Sự dung hòa giữa Phật giáo Theravada và Mahayana của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
su dung hoa
Niệm Huệ
Hiện nay trên thế giới có
nhiều tông phái
Phật giáo,
tuy nhiên
xét về tổng thể thì có
hai hệ thống tông phái Phật giáo chính:
Theravāda và
Mahāyāna. Phật
giáo
Theravāda thịnh hành
ở
các nước
Tích Lan, Miến
Điện, Thái Lan, Lào và Campuchia.
Phật giáo
Mahāyāna được truyền
bá rộng rãi ở các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều
Tiên, và Nhật Bản.
Riêng ở Việt Nam, cả hai hệ thống Phật giáo Theravāda và Mahāyāna cùng tồn tại
và phát triển. Tuy tên gọi, hình thức sinh hoạt, phương thức hành trì khác nhau
nhưng cả hai đều nương theo lời Phật dạy để tu tập, hướng đến mục tiêu giác ngộ
giải thoát. Thế nên, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, vốn là Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử thuộc truyền thống Phật giáo Đại thừa, nhưng quan điểm của Ngài không hề
có sự phân biệt, kỳ thị với Phật giáo Tiểu thừa (trước đây thường dùng từ Tiểu
thừa để chỉ cho Phật giáo Theravāda). Có lẽ đó là lý do tại sao sau khi viên
tịch, người đời sau đã tạc tượng Ngài dưới hình thức khoác y hở vai của Phật
giáo Theravāda để tôn thờ trong tháp Huệ Quang. Chính hình thức y phục ấy đã trở
thành đề tài khiến cho các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều giả thiết, có người gọi
đó là “nếp áo Tiểu thừa” và khẳng định rằng
vua Trần Nhân Tông
đã tu
theo
Tiểu thừa(1).
Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, hình thức y phục ấy có thể là tiếp nối
cách mặc y của Tăng sĩ thời Lý(2) hoặc phát xuất từ quan điểm dung
hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Phật giáo
Theravāda
Phật
Giáo
Theravāda,
vốn là một thuật ngữ được dùng để chỉ cho
“một hình thái
đạo Phật do chính Đức Phật Thích Ca truyền
bá… Trong văn học Phật giáo thế giới, người ta gọi Phật giáo giai đoạn đầu là
Phật giáo sơ kỳ (Early Buddhism), ở Việt Nam thường gọi là Phật giáo Nguyên
thủy, mà đúng ra phải là Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda Buddhism)”(3).
Phật giáo
Theravāda từ Ấn Độ truyền sang các nước phương Nam như
Tích
Lan, Miến Điện, Thái Lan
v.v… nên được gọi là Phật giáo Nam truyền. Ở Việt Nam hiện nay, một thuật ngữ
được sử dụng rất phổ biến để chỉ cho Phật giáo Theravāda đó là Phật giáo Nam
tông. Trong bài này, khi nói đến Phật giáo Theravāda, phần lớn người viết sử
dụng thuật ngữ chung là Phật giáo Nguyên thủy, bởi vì dù gọi là Phật giáo Nam
truyền hay Phật giáo Nam tông cũng đều xuất phát từ Phật giáo Nguyên thủy. Bên
cạnh đó, trong bài viết cũng xuất hiện một thuật từ có thể gây phản cảm được đề
cập trong tác phẩm của Trần Nhân Tông đó là từ “Tiểu thừa”. Tuy hiện nay các nhà
nghiên cứu Phật học đã hạn chế sử dụng danh xưng “Tiểu thừa” nhưng trước đây
người Việt thường dùng để chỉ chung cho Phật giáo Theravāda.
Khi nghiên cứu về
lịch sử Phật giáo, chúng ta thấy thời
kỳ Phật giáo Nguyên thủy
được
tính từ
khi Đức
Phật còn tại thế cho đến trước khi Phật giáo bị phân chia thành các bộ phái.
Thời kỳ này, tất cả những lời dạy của
Đức
Phật được giữ nguyên vẹn trên tinh thần trọng Pháp trọng Luật,
thông qua
đại hội
kết tập kinh điển lần thứ nhất do
ngài
Đại Ca Diếp làm chủ tọa được
tổ chức
tại thành Vương-xá(4),
với
5 bộ
Nikāya
(hoặc
4 bộ
A-hàm)
được hình thành. Từ đó về sau, Phật giáo Nguyên thủy y cứ vào 5 bộ Nikāya để làm
kim chỉ nam trên lộ trình tu tập. Một trong những nét đặc trưng của Phật giáo
Nguyên thủy là phần lớn Tăng sĩ khoác y hở vai phải.
