Tính kế thừa và phát triển trong Phật giáo
tinh ke thua 
TÍNH KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG PHẬT GIÁO
Thích Trung Hữu
 
Đôi khi huynh đệ ngồi đàm đạo với nhau, tôi lấy 
làm lạ là cho đến giờ cái tâm lý phân biệt bộ phái vẫn còn, dù bằng tên gọi Tiểu 
thừa hay Đại thừa, Nguyên thủy hay Phát triển, Nam tông hay Bắc tông. Người bạn 
Nam tông thì nói rằng kinh điển Phật giáo Đại thừa như tiểu thuyết thần thoại, 
còn người bạn Bắc tông thì nói rằng không phải là anh ta phân biệt nhưng mình là 
Phật giáo Đại thừa thì phải phát huy bản sắc Đại thừa, tu thiền cũng phải là 
thiền được dạy trong kinh điển Đại thừa, chứ cũng tu thiền Nguyên thủy thì, anh 
ta nói với tôi, chuyển hệ qua Nam tông cho rồi. Trên đây đều là những suy nghĩ 
thiên lệch. Cho nên trong bài viết này tôi xin được mạn đàm thêm về vấn đề này 
(vì đây không phải là đề tài mới) để thấy rằng Phật giáo như một cái cây thống 
nhất. Dù có chia ra đây là cành cây, lá cây hay hoa trái… nhưng chúng đều là 
những biểu hiện khác nhau của một thể thống nhất, đều chia sẻ đồng nhau chất 
dinh dưỡng của toàn bộ cái cây có được.
Đông y có khái niệm rất hay là “thông bất thống, 
thống bất thông,” cơ thể mà đau nhức là do kinh mạch khí huyết bị bế tắc, khi đã 
được khai thông rồi thì không còn đau nữa. Cũng thế, khi ta đã thấu suốt tư 
tưởng của các học phái rồi thì sẽ thấy không còn khác nữa. Như trường hợp người 
bạn Nam tông trên, sở dĩ anh ta cho kinh Đại thừa toàn nói chuyện viễn vong như 
tiểu thuyết hay thần thoại là do anh ta không hiểu ý nghĩa ẩn dụ đằng sau. Phát 
biểu của anh ta làm tôi nhớ đến chuyện Thánh Gióng 
mà tôi đã học hồi nhỏ. Đối với 
những loại chuyện thần thoại như Thánh Gióng, có ba trình độ để hiểu. 
Trình độ trẻ thơ thì cho chuyện Thánh Gióng hoàn toàn thật. Những người 
bình thường thì cho đó là chuyện hoang đường, được viết chỉ với mụch đích giải 
trí. Nhưng những người nghiên cứu văn học thì biết rằng đó không phải là một câu 
chuyện thật, nhưng cũng không phải chỉ viết ra để chơi, mà nhắm biểu hiện một 
triết lý sâu xa. Thánh Gióng là tiêu biểu cho người dân Việt Nam, những người 
lúc bình thường thì sống khiêm tốn, thầm lặng (như cậu bé Gióng lên ba tuổi mà 
vẫn chưa biết nói), nhưng khi có giặc ngoại xâm thì sẳn sàng đứng lên một cách 
kiên cường để bảo vệ tổ quốc (như Gióng khi nghe sứ giả của vua kêu gọi thì liền 
biết nói). Gióng ăn rất nhiều nên cả làng phải đóng góp lúa gạo là ý muốn nói 
rằng toàn dân đều ra sức chống giặc. Ngựa sắt mà cũng biết chạy là muốn nói rằng 
lòng căm thù giặc hay lòng yêu nước của nhân dân ta động đến cả những vật vô 
tri, hoặc ngay những vật vô tri cũng phải căm hờn trước tội ác của giăc. Sau khi 
roi sắt bị gãy, Gióng nhổ luôn những bụi tre ven đường để đánh giặt là muốn nói 
rằng nhân dân ta đánh giặc với mọi phương tiện có được để bảo vệ đất nước. Và 
chúng ta cũng nên hiểu về kinh điển Đại 
thừa bằng cách ấy thì mới hiểu được đúng ý nghĩa của kinh. Nhưng tại sao kinh
Đại 
thừa không nói trực tiếp, đơn giản như kinh A-hàm và Nikāya 
có phải dễ hiểu hơn không? Điều này nếu nói rộng ra thì rất chi là phức tạp, 
không thể nói xong trong một bài báo được. Nhưng đại khái là A-hàm và Nikāya 
chủ yếu nói về phương pháp tu, còn kinh Đại thừa thì nói về cảnh giới tu chứng. 
Phương pháp tu thì đơn giản, và cũng cần phải nói đơn giản cho người ta có thể 
thực hành một cách dễ nhất. Nhưng cảnh giới chứng đắc thì bất khả tư nghì thì 
làm sao ngôn ngữ bình thường có thể diễn tả cho nổi. Ngay cả nói về tình thương 
của người mẹ thì ca dao cũng có câu: “Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá, chở không 
đầy hai tiếng mẹ yêu.” Tình mẹ là cái gần gũi mà ngôn ngữ còn bị cho là khờ dại, 
vụng về thì nói chi đến cảnh giới tôn giáo cao thâm vi huyền. Điều này nếu không 
phải là người chuyên nghiên cứu về kinh điển 
Đại 
thừa thì không sao hiểu thấu đáo được. Vì không hiểu cho nên mới thấy đó là tiểu 
thần thoại viễn vong. Nếu thật sự kinh điển đại thừa chỉ là thần thoại viễn vong 
thì chắc chúng không thể được lưu truyền đến ngày nay và được dịch ra nhiều thứ 
tiếng. Hơn nữa, đã có không biết bao nhiêu người nhờ kinh 
Đại 
thừa mà giác ngộ, như Huệ Năng với kinh Kim 
cang, 
Huyền Giác với kinh Duy Ma Cật. 
Còn người bạn Bắc tông kia cho mình là
Đại 
thừa thì phải phát huy những tính chất của 
Đại 
thừa mà thôi thì cũng không đúng. Đó là tự cắt mình ra khỏi cây đại thụ Phật 
giáo, là tự làm khổ mình. Theo chỗ nghiên cứu của chúng tôi thì tính kế thừa 
trong Phật pháp thể hiện rất rõ dù ở bất cứ thời kỳ nào, pháp môn nào. Sau đây 
ta hãy nên ra vài trường hợp để thấy dù Phật pháp phát triển đa dạng nhưng lại 
rất dung thông nhau, trước sau kế thừa và bổ sung cho nhau. 
Nói đến Phật giáo Đại thừa ta liền 
nghĩ ngay đến tư tưởng tánh 
Không. Tánh Không là tên gọi khác của nhân duyên, như Trung quán
luận, phẩm Quán 
Tứ đế nói:
Chưa từng có 
một pháp không từ nhân duyên sanh,thế nên tất cả pháp
không gì chẳng 
phải Không. 
Tư tưởng này thật ra đã có từ thời 
Đức 
Phật. Trong kinh Tạp A-hàm 13, phẩm Đệ 
nhất
nghĩa
không 
có ghi đoạn như sau: 
“Thế nào là kinh Đệ 
nhất nghĩa không? Này các 
Tỳ-kheo, khi mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. 
Như vậy mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp 
báo mà không tác 
giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương 
tục. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ pháp tục 
số. Pháp tục số, tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia 
khởi, như vô 
minh duyên hành, hành 
duyên thức, nói chi 
tiết đầy đủ cho 
đến thuần một khối khổ lớn tập 
khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia 
diệt, vô 
minh diệt nên hành diệt, hành 
diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho 
đến thuần một khối khổ lớn tụ 
diệt. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là kinh Đệ 
nhất nghĩa không.”
Đọc đoạn kinh này ta thấy 
nó quá gần gũi với tư tưởng Bát-nhã tánh 
Không của Phật giáo Đại thừa. Những câu trong Trung 
quán
luận 
như  “Pháp các 
nhân duyên sanh, Ta nói 
tức là Không, Cũng gọi 
là giả danh, Cũng là nghĩa 
Trung đạo,” chẳng qua cũng là giải thích thêm 
tư tưởng trên của Phật giáo 
Nguyên 
thủy mà thôi. Hay đoạn kinh sau đây trong 
Tăng 
nhất 
A-hàm 6: 
“Như thế Thích Đề 
Hoàn Nhơn, tất cả cái có đều quy về không, không ngã, không nhơn, không thọ, 
không mệnh, không sĩ, không phu, không hình không tướng, không nam không nữ, 
cũng như gió, Thích Đề Hoàn Nhơn phá hoại cây lớn,” 
thì 
thật là giống với tứ tướng (Tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ 
giả) của kinh Kim
cang 
làm sao.
Không chỉ 
tư 
tưởng 
tánh 
Không mà ngay cả Duy thức học cũng có nguồn gốc ngay từ thời 
Đức 
Phật và Phật giáo bộ phái. Khi 
Đức 
Phật còn tại thế, Ngài chỉ đề cập đến sáu thức là mắt tai mũi lưỡi thân và ý 
thức. Đó là bởi vì Ngài chỉ chú trọng vào sự thực hành. Ngài chỉ dạy làm sao để 
cho hàng đệ tử thực hành được dễ dàng và có hiệu quả chứ không đi vào triết lý 
viễn vong. Vào thời 
Đức 
Phật, pháp môn tu học chủ yếu của hàng 
Tỳ-kheo 
là phòng hộ sáu căn cho nên chỉ cần nói sáu thức là đủ. Tuy nhiên, càng về sau 
thì người ta càng chú trọng đến tính học thuật. Người ta không bằng lòng theo 
cách “cứ tu đi rồi sẽ hiểu” mà người ta muốn hiểu trước rồi mới tu. Do đó mà 
ngành lý luận Phật giáo đã hình thành và phát triển. Sự phát triển này, cơ bản 
là do những lý do sau: 
một 
là do chư 
Tăng 
có nhiều kiến giải khác nhau về lời dạy của 
Đức 
Phật, hai là giải thích về mặt lý luận những vấn đề mà 
Đức 
Phật chỉ mới đặt ra chứ chưa giải thích, và ba là để tranh luận với các học phái 
ngoại đạo với mục đích phá tà hiển chánh. Và đây cũng là lý do đưa đến sự phân 
chia bộ phái trong Phật giáo cũng như sự ra đời của Phật giáo 
Đại 
thừa, trong đó có Duy thức học với điểm đặc sắc là giáo lý về A-lại-da thức.
Trước hết là khái niệm Duy thức. Nó là phải là một sự đột biến về tư tưởng mà là 
sự kế thừa, có thể nói, là từ thời 
Đức 
Phật. Chúng ta hãy đọc thêm đoạn kinh sau trong kinh Kiên cố thuộc 
Trường A-hàm: 
“Hỏi: Ở chỗ nào đất, nước, lửa, gió không đứng? Ở chỗ nào dài, ngắn, nhỏ, thô, 
sạch, nhơ không đứng? Ở chỗ nào danh sắc diệt hết không còn? Ðáp: Ở thức  không  
thể  thấy,  hết  thảy  ánh  sáng  vô  hạn  (sabbatopabham)  mà  đất, nước,  
lửa,  gió không  đứng,  dài,  ngắn,  nhỏ, thô, sạch,  nhơ không đứng,  hễ thức 
diệt thì tất cả đều diệt.”
Ý nghĩa của đoạn kinh trên đây đại khái cho rằng nhờ có ánh sáng nhận thức mới 
thấy những vật chất đất, nước, lửa, gió hoặc những hiện tượng thô, nhỏ, đẹp, xấu 
v.v… Nói một cách đơn giản, phàm vật gì được thành lập là danh sắc khách quan 
thì khi nào thức diệt, tất cả đều cũng diệt. Ý nghĩa này đã được  gói  ghém  
một  cách  rất  gọn  gàng  bằng  câu  sau  đây  trong  
kinh 
Tập (Suttanipata), Tiểu bộ kinh: “Hết thảy đều dựa vào thức mà đứng.” 
Điều này cho thấy rằng,
cái điều kiện thành lập vạn hữu là pháp tắc nhân duyên rốt ráo cũng không ngoài 
ý chí và sự nhận thức của người ta. Nói cách khác, thời 
Đức 
Phật thì thế  giới quan “vạn pháp duy tâm” đã được thành lập rồi, dù 
Đức 
Phật đã chưa từng nói rõ. Và theo sự nghiên cứu của Kimura Taiken trong 
Nguyên thủy phật giáo tư tưởng luận thì: “Triết  học quan niệm luận của 
Ðại thừa giáo sau này, có thể nói, chính đã bắt nguồn từ  đó, mà  điểm  đặc  
biệt  rõ ràng  hơn  cả  là  Phật  giáo  Bát-nhã hệ  theo  lập trường  nhận  
thức  luận  và  Phật  giáo  Duy thức hệ  lấy  chủ  ý  luận  làm  chủ vậy.”
Trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng, Phật giáo bộ phái đã đặt ra 
những vấn đề mà được cho là mầm mống của Duy thức học nói chung và thức A-lại-da 
nói riêng. Theo truyền thống thì 
Đức 
Phật chỉ đề cập đến sáu thức là nhãn, nhỉ, 
tỷ, thiệt, thân, và ý thức. Đến thời kỳ này thì người ta bắt đầu thắc mắc rằng, 
nếu chỉ có sáu thức thì trong những trường hợp như ngủ say hay chết giấc hay 
những người nhập diệt thọ tưởng định, lúc này rõ ràng là không có sự hiện hữu 
của sáu thức bao gồm ý thức. Vậy thì lúc đó thức còn hay mất? Nếu mất thì con 
người đã chết, mà đã chết rồi thì làm sao phục hồi lại được, còn nếu còn thì 
chúng đi đâu, ở đâu? Vậy thì chắc chắn rằng đằng sau hay bên dưới sáu thức phải 
còn một hay nhiều thức khác nữa làm nền tảng, làm nơi nương tựa, làm chốn đi về 
cho tiền lục thức khi mà vì lý do nào đó các thức này ngưng hoạt động tạm thời. 
Và đây chính là lý do cho sự ra đời thêm thức Mạt-na thứ bảy và thức A-lại-da 
thứ tám trong Duy thức học.
Đức Phật tuy là không dùng khái niệm tâm vương và tâm sở như cách chia của Duy 
thức học nhưng lại cho là tâm có bốn yếu tố là thọ, tưởng, hành, và thức. Nếu 
đứng trên lập trường phân loại tâm – tâm sở mà nhận xét thì 
thức 
là 
tâm
vương, còn ba yếu tố kia là 
tâm 
sở. 
Cho nên 
có thể nói rằng, sự phân loại 
tâm 
vương và 
tâm 
sở sau này trong Duy thức học đã có nguồn gốc từ những gợi ý từ những lời dạy 
của đức Phật về giáo lý ngũ uẩn vậy.
Có thể nói rằng, hòn đá tảng của Duy thức học chính là học thuyết A-lại-da thức, 
hay còn có những tên gọi khác nữa như Căn bản thức, Tàng thức, Nhất thiết chủng 
thức. Thức này thật ra đã được manh nha từ thời 
Đức 
Phật, rồi kỳ Phật giáo bộ phái và Phật giáo 
Đại 
thừa. Ví dụ như trong truyền thống Hữu bộ (Sarvastivada) đã sử dụng khái niệm 
Căn bản thức (Mulavijnana). Mula là căn bản, là gốc rễ. Gốc rễ của tất cả mọi 
pháp đều có trong đó cả nên gọi là Căn bản. Đại Chúng bộ cũng thừa nhận Căn bản 
thức. Trong Duy thức tam thập tụng, ngài Thế Thân có đề cập đến Căn bản thức như 
sau: 
“Y chỉ căn bản thức, 
Ngũ thức tùy duyên hiện, 
Hoặc câu hoặc bất câu, 
Như đào ba y thủy.” 
Vậy thì danh từ Căn bản thức nó cũng có trong Duy thức tam thập tụng. Nếu có Căn 
bản thức thì cũng có những thức không phải là căn bản. Trong Duy thức học 
của Thế Thân, những thức không căn bản này được gọi là Chuyển thức, tức là những 
thức chuyển hiện từ thức căn bản mà ra. Có bảy chuyển thức như thế trong Duy 
thức học. 
Hay như Hóa địa bộ (Mahisasaka) chủ trương có “Cùng sinh tử uẩn”, tức là một 
loại yếu tố luôn luôn đi theo hữu tình trong vòng sinh tử, trải  qua  vô lượng 
sinh tử mà không hề bị tiêu diệt. Kinh lượng bộ (Sutrantika) thì thừa nhận sự 
tồn tại của “Tế ý thức”; Trong khi Đồng diệp bộ đưa ra khái niệm Hữu phần thức 
(Bhavangasota). Hữu là sự có mặt, ý nói thức này lúc nào cũng hiện hữu. Ngài 
Phật Ấn giải thích Tâm hữu phần là “Kinh nghiệm của người ta khi suy biến mà 
tách rời khỏi cõi thức thì được thu vào “hữu phần” này, đợi khi nào có sự kích 
thích từ bên ngoài đưa vào tâm người ta mới khởi lên hoạt động nhận thức thì tất 
phải dựa vào sự chấn động của hữu phần này.” 
Chữ Sota (trong Bhavangasota) có nghĩa là dòng nước. Chúng ta nhớ lại là 
ngài Thế Thân đã ví A-lại-da thức thường trôi chảy như một dòng nước mạnh, 
“Hằng chuyển như bộc lưu.” Chữ Bhavanga (trong Bhavangasota) có nghĩa gốc là 
“một kiếp sống,” được dịch với những tên gọi khác nhau như Hữu phần thức, Tâm 
hữu phần, hoặc Tâm hộ kiếp. Và đây là chức năng của Tâm hộ kiếp: 
“Có những khoảnh khắc lúc không có những cảm xúc giác quan, khi người ta không 
suy nghĩ, khi không có tâm bất thiện và tâm thiện. Những khoảnh khắc đó có tâm 
không? Thậm chí khi không có những cảm xúc giác quan và không có suy nghĩ thì 
vẫn có tâm; nếu không sẽ không có đời sống. Loại tâm này sanh và diệt ở những 
khoảnh khắc đó được gọi là Tâm hộ kiếp (Bhavangacitta). Tâm hộ kiếp theo nghĩa 
đen có nghĩa là “yếu tố của đời sống”. Tâm hộ kiếp duy trì sự liên tục trong một 
kiếp sống, cho nên những gì chúng ta gọi là một “chúng sanh” thì nó liên tục 
sống từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Ðó là chức năng của Tâm hộ kiếp. 
Người ta có thể tự hỏi, Tâm hộ kiếp có thường phát sinh hay không. Chắc chắn có 
vô số Tâm hộ kiếp phát sinh ở những khoảnh khắc đó, khi không có những cảm xúc 
giác quan, không có suy nghĩ, không có tâm bất thiện hay tâm thiện. Khi chúng ta 
ngủ, nằm mộng thì có tâm bất thiện và tâm thiện, nhưng thậm chí khi chúng ta ngủ 
không nằm mộng thì vẫn phải có tâm… Những Tâm hộ kiếp này chỉ có nhiệm vụ duy 
trì sự liên tục kiếp sống của con người.”
Tức là thừa nhận có một nguyên lý vĩnh viễn duy trì sự liên tục của thức. 
Tỳ-kheo Giác Chánh trong “Vi diệu pháp giảng giải” giải thích rằng “Tâm hộ 
kiếp là tâm chủ quan gìn giữ kiếp sống khi không bị cảnh giới kích thích tới 
(phần tiềm thức).” 
Như thế, 
dù cho các bộ phái có đưa ra những tên gọi khác nhau nhưng nội dung hay chức 
năng của chúng là hoàn toàn giống nhau. Đó là một loại tâm thức tồn tại sâu kín 
và thường trực bên dưới hay đằng sau cái gọi là tiền lục thức. Cái thức này 
không chỉ thường trực mà còn theo chúng sinh từ kiếp này đến kiếp khác. Thức đó, 
không còn nghi ngờ gì nữa, chính là tiền thân của thức A-lại-da trong Duy thức 
học. Căn cứ vào những liên hệ trên, nhà Phật học Nhật bản Kimura Taiken 
đã nhận xét rằng: “Thế là dù trong Tiểu thừa, chủ trương thuyết A-lại-da-thức 
cũng đã ngấm ngầm được thừa nhận… Tư tưởng A-lại-da thức hay Như Lai tàng của 
Đại thừa Phật giáo sau này cũng do hệ thống đó mà phát đạt.”
Chính Bồ-tát Thế Thân đã thừa nhận rằng ngài đã tham khảo những luận thuyết 
của những người đi trước để hoàn chỉnh hệ thống Duy thức học của mình. Đơn cử 
như trong Đại thừa thành nghiệp luận, ngài đã nói rằng:
“Trong Xích đồng diệp bộ kinh có thành lập Hữu phần thức.”
Và điều lý thú hơn nữa là chúng ta cứ 
tưởng Thiền đốn ngộ là sáng tạo độc đáo của Phật giáo Trung Hoa, nhưng thật ra 
nó cũng đã có từ thời Đức 
Phật rồi. Xét quá trình tu tập của một hành giả cho đến khi chứng quả A-la-hán 
ta thấy rằng đó là 
kết quả của sự tu dưỡng liên tục bất 
đoạn, rồi nhờ một nhân duyên mà đạt giác ngộ. Sự chứng quả phải tuỳ thuộc ở sự 
tu dưỡng nhiệt thành đến mức độ nào đó, và cũng còn phải nhờ có cơ hội điểm đạo 
hay nhân duyên tác động nữa. Ví như ngài A-nan 
đã thị giả Phật suốt  hai mươi lăm năm, nhưng khi Phật còn tại thế vẫn chưa giác 
ngộ vì nhân duyên chưa chính mùi. Trong kỳ kết tập lần thứ nhất, ông không được 
tham dự, ông cảm thấy tủi thẹn. Một đêm kia, ông rời khỏi giường ra ngoài và cứ 
đi đi lại lại ngoài trời mãi cho đến gần sáng. Quá mệt mỏi, ông định ngã lưng  
xuống giường nằm lại, nhưng khi chân vừa nhắc lên khỏi mặt đất và đầu sắp đặt 
lên gối thì, ngay lúc ấy, bỗng khuyếch nhiên đại ngộ, tức thành La-hán. Rồi đến 
Ưu-bộ 
(Uttiya) lúc đầu giới hạnh chưa hoàn toàn, khó được giải thoát. Nhưng sau được 
Phật dạy cho cái công án “Thanh tịnh ngay từ đầu” rồi cứ theo đó gắng hết sức tu 
hành và một ngày kia bỗng khai ngộ. Lại như Sư-tử Tỳ-kheo-ni 
(Siba) vì bị tình dục bức bách, uổng công bảy năm trời, cuối cùng thấy khó có 
thể thành đạo, nhân thế sinh bi phẫn và định tự tử. Nhưng khi bà vừa xiết chặt 
đầu dây lại thì tâm bừng tĩnh và đại ngộ đến. Ngoài ra, còn nhiều  trường hợp do 
một cái vấp ngã mà ngộ đạo, do mang thương tích mà tự giác, cho đến do thức ăn, 
đồ mặc vừa ý mà được giải thoát v.v… Sau hết là trường hợp của chính 
Đức 
Phật trước kia. Sáu năm khổ hạnh của Phật tuy chưa đưa đến giác ngộ, nhưng chính 
đó là thời kỳ chuẩn bị cho sự bộc phát nội tâm. Song, nếu Phật cứ tiếp tục con 
đường khổ hạnh như thế thôi thì chưa chắc xảy 
ra sự giác ngộ. Sau đó Ngài 
bỏ khổ hạnh và theo con đường trung đạo, điều hòa giữa thân và tâm rồi “tĩnh tọa 
tư duy” thì mới được giác ngộ khi sao mai vừa ló dạng. Như vậy, sự thành đạo của 
Phật cũng phải chờ có một cơ hội. Sự thành đạo của 
Đức 
Phật, lạ thay, ta lại thấy rất giống với trường hợp ngộ đạo của 
Thiền 
sư Hương Nghiêm sau này. Chỉ khác là Đức 
Phật thì từ bỏ khổ hạnh còn Thiền 
sư Hương Nghiêm 
thì từ bỏ sự nghiên tầm giáo điển, để đi đến sự thư thái thân tâm mà đạt ngộ. Ta 
cũng tìm thấy sự tương đồng như vậy giữa các 
Tỳ-kheo 
và Tỳ-kheo-ni 
thời Đức 
Phật với các Thiền 
giả Trung Hoa sau này.
Không chỉ Thiền tông mà ngay cả Tịnh 
độ tông thật ra cũng có nguồn gốc từ Phật giáo 
Nguyên 
thủy. Niệm Phật là một trong “Lục niệm” 
mà Đức 
Phật hay dạy đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia nên làm. Lục 
niệm 
là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, và niệm thiên.
Và trong kinh Bản 
sinh, 
quyển 2, 
Đức 
Phật dạy rằng: “Này các Bật-sô, 
nếu các hữu tình trọn đời chỉ nghĩ nhớ một pháp thôi thì ta biết chúng nhất định 
sẽ được quả Bất 
hoàn. 
Một pháp ấy là gì? Đó là niệm Phật. Hết thảy hữu tình chỉ vì không niệm Phật nên 
cứ phải đi lại mãi trong các ngã ác mà chịu khổ sống chết vậy. 
Về 
sau, Phật giáo Đại 
thừa 
lấy Phật A Di Đà làm trung tâm để phát động phong trào tín ngưỡng tha lực. Chỉ 
khác nhau là thay vì niệm 
Đức 
Phật Bổn 
sư 
thì tín đồ Tịnh độ tông niệm danh hiệu Phật A Di Đà vậy. Ngay cả cảnh giới cõi 
Tây Phương được diễn tả trong tam kinh Tịnh 
độ 
ta cũng thấy chúng giống như những gì Phật Thích Ca miêu tả trong kinh Đại
thiện
kiến
vương 
thuộc 
Trung 
A-hàm.
Trên dây chỉ là một vài ví dụ để cho 
thấy sự kế thừa, mở rộng và bổ sung cho nhau giữa Phật giáo nguyên thủy, Phật 
giáo bộ phái và Phật giáo Đại 
thừa. Chứ còn tìm hiểu cho đầy đủ và chi tiết thì là cả một công trình nghiên 
cứu hàng chục, thậm chí hàng trăm trang giấy. Có một điều rất lạ là, theo chỗ 
tôi biết, những người đệ tử Phật chúng ta, trong khi có thể chấp nhận và tán 
dương các trường phái tư tưởng triết học bên ngoài như Khổng, Lão, hay triết học 
phương Tây, nhưng lại không thể thân thiện với các tông phái khác nhau Phật giáo 
do chính Đức 
Phật hay những đệ tử Phật dày công xây dựng. Còn nói như Phật giáo 
Đại 
thừa ảnh hưởng Bà-la-môn giáo thì ngay cả Phật giáo 
Nguyên 
thủy cũng không phải là thuần túy sản phẩm của Phật giáo. Điển hình là tứ thiền 
bát định vốn có trước thời Đức 
Phật, và chính Đức 
Phật đã tu học thiền ấy từ hai vị thầy Bà-la-môn là A-la-lam và 
Uất-đầu-lam-phất. Đức Phật là một người có tư tưởng cởi mở, hễ cái gì không có 
hại cho xã hội mà lại có ích cho nhân luân thì Ngài vẫn tiếp thu. Cho nên thái 
độ kỳ thị lẫn nhau giữa các tông phái Phật giáo không gì hơn là biểu hiện của sự 
thiển cận về mặt tri thức và nhận thức mà thôi.
 
	
 
	
		
	
		
	
		
	
		
		
		
		Nina Van Gorkhom 
		(Tỳ-kheo Thiện Minh dịch Việt), Chức năng của tâm hộ kiếp. 
		https://thaoluantrungbokinh.wordpress.com/vai-thao-luan/tam-ho-kiep-bhavanga/
 
	
		
	
		
		
		 Đại 
		chính 31, trang 78, thượng.