā samyaksaṃbuddhena
saṃbādhe avakāśe viśeṣādhugamā ākhyātā ekāyano mārgaḥ satvānāṃ viśuddhaye
śo kaparidravāṇāṃ samatikkramāya duḥkhadaurmanasyānām astagamāya nyāyasya
dharmasyādhigamāya katame ṣaṭ| (r1-2).
Đoạn
này có thể tạm dịch như sau:
Bậc
Tôn Quý, Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng
giác, đã tuyên bố ở một nơi đông đúc
sáu phương pháp cao quy này [như] một
con
đường nhất thừa giúp cho việc thanh tịnh chúng sanh, vướt thoát ưu bi, đoạn
trừ khổ não, và chứng đạt được chánh lý của Pháp. Vậy những gì là sáu?
Giống
như nơi bản dịch của Guṇabhadra, bản kinh tiếp tục liệt kê ra sáu niệm (anusmŸti).
Và với bản Sanskrit tương ứng này, giờ trở nên rõ ràng rằng nhất thừa
trong cụm từ nhất thừa đạo hẳn được dùng như một sự chuyển dịch từ từ
ekāyana, một thuật ngữ mà sự tương đồng của nó với từ Sanskrit ekayāna
(nhất thừa) là rõ ràng.
(4)
Kinh số 1189
Ngay
cho dù không có thông tin mà đoạn Sanskrit này cung cấp, đoạn liên quan đến một
con đường mà nó có thể thanh tịnh chúng sanh, đoạn trừ ưu bi và v.v…, có thể đã
có một âm vọng quen thuộc đối với những chuyên gia Pāli, vì việc sử dụng nổi
tiếng nhất thuật ngữ ekāyana nơi bản Pāli là đặc biệt ở nơi một đoạn lập
lại nhiều lần như vậy, ở đó nó được sử dụng để giới thiệu bốn chi phần của việc
thực hành chánh niệm (sattipatthāna). Những trường hợp nổi tiếng nhất là
ở nơi những phiên bản của kinh Sattipaṭṭhāna (kinh Niệm xứ) được tìm thấy
trong Trường bộ và Trung bộ,
nhưng đoạn lập lại ấy, sử dụng cùng cách diễn đạt ấy, cũng được tìm thấy nơi
Tương ưng bộ Pāli.
Ekāyano ’yaṁ maggo sattānaṁ visuddhiyā sokapariddavānaṁ samatikkamāya
dukkhadomanassānaṁ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya
yadidaṁ cattāro sattipaṭṭhānā.
Đây
là con đường
ekāyana đưa đến sự thanh tịnh chúng sanh, vướt thoát ưu bi, đoạn trừ khổ ưu,
thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết-bàn – đó là Bốn niệm xứ (smŸtyupasthāna).
Đoạn
này có một đoạn tương ứng nơi bản dịch của Guṇabhadra, ở đó nơi bản kinh số 1189
có ba trường hợp còn lại của từ nhất thừa, bắt đầu với trường hợp sau, có
thể được tìm thấy. Ở đây, Đức Phật vừa mới giác ngộ có suy nghĩ như sau:
有一乘道能淨衆生, 度諸憂悲, 滅除苦惱, 得真如法, 謂四念處/ Hữu nhất thừa đạo năng tịnh chúng sanh,
độ chư ưu bi, diệt trừ khổ não, đắc chân như pháp, vị Tứ niệm xứ. (2.322a29-b3)
Có
một
con
đường nhất thừa có thể thanh tịnh chúng sanh, có thể giải thoát những nỗi ưu
bi và diệt trừ nỗi khổ não của họ, [và khiến cho họ] đạt được pháp chân như,
[con đường này] được gọi là Bốn niệm xứ.
Như ở
trong phiên bản Pāli, mỗi trong Bốn niệm xứ lần lượt được liệt kê, mà sau đó
Phạm Thiên xuất hiện xác nhận những suy nghĩ của Đức Phật, nói lời tán thành của
mình bằng cả văn xuôi và kệ tụng và sử dụng cụm từ nhất thừa đạo trong cả
hai lần (2.322b13 và 16).
(5)
Kinh số 535 và 607
Ba
trường hợp còn lại của nhất thừa đạo nơi bản dịch Tạp A-hàm của
Guṇabhadra – hai ở trong bản kinh số 535 và một trong bản kinh số 607 – cả hai
xuất hiện ở nơi những ngữ cảnh liên quan đến Bốn niệm xứ, mặc dù không có trường
hợp nào trong hai trường hợp này có bản Pāli tương ứng chứa đựng từ ekāyana.
Bởi vì cách diễn đạt rất giống với những trường hợp được nêu ra ở trên, và bởi
vì chúng không đưa ra bất kỳ thông tin ngữ cảnh mới nào về việc sử dụng thuật
ngữ này, chúng ta không cần đưa ra trích dẫn đầy đủ ở đây.
Tóm
lại, nơi bản dịch Tạp A-hàm của Guṇabhadra chúng ta có thể xác định ba
kinh mà ở đó thuật ngữ cơ bản ekayāna mārga được sử dụng có liên quan đến
Bốn niệm xứ, và ba kinh mà ở đó nó đề cập đến những thực hành khác.
Nhất thừa chánh pháp (一乘正法) ở trong Janarṣabhasūtra (T9, 人仙經/Nhân tiên
kinh)
Guṇabhadra là dịch giả duy nhất của một bộ A-hàm trọn vẹn đã dịch ekāyana
sang Hán ngữ bằng việc sử dụng thuật ngữ nhất thừa, nhưng điều gần giống
vậy cũng xảy ra nơi một bản kinh khác, một bản kinh được dịch như một tác phẩm
độc lập hơn năm trăm năm sau thời của Guṇabhadra. Ba trường hợp còn lại của
nhất thừa nơi bộ A-hàm của ấn bản Taishō tất cả xuất hiện ở nơi phiên bản
Jānarṣabhasūtra (Pāli: Janavasabha-sutta) được Pháp Hiền (法賢) dịch
vào năm 998 TL. Tuy nhiên ở đây chúng ta không thấy nhất thừa đạo mà thấy
nhất thừa chánh pháp (一乘正法), một cụm từ mà nó không cho thấy rõ ngữ cảnh
mà ở đó nó xuất hiện, nên chúng ta có thể mạo muội giải thích rằng đây có thể là
một sự chuyển dịch ekāyana cộng với hình thức saddharma nào đó.
Tuy nhiên, tất cả ba trường hợp của nhất thừa chánh pháp ở bản kinh này
được đặt ở nơi đoạn văn được thấy ở trên: rằng có một “con đường nhất thừa” mà
nó đưa đến việc thanh tịnh chúng sanh v.v… Trường hợp đầu là như sau:
如來、應供、正等正覺, 宣說一乘正法令諸眾生遠離憂, 悲, 苦, 惱, 皆得清淨, 證真實理/ Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng
chánh giác, tuyên thuyết nhất thừa chánh pháp linh chư chúng sanh viễn ly
ưu, bi, khổ, não, giai đắc thanh tịnh, chứng chân thật lý. (1.215c16-18)
Như
Lai, Bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác, đã tuyên thuyết pháp chân thật nhất thừa mà
nó khiến chúng sanh xa rời ưu bi, khổ não, khiến đều được thanh tịnh và chứng
được lý chân thật.
Bản
kinh tiếp tục giới thiệu việc tu tập ba pháp khác nhau (1.215c19ff). Đoạn kinh
này xuất hiện thêm hai lần, một lần ở nơi một thảo luận về Bốn niệm xứ
(216a10-11), và lần cuối liên quan đến những chi phần khác nhau của Bát Thánh
đạo (216a20).
Bản
kinh có một bản Pāli tương ứng, nhưng phiên bản Pāli không có sự xuất hiện từ
ekāyana.
Ở nơi phiên bản Tạp A-hàm của Guṇabhadra, nơi bản kinh được dịch tách
biệt này (tức là được truyền bá riêng lẽ, chứ không phải như một phần của bộ
A-hàm), từ ekāyana không giới hạn đối với ngữ cảnh Bốn niệm xứ, mà được
sử dụng liên quan đến nhiều thực hành khác nhau mà chúng được gộp thành từng
nhóm.
Nhất thừa và ekāyana: vấn đề dịch thuật
Với
một sự giống nhau rõ ràng như vậy giữa thuật ngữ ekāyana và ekayāna,
có thể kết luận rằng việc dịch từ ekāyana thành “nhất thừa” của
Guṇabhadra hoàn toàn là một sai lầm. Đây là vấn đề
– và cho dù có bất kỳ ý nghĩa nào mà ở đó nó có thể được xem là một sự dịch đúng
sẽ được thảo luận bên dưới – nhưng công việc của chúng tôi trở nên phức tạp bởi
sự thật rằng nghĩa của từ ekāyana thì ít rõ ràng.
Hầu hết những dịch giả dịch kinh điển Pāli người phương Tây đã xem cụm từ
ekāyana magga theo một nghĩa rất loại trừ; khi nó được F. L. Woodward
dịch là “the one sole way/con đường duy nhất”,
T. W. và C. A. F. Rhys Davids dịch là “the one and only path/con đường độc và
duy nhất”,
và cả I. B. Horner và Maurice Walshe dịch là “this one way/con đường độc nhất
này”.
Ngôn ngữ của những cách dịch này dường như mâu thuẫn, vì tuyên bố rằng bất cứ
điều nào đó có thể là “phương tiện duy nhất đưa đến giải thoát” dường như gần
với luận thuyết của Thiên Chúa giáo chính thống hơn là từ lời của Đức Phật. Sự
thực, Đức Phật được thể hiện nơi kinh điển Pāli và những kinh điển sơ kỳ khác
nói chung đặt lời dạy của Ngài theo ngữ cảnh để thích hợp với nhu cầu của người
nghe hơn là đưa ra một đề xuất chung cho loài người. Vậy nhưng, chính thuật ngữ
này đã tạo cảm hứng cho một số người hiện đại hóa Phật giáo trong thế kỷ XX đi
đến tuyên bố – dựa vào thẩm quyền của kinh Tứ niệm xứ – rằng tu tập thiền
Minh sát (vipassanā) là “điều cần thiết” [duy nhất] cho việc chứng đắc Niết-bàn.
Những
tác phẩm tham khảo tiêu chuẩn dường như ủng hộ “the sole way” như một sự dịch
khả dĩ từ ekāyana, vì Critical Pāli Dictionary định nghĩa nó là “a
single (= unique) road/ một con đường duy nhất”, cũng như “a road for one person
(= narrow, lonely, solitary road)/ một con đường dành cho một người duy nhất”,
hay “a road going to one place only/ con đường đưa đến một nơi duy nhất” (632b).
Pāli-English Dictionary của Hội Pāli Text Society cũng bao gồm quan điểm
về một con đường độc nhất nơi phần thảo luận của nó, định nghĩa thuật ngữ này là
“leading to one goal, direct way or leading to the
goal as the one & only way (magga)/ dẫn đến đích duy nhất, con đường trực tiếp
hay sự dẫn đến đích như là con đường [magga] độc nhất và duy nhất” (159b).
Tuy
nhiên, đây không phải là khả năng duy nhất. Một giải pháp khác được Bhikkhu
Bodhi chọn nơi bản dịch tiếng Anh của ông về phiên bản kinh Satipaṭṭhāna
được tìm thấy nơi Trung bộ kinh, mà nó được thực hiện trên cơ sở của một
bản dịch chưa được công bố của Tỳ-kheo Ñāṇamoli. Tỳ-kheo Bodhi dịch cụm từ
ekāyano maggo là “the direct path/con đường trực tiếp/thẳng” (Middhle Length
Discourses, tr.145 và 155). Ông biện luận một cách mạnh mẽ rằng nó không có
nghĩa là con đường “duy nhất” hay “độc nhất”. Ông cho chúng ta biết, Tỳ-kheo
Ñāṇamoli đã dịch ekāyano maggo là “con đường đi theo một chiều”.
Rồi sau đó, nơi bản dịch Saṁyuttanikāya của mình, Tỳ-kheo Bodhi đã dịch
chính cụm từ ấy là “the one-way path/ con đường một chiều” (Connected
Discourses, tập 2, tr.1627 và n.123 và tr.1915-1916).
Dường
như rằng “con đường trực tiếp” hay “con đường đi theo một hướng duy nhất” là một
cách dịch hợp lý – sự thực, có lẽ việc dịch khả dĩ duy nhất của cụm từ này ở nơi
một ngữ cảnh khác, ở đó nó được sử dụng nơi kinh Mahāsīhanāda thuộc
Trung bộ trong một thảo luận về những thú hướng tái sanh khác nhau. Nơi một
thảo luận mở rộng về khả năng của mình có thể nhìn thấy những số phận tương lai
của chúng sanh, Đức Phật nói rằng Ngài quán sát một người đang hướng thẳng đến
(paṇidhāya) đời sống kế tiếp của vị ấy “theo một con đường ekāyana”
(ekāyanena maggena).
Nhưng
có phải đây là sự dịch tốt nhất nghĩa của từ ekāyana ở nơi ngữ cảnh thảo
luận của kinh Satipaṭṭhana về bốn đối tượng của thực hành chánh niệm? Về
điều này Tỳ-khoe Bodhi đã nói như sau:
Mặc
dù không có cơ sở kinh điển hay luận giải cho quan điểm này, có thể khẳng định
rằng satipaṭṭhana được gọi là ekāyana magga, con đường trực tiếp, để phân biệt
nó với phương pháp đạt lấy thiền định mà nó phát triển ngang qua các thiền
(jhāna) hay các phạm trú (brahmavihāra). Trong khi các phạm trú có thể đưa đến
Niết-bàn, chúng không phải đều luôn như vậy mà có thể dẫn đến sự chệch hướng,
nhưng ngược lại satipaṭṭhāna luôn đưa đến mục đích cuối cùng.
Mặc dù nói rằng ông thích cách dịch này hơn,
Tỳ-kheo Bodhi cũng nói rõ rằng ông không thể tìm thấy tiền lệ ở nơi những nguồn
truyền thống. Đây là một trường hợp trung thực về mặt học thuật đáng ngưỡng mộ.
Sự thực, ông cũng đưa vào nơi sự thảo luận của mình một giải thích đầy đủ về nội
dung của đoạn văn liên quan từ luận giải của Buddhaghosa về kinh Trung bộ,
ở đó ekāyana magga được giải thích là “một con đường duy nhất, không phải
một con đường bị phân chia; như một con đường chỉ có một người đi, không có một
người đi cùng; và như một con đường đưa đến một đích duy nhất, Niết-bàn”. (sđd)
Một
thảo luận thậm chí chi tiết hơn về những ý nghĩa của ekāyana ở nơi Pāli
ngữ được tìm thấy nơi The Buddhist Path to Awakening của Rupert Gethin
(tr.59-66), mà Tỳ-kheo Bodhi trích dẫn ở nơi bản dịch Saṁyuktāgama của
ông (tr.1916, n. 123). Nơi những gì cho đến nay được coi là sự xem xét thấu đáo
nhất về thuật ngữ này, Gethin tóm tắt năm cách hiểu cơ bản thuật ngữ được tìm
thấy nơi những luận giải Pāli trong ngữ cảnh của Bốn niệm xứ (satipaṭṭhāna):
(i)
một con đường đơn (tức là con đường không có ngã rẻ);
(ii)
một con đường cô độc (tức là con đường chỉ có một người đi);
(iii)
con đường tốt đẹp nhất;
(iv)
một con đường được tìm thấy ở một nơi duy nhất (nơi ngữ cảnh hiện tại, được giải
thích là hàm chỉ cho Pháp và Luật của Phật); và
(v)
một con đường dẫn đến một nơi duy nhất (tức Niết-bàn).
Sau
khi tìm hiểu bốn trường hợp ekāyana khác nơi kinh điển Pāli (một ở trong
kinh Mahāsīhanāda vừa được đề cập ở trên, và ba trong những bài kệ
Jātaka), Gethin kết luận rằng “rõ ràng và chính xác là không ở đâu nghĩa
‘một và chỉ một’ là nghĩa thích hợp, và trong hầu hết mọi trường hợp là không rõ
ràng.” Như vậy, theo lời của Gethin, sẽ là “phần nào vô lý” khi chọn cách lý
giải này ở nơi ngữ cảnh Bốn niệm xứ (satipaṭṭhāna).
Một
trong những khó khăn trong việc cố gắng tìm ra một ý nghĩa rõ ràng về từ
ekāyana là sự thật rằng nó là một thuật ngữ hiếm ở trong Pāli ngữ, với phần
lớn các trường hợp là ở nơi đoạn kinh mà nó đi cùng với việc thảo luận về Bốn
niệm xứ (smŸtyupasthāna;
Pāli: satipaṭṭhāna). Điều này khiến ta gặp khó khăn khi sử dụng một trong những
công cụ chính của nhà ngôn ngữ học – một sự phân tích ngữ cảnh mà ở đó từ hay
cụm từ được sử dụng – để làm sáng tỏ ý nghĩa của nó.
Chính
ở đây mà những bản kinh Hán ngữ có thể là sự trợ giúp to lớn nhất, vì như chúng
ta đã thấy, truy tìm những trường hợp thuật ngữ nhất thừa nơi bản dịch
Tạp A-hàm (Saṁyuktāgama) của Guṇabhadra cho phép chúng ta xác định việc sử
dụng thuật ngữ ekāyana ở trong những ngữ cảnh ở bên ngoài sự thảo luận
thực hành Tứ niệm xứ. Khắc ghi điều này, và cũng nhằm vào việc xem xét cách
nhiều dịch giả Hán ngữ hiểu thuật ngữ này, chúng ta có thể xem xét tóm tắt những
sự dịch khác về ekāyana mārga ở trong những bộ A-hàm Hán ngữ.
Ekāyana mārga ở nơi những bản kinh A-hàm khác
Không
có bản kinh nào khác ở nơi những bộ A-hàm của ấn bản Taishō sử dụng thuật ngữ
nhất thừa để dịch thuật ngữ ekāyana. Tuy nhiên, sự thật là ekāyana
thường xuyên xuất hiện nơi một đoạn lập lại nhiều lần được sử dụng để miêu tả
Bốn niệm xứ (smŸtyupasthāna),
và điều này có nghĩa rằng chúng ta cũng có thể sử dụng những bản dịch Hán ngữ
khác nhau về Bốn niệm xứ để xác định những cách dịch Hán ngữ khác về ekāyana
mārga. Những trích dẫn sau là kết quả của việc áp dụng phương pháp này (để
giữ sự thảo luận này trong một phạm vi dễ sử dụng, xin giới hạn ở nơi các bộ
A-hàm được tìm thấy ở các tập 1 và 2 của ấn bản Taishō).
(1)
Trung A-hàm của Gautama Saṁghadeva (T26, 中阿含經, Madhyamāgama): (hữu) nhất đạo (有)
一道
Nơi
bản Trung A-hàm do Gautama Saṁghadeva (瞿曇僧伽提婆) dịch vào năm 397-398 TL,
bốn smŸtyupasthāna
thường
được dịch sang Hán ngữ là Tứ niệm xứ (四念處). Bằng việc tìm kiếm cụm từ này, chúng
ta có thể nhanh chóng xác định trường hợp của từ ekāyana. Nơi bản kinh số
98, Niệm xứ kinh (念處經; tương ứng với kinh Satipaṭṭhāna tiếng Pāli
trong Trung bộ 10), chúng ta thấy ekāyana mārga chỉ được dịch là nhất đạo
(一道), xuất hiện nơi cụm từ “hữu nhất đạo…” (có một con đường…)
Bằng
việc lần lượt tìm (有) 一道, chúng ta có thể xác định trường hợp khác của thuật ngữ
này trong một ngữ cảnh khác. Ở nơi kinh số 189, Thánh đạo kinh (聖道經; được
những người biên tập Taishō xác nhận là tương đương với Trung bộ 117,
kinh Mahācattārīsaka), nó được áp dụng cho “thánh chánh định”
(samyaksamādhi, 聖正定) cùng với bảy chi phần (七支) khác của Bát Thánh đạo.
Tuy nhiên, trong trường hợp này bản kinh Pāli tương ứng không có từ tương đương
ekāyana. Như vậy chúng ta thấy rằng, trái ngược với bản Pāli, nhưng giống
với bản dịch Tạp A-hàm của Guṇabhadra, việc xem xét lại Trung A-hàm
về việc sử dụng thuật ngữ ekāyana cho thấy nó không giới hạn nơi những
ngữ cảnh liên quan đến Bốn niệm xứ.
(2)
Bản dịch Saṁyuktāgama khuyết danh (T100, 别譯雜阿含經): 唯有 一道/Duy hữu nhất đạo
Một
bản kinh khác mà ở đó bốn smŸtyupasthāna
được gọi là Tứ niệm xứ (四念處) là một bản dịch khuyết danh một phần Tạp A-hàm,
được cho được thực hiện vào thời kỳ Tam Tần (三秦, 352-431TL). Bằng việc tìm kiếm
những trường hợp của cụm từ này, chúng ta có thể xác định thêm ba trường hợp của
từ ekāyana, ở đây được thể hiện nơi thuật ngữ thậm chí mang tính loại trừ
hơn là duy hữu nhất đạo (chỉ có một con đường). Cả ba được tìm thấy nơi
bản kinh số 102, một bản kinh tương đương với T99 (1189) nơi bản dịch Tạp
A-hàm của Guṇabhadra, mà nó lần lượt có một bản tương đương ở nơi Tương
ưng bộ tiếng Pāli,
và cả ba đề cập đến Bốn niệm xứ.
Tôi không thể tìm ra được bất kỳ những trường hợp ekāyana nào khác ở
trong bộ kinh này; như vậy nơi sự xem xét lại này, chúng ta có một dạng các
trường hợp mà nó giống với điều được tìm thấy nơi bản Pāli.
(3)
Một bản dịch cổ xưa về một tuyển tập các bản kinh Tạp A-hàm, có thể được
quy cho An Thế Cao (T101, 雜阿含經): 道一挈/Đạo nhất khiết
Bản
dịch Hán ngữ cổ nhất về bốn smŸtyupasthāna
là Tứ ý chỉ (四意止), một sự phiên dịch mà nó đã xuất hiện nơi những tác phẩm của
An Thế Cao (安世髙, 148-170). Truy tìm những trường hợp của cụm từ này khắp những
tác phẩm của ông,
chúng ta có thể nhận ra cách dịch khác về ekāyana mārga, mặc dù là một sự
chuyển dịch ít thông dụng nhất: ở đây từ ngữ diễn đạt là đạo nhất khiết
(道一挈). Không chỉ riêng vấn đề thuật ngữ mà ngay trật tự từ cũng khác thường –
trong cả hai trường hợp từ đạo (道) đứng trước cụm từ bổ nghĩa cho nó. Bản kinh
khá lý thú (nhưng cũng gây nhiều khó khăn) và xứng đáng đưa ra hai trích đoạn
đầy đủ ở đây:
人道一挈令行者從憂, 懣,苦, 不可薏能行度滅亦到正法. 何等為正法? 為四意正/ Nhân đạo nhất khiết linh hành
giả tùng ưu, muộn, khổ, bất khả ý năng hành độ diệt diệc đáo Chánh pháp. Hà đẳng
vi Chánh pháp? Vi tứ ý chánh. (2.494a19-21)
Nếu
một người thực hành
con
đường mà nó đưa đến một nơi duy nhất, thì nó khiến cho người thực hành có thể
thoát khỏi ưu sầu, phiền muộn, khổ đau, khó chịu, và đạt được Chánh pháp. Chánh
pháp là gì? Đó là bốn ý chỉ (smŸtyupasthāna).
道一挈得清淨. 令得離憂. 懣,苦, 不可薏,能行度滅, 能到正法, 能到四意正/ Đạo nhất khiết đắc thanh tịnh. Linh
đắc ly ưu, muộn, khổ, bất khả ý, năng hành độ diệt, năng đáo chánh pháp, năng
đáo tứ ý chánh. (2.494b4-6)
Con
đường đưa đến một nơi duy nhất khiến (chúng sanh) đạt được sự thanh tịnh,
khiến vượt qua ưu sầu, phiền muộn, khổ đau và khó chịu, khiến họ có thể đạt được
giải thoát,
và khiến họ có thể đạt được Bốn ý chỉ.
Đây là
trường hợp duy nhất của từ ekāyana ở nơi tác phẩm của An Thế Cao, và bởi
vì nó xuất hiện nơi sự nối kết với Bốn niệm xứ, nó không cung cấp bất kỳ thông
tin mới nào về những ngữ cảnh mà ở đó từ này được sử dụng. Tuy nhiên, sự phiên
dịch thì khác thường, và có thể là sự phiên dịch duy nhất mà nó phản ánh một sự
hiểu về con đường như là “chỉ đưa đến một nơi duy nhất”, tức là chỉ đi đến một
điểm.
(4)
Tăng nhất A-hàm được quy cho Gautama Saṁghadeva (T125, 增壹阿含經, Ekottarāgma):
一入道/Nhất nhập đạo
Trong
bản kinh này – theo truyền thống, nhưng chắc chắn sai, được quy cho Gautama
Saṁghadeva
– chúng ta lại tìm thấy Bốn niệm xứ (smŸtyupasthāna)
được dịch là Tứ ý chỉ (四意止), việc sử dụng từ ngữ diễn đạt được An Thế Cao tạo
nên. Sự thực, đây là vấn đề điển hình của Tăng nhất A-hàm, vì trong tất
cả bốn bộ A-hàm Hán ngữ, từ vựng và thể loại của nó là cổ xưa nhất. Từ việc sử
dụng thuật ngữ phiên dịch này, chúng tôi có thể xác định lại một trường hợp
thuật ngữ ekāyana.
Trái
ngược với những bản kinh mà chúng ta đã xem xét từ nãy giờ, ở đây chúng ta tìm
thấy một sự dịch từ nguyên hoàn toàn theo nghĩa đen, đó là nhất nhập đạo (一入道).
Rõ ràng, dịch giả đã dịch ekāyana như là bao gồm eka (một) cùng
với một hình thức của ā + √yā được hiểu là “đi vào”. Nguồn gốc từ nguyên ấy được
phản ánh nơi việc sử dụng rộng rãi bản dịch sơ thời sáu āyatana (sáu giác
quan) là lục nhập (六入). “Con đường một lối vào” là gì có thể không rõ ràng ngay
được, và có lẽ vì lý do này mà ở đây chúng ta cũng tìm thấy, lần đầu tiên, một
sự thảo luận về nghĩa của thuật ngữ này, mà nó có lẽ là một lời chú giải được
thêm vào trong quá trình phiên dịch:
云何名爲一入? 所謂專一心,是爲一入.
云何為道?所謂賢聖八品道/ Vân hà danh vi nhất nhập? Sở vị chuyên nhất tâm, thị vi nhất nhập.
Vân hà vi đạo? Sở vị hiền thánh bát phẩm đạo. (2.568a4-6)
“Một lối vào” là gì? “Một lối vào” có nghĩa là “nhất tâm”.
“Con đường” là gì? Đó là Bát Thánh đạo.
Đây là
trường hợp duy nhất về thuật ngữ ekāyana ở nơi Tăng nhất A-hàm, và
như vậy chúng ta có một trường hợp khác về một bộ A-hàm mà ở đó thuật ngữ này
xuất hiện chỉ ở nơi sự nối kết với Bốn niệm xứ (smŸtyupasthāna).
Ekāyana
nơi ngữ cảnh: chứng cứ Hán ngữ và Pāli ngữ
Một
xem xét những trường hợp của từ ekāyana ở nơi những bản dịch Hán ngữ cung
cấp cho chúng ta chứng cứ mới về hai loại: thứ nhất, chúng ta có thể thấy
ekāyana mārga đã được dịch sang Hán ngữ bằng nhiều cách khác nhau; và thứ
hai, bây giờ chúng ta có một danh mục mở rộng các ngữ cảnh mà ở đó thuật ngữ này
xuất hiện. Những sự chuyển dịch mà chúng tôi có thể xác định được là như sau:
(1)
Nhất thừa đạo (一乘道, con đường một cỗ xe) ở nơi Tạp A-hàm của Guṇabhadra.
(2)
Nhất đạo (一道, một con đường [duy nhất]) ở nơi bản dịch Trung A-hàm của
Gautama Saṁghadeva.
(3)
Duy [hữu] nhất đạo (唯[有]一道,
chỉ có một con đường [duy nhất]) ở nơi bản dịch Tạp A-hàm khuyết danh.
(4)
Nhất nhập đạo (一入道, con đường [độc] một lối vào) nơi bản dịch Tăng nhất A-hàm
được quy cho Gautama Saṁghadeva.
(5)
Đạo nhất khiết (道一挈, con đường [mà nó] dẫn đến một nơi [duy nhất]) ở nơi tuyển
tập Tạp A-hàm mà nó có thể là công trình của An Thế Cao.
Trong
số những cách dịch này, ít nhất có hai sự chuyển dịch mà chúng đưa ra một cách
hiểu thuật ngữ có tính loại trừ: nhất đạo (一道, một con đường [duy nhất])
gợi nhắc bản dịch Anh ngữ của I. B. Horner và Maurice Walshe (this one way, con
đường duy nhất này), trong khi duy hữu nhất đạo (唯有一道, chỉ có một con
đường [duy nhất]) phản ánh cách dùng từ của ông và bà Rhys Davids (the one and
only path, con đường độc và duy nhất). Một cách hiểu tương tự có thể được phản
ánh nơi việc dịch nhất nhập đạo (一入道, con đường [độc] một lối vào), mặc
dù có thể rằng dịch giả chỉ đang sao chép một cách máy móc những gì mình tin là
từ nguyên của thuật ngữ này. Sự dịch cổ xưa nhất, đạo nhất khiết (道一挈)
thì khó giải thích, nhưng việc giải thích hợp lý nhất có thể là “một con đường
mà nó đưa đến một nơi duy nhất” – tức là, con đường mà nó chỉ dẫn đến một nơi.
Nếu điều này là đúng, nó sẽ tương thích với cách hiểu của Tỳ-kheo Bodhi về thuật
ngữ này mà nó có nghĩa là một “con đường trực tiếp” hay “con đường một chiều”.
Vậy
thì nhất thừa đạo (con đường một cỗ xe) của Guṇabhadra, điều khởi đầu cho
việc nghiên cứu của chúng ta, có nghĩa gì? Để hiểu cách dịch này, chúng ta cần
mở rộng khung tham chiếu của chúng ta theo một chiều hướng khác, đó là bao gồm
những bản dịch khác do Guṇabhadra thực hiện. Bằng việc làm như vậy chúng ta lập
tức thấy rằng thuật ngữ nhất thừa (一乘) xuất hiện nơi những công trình
khác của chính dịch giả này, và ở nơi những ngữ cảnh mà ở đó chúng ta có thể
hoàn toàn chắc chắn rằng thuật ngữ cơ sở Ấn Độ là ekayāna (nhất thừa). Ví
dụ, đây là trường hợp nơi bản dịch của ông về kinh Śrīmālādevīsiṁhanāda
(T353, 勝鬘師子吼一乘大方便方廣經/
Thắng
Man sư tử hống nhất
thừa
đại phương tiện
phương
quảng kinh), ở đó thuật ngữ này xuất hiện 13 lần (ngoài trường hợp ở nơi chính
tiêu đề bản kinh). Nó cũng xuất hiện, lại rõ ràng ở nơi nghĩa “nhất thừa”, ở nơi
một bản kinh mà chúng ta đã bắt gặp ở trên: Aṅgulimāla-sūtra (T120,
央掘魔羅經), mà trong thực tế là một bản dịch khác của Guṇadhabra. Như vậy, trong khi
chúng ta có thể mạo muội làm rõ nghĩa phiên dịch từ ekāyana của
Guṇabhadra như muốn nói điều gì đó như là “một con đường hẹp” (tức là một con
đường chỉ đủ rộng cho một chiếc xe ngựa đi), có vẻ như nhiều khả năng rằng cảm
giác đầu tiên của chúng tôi về việc chọn lựa của ông là đúng: rằng việc dịch
ekāyana là nhất thừa đạo chỉ là một sự nhầm lẫn. Bị ảnh hưởng bởi sự
tiếp xúc với thuật ngữ ekayāna ở trong những bản kinh Đại thừa, và có lẽ
vì không quen thuộc với từ rất hiếm ekāyana, Guṇabhadra có thể đã nghĩ
rằng bản kinh gốc của ông bị nhầm lẫn và sửa nó thành ekayāna, và sau đó
dịch sang Hán ngữ là nhất thừa.
Những
nguồn Hán ngữ cũng có thể giúp chúng ta bằng việc cung cấp một phạm vi mở rộng
những nguồn tài liệu mà ở đó thể thức ekāyana xuất hiện. Nhiều nhất trong
đó, không ngạc nhiên, là những trường hợp trong việc nối kết với Bốn niệm xứ (smŸtyupasthāna),
mà chúng ta đã thấy ở nơi ba trong số những bản kinh Tạp A-hàm do
Guṇabhadra (T99 [535, 607, và 1189]) dịch, cũng như ở nơi Trung A-hàm do
Gautama Saṁghadeva (T26 [98]) dịch, một bản dịch Tạp A-hàm khuyết danh
(T100 [102]), một hợp tuyển Tạp A-hàm cổ xưa có thể do An Thế Cao thực
hiện (T101), và bản dịch Tăng nhất A-hàm của một dịch giả không rõ ràng
(T125[12.1]), cũng như ở nơi một bản kinh thuộc Trường A-hàm được dịch
riêng lẽ, kinh Janarṣabha (T9). Tất nhiên, đây cũng là ngữ cảnh duy nhất
mà ở đó thuật ngữ ekāyana xuất hiện trong những kinh Pāli (DN 22, NM10,
và SN v.167-168). Tuy nhiên, những A-hàm Hán ngữ cũng cung cấp một số những
trường hợp khác. Ở đây thuật ngữ xuất hiện trong sự nối kết với Bốn như ý túc (Ÿddhipāda,
T99[561]), với ba thực hành cụ thể là giới, tứ thiền, và hiểu rõ Tứ Thánh đế
(T99[563]), Bát Thánh đạo (T9 và T26[189], với một sự tập trung vào
samyaksamādhi ở nơi Bát Thánh đạo), một bộ ba giáo pháp (T9), và sáu
niệm/tùy quán (anusmŸti,
T99[550]), cái sau cùng có một sự tương ứng ở nơi đoạn Sanskrit. Ngoài ra, chúng
ta cũng có thể thêm một tham khảo từ Pāli, vì như Gethin đã chỉ ra, ở nơi
Niddesa (một trong hai luận giải được đưa vào trong tạng Pāli), thuật ngữ
ekāyana được áp dụng không chỉ đối với Bốn niệm xứ (satipātthāna), mà
đối với mỗi trong bảy nhóm thuộc 37 phẩm trợ đạo (bodhipakkhiyā dhamma).
Như vậy ở đây chúng ta thấy thuật ngữ cũng được áp dụng cho những chi phần mà
chúng ta thấy đề cập trong những nguồn khác, chẳng hạn như Bốn như ý túc (Ÿddhipāda,
Pāli: iddhipāda) và Bát Thánh đạo.
Trong
việc xem xét những cách dịch ekāyana được những dịch giả Hán ngữ và Anh
ngữ đưa ra – đặc biệt những người đã sử dụng thuật ngữ để biện luận rằng thực
hành Tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna) là “điều duy nhất cần có” để đạt giải
thoát – điều đáng chú ý là rằng không có một ngữ cảnh của việc sử dụng thuật ngữ
này mà ở đó việc thực hành được nói đến là duy nhất. Ngược lại, sau khi nói rằng
Đức Phật đã dạy một ekāyana mārga mà nó có thể thanh tịnh chúng sanh
v.v…, ở đó thường đi theo một câu hỏi: “Và những gì là ba (hoặc bốn, hoặc năm,
hoặc sáu)?” Một danh mục một nhóm các thực hành – không chỉ là một thực hành duy
nhất – đi theo sau đó.
Như
vậy, căn cứ vào những ngữ cảnh này, rõ ràng rằng việc xem thuật ngữ ekāyana
(ít nhất ở nơi ngữ cảnh ekāyana mārga mà chúng ta quan tâm) có nghĩa là
con đường “độc nhất” hay “duy nhất” là không chỉ cố chấp, như Gethin đã nói, mà
hoàn toàn sai lầm. Việc dịch ekāyana mārga là con đường “trực tiếp”, hay
con đường đưa đến một đích duy nhất (như đề xuất bởi Tỳ-kheo Ñāṇamoli và Tỳ-kheo
Bodhi) thì không phải là không khả dĩ, nhưng có thể có sự dịch khác mà nó sát
với thể thức sử dụng của từ này hơn. Và ở đây chúng ta không cần phải quay lại
những luận giải của Buddhaghosa – mà niên đại gần một ngàn năm sau thời Đức
Phật, và như vậy có lẽ ít nhất vài thế kỷ sau khi các bộ kinh được kiết tập – mà
tìm đến việc sử dụng thuật ngữ này ở nơi nhiều nguồn tài liệu cùng thời với Phật
giáo hơn. Ở phương diện này, những bản văn không thuộc Phật giáo có niên đại
tương đương với thời kỳ đầu Phật giáo có thể giúp phản chiếu những ý nghĩa của
thuật ngữ này ở nơi những kinh Pāli và Prakrit hơn những luận giải Phật giáo
được sáng tác nhiều thế kỷ về sau. Không cần tìm đến những nguồn chuyên sâu để
tìm một giải pháp, vì ngay ở nơi một tác phẩm tham khảo có sẵn,
Sanskrit-English Dictionary của Monier William, chúng ta tìm thấy một vài
gợi ý. Ở đây, mục từ ekāyana bao gồm những định nghĩa chẳng hạn như “con
đường hẹp” và “con đường duy nhất”, nhưng nó cũng đưa ra hai sự dịch khả dĩ
khác: “một nơi hội họp” hay “nơi tập họp của hội” (ở trong Śatapathabrāhmaṇa),
và “nhập làm một” hay “hợp nhất” (ở trong Mahābhārata và Chandogya
Upaniṣad). Sự thực, nghĩa sớm nhất của thuật ngữ này, như được chứng nhận
trong văn học Veda, liên quan đến chỗ hợp lưu của những con sông; và nghĩa “chỗ
hợp lưu hay điểm hợp nhất” này thậm chí được xem như là hình thức gốc và đi đến
được sử dụng như một tính từ cùng với từ mārga.
Trong khi một vài sử dụng thuật ngữ ekāyana ở nơi nghĩa con đường duy
nhất (con đường hẹp hay độc nhất) dường như được xác nhận ở nơi văn học không
thuộc Phật giáo, ý nghĩa cơ bản của thuật ngữ này là sự kết hợp những yếu tố
nguyên thủy vốn tách rời.
Tôi
cho rằng chính nghĩa thứ hai cho biết việc sử dụng thuật ngữ ekāyana ở
nơi đoạn kinh, ở đó nó xuất hiện lập đi lập lại trong những thảo luận về những
thực hành được gộp thành từng nhóm. Trong ngữ cảnh ấy, việc dịch tốt nhất cụm từ
ekāyana maggo có thể là con đường “hợp nhất” hay con đường “tích hợp”,
tức là một con đường bao gồm một sự kết hợp nhiều sự thực hành. Sự thật rằng
thuật ngữ ekāyana rõ ràng cũng có nghĩa là “trực tiếp, đi thẳng đến đích”
ở trong một số bản kinh, và điều này có thể đã trao cho thuật ngữ này nhiều ý
nghĩa: có những nhóm thực hành khác nhau không chỉ được hợp nhất, mà chúng còn
đưa ta thẳng đến đích.
Kết
luận
Qua
việc truy nguyên những trường hợp của thuật ngữ nhất thừa (一乘) ở trong
các bộ A-hàm của kinh tạng Hán ngữ, chúng ta không xác định chứng cứ ban đầu cho
quan điểm “nhất thừa” trong những bản kinh không thuộc Đại thừa. Trái lại, chúng
ta đã nhận ra một sự dịch sai thuật ngữ Ấn Độ ekāyana-mārga thành nhất
thừa đạo. Tuy nhiên, chứng cứ này bất ngờ có hữu ích khi đưa chúng ta đến
một phạm vi các trường hợp của thể thức ekāyana ở nơi những ngữ cảnh cả
tương đồng và dị biệt với những thể thức được tìm thấy nơi những bản kinh Pāli.
Kết quả là, chúng ta có thể nói rằng thuật ngữ khó hiểu ekāyana được sử
dụng ở nơi những đoạn lập lại nhiều lần này không mang ý nghĩa một sự thực hành
duy nhất hay độc nhất, mà đề cập đến những nhóm thực hành mà chúng xuất hiện như
một tập hợp thống nhất.
Ngoài
ra, góp phần cho một cách hiểu về thuật ngữ Sanskrit và Prakrit ekāyana,
những tài liệu Hán ngữ được xem xét nơi bài viết này cũng có thể cung cấp thêm
chứng cứ về quá trình truyền bá kinh Phật ở Ấn Độ. Một thuật ngữ mà nó có thể
vốn liên quan đến một bản kinh duy nhất (hầu như có khả năng là một phiên bản
của kinh Satipaṭṭhāna) có thể sau đó được những người thuyết giảng thêm
vào như một lời chú giải ở nơi một dòng truyền thừa (chẳng hạn Nhất thiết hữu
bộ) mà không phải ở nơi nơi những dòng truyền thừa khác (chẳng hạn Theravāda)
khi nhận xét về những bản kinh được ghi nhớ khác mà chúng thảo luận về những
nhóm thực hành tương tự.
Tất
nhiên, không có nguồn nào được thảo luận ở trên nói bất kỳ điều gì về “nhất
thừa” theo nghĩa lâu nay được hiểu – tức là, quan điểm rằng trong trong khi Đức
Phật dạy ba con đường khác nhau đưa đến giác ngộ, chỉ có Bồ-tát đạo là chân
thật. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong tương lai của những học giả khác đối với
những trường hợp nhất thừa nơi kinh tạng Hán ngữ có thể hướng chúng ta chú ý đến
những bản dịch kinh Hán ngữ khác (hiện không được xem xét nơi ngữ cảnh này) mà ở
đó quan điểm này thực sự xuất hiện. Kinh điển Phật giáo thì mênh mông, và mặc dù
những vị tiền bối đã có những đóng góp đồ sộ và giá trị về mặt học thuật, vẫn
còn nhiều điều cần phải làm./.
Nguồn:
Annual Report of The International Research Institute for Advanced Buddhology
(ARIRIAB), Vol. X (March 2007), Soka University, Nhật Bản, tr. 181-200.