Sau thời kỳ Phật
giáo Nguyên thủy,
khoảng
100 năm sau Phật Niết-bàn,
Phật giáo bắt đầu
bước vào giai đoạn
phân
chia bộ
phái.
Đầu tiên có hai phái chính là Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ.
Trải
qua quá trình
hoằng dương Phật
pháp,
các bộ
phái liên tục
được thành lập,
có những bộ phái
vừa được sinh ra liền biến
mất, mãi cho đến khi phong trào Đại thừa Phật giáo ra đời.
Phật giáo
Mahāyāna
Phật giáo
Mahāyāna (hay còn gọi là Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Phát triển, Phật giáo Bắc
truyền, Phật giáo Bắc tông)
xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây
lịch.
Những
bộ kinh
quan trọng của
Phật giáo
Đại
thừa được
nhiều người biết đến là Bát-nhã (Prajñāpāramitā
Sūtra), Hoa
nghiêm
(Gandavỳuha
Sūtra),
Diệu
pháp
liên
hoa
(Saddharma Puṇḍarīka Sūtra)…
Bên cạnh đó tư tưởng Đại thừa còn
được
thể hiện
khá rõ
qua
những tác phẩm của
các vị luận sư
nổi tiếng như Mã Minh (Aśvaghosa),
Long Thọ (Nāgārjuna),
Vô Trước (Asaṅga)
v.v.. Nội dung tư tưởng cốt lõi của kinh điển Đại thừa là tư tưởng Bồ-tát đạo,
vô ngã vị tha, vô chấp vô trụ, tánh không…
Xét về
phương diện lịch sử, kinh điển Đại thừa được hình thành muộn hơn so với kinh
điển Nguyên thủy gần 500 năm. Do đó, nhiều
người cho rằng
các
kinh điển Đại thừa sau này đều không phải Phật thuyết vì không được lưu lại
trong hệ thống A-hàm. Thế nhưng khi nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy
phần lớn
kinh
điển Đại thừa được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng tư tưởng của kinh
điển Nguyên thủy để góp phần bổ sung cho tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy được
triển khai phong phú, nhằm thích ứng với căn cơ tín chúng và thời đại xã hội.
Đây chính
là điểm mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã đề cập trong tác phẩm “Cư trần lạc
đạo phú”, sẽ được trình bày chi tiết bên dưới.
Phật Hoàng Trần Nhân
Tông
“Phật Hoàng” là một mỹ hiệu
do người đời sau dùng để tôn xưng vua Trần Nhân Tông sau khi ông xuất gia tu
hành chứng đạo.
Theo Đại Việt sử
ký toàn thư, vua Trần Nhân Tông
(1258-1308)
“huý là Khẩm,
con trưởng của Thánh Tôn, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh năm
Giáp Ngọ(5),
Nguyên Phong thứ 8, tháng 11, ngày 11. Được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo
thuần tuý, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung
đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử; ở hai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có
thể cáng đáng được việc lớn; ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm,
thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp
phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của nhà Trần”(6).
Sau những chiến
công oanh liệt qua hai
cuộc
chiến thắng đại quân Mông Nguyên, xây dựng nền hòa bình độc lập cho Đại Việt,
năm 1299, vua
Trần Nhân Tông đã
lên núi Yên Tử
xuất gia tu hành,
lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nên được xem là đệ nhất Tổ khai sáng dòng
Thiền này với danh xưng là Sơ Tổ Trúc Lâm. Trải qua một thời gian tu hành chứng
đạo, Sơ Tổ Trúc Lâm lập chùa, cất tịnh xá, khai giảng pháp để tiếp độ chúng
Tăng,
học chúng đến tu học rất đông. Sau đó Sơ Tổ Trúc Lâm dạo đi khắp nơi khuyên dân
dẹp bỏ những dâm từ và dạy họ tu hành Thập thiện.
Sau một thời gian xuất gia
hành đạo, Sơ Tổ Trúc Lâm đã viên tịch vào ngày mùng 1 tháng 11 năm Mậu Thân
(1308) tại
am Ngọa Vân núi Yên Tử.
Nhị Tổ
Pháp Loa theo lời
di chúc làm lễ hoả táng, thu nhặt ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông
cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ tại Đức Lăng và xây tháp ở
chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, đề hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là
Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật(7).
Có lẽ danh từ
“Phật Hoàng”
mà người đời sau dùng để tôn
xưng Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử bắt nguồn từ tôn hiệu này.
Quan điểm dung hòa giữa
Phật giáo Theravāda và Mahāyāna thể hiện trong tác phẩm của Phật Hoàng Trần Nhân
Tông
Khi tìm hiểu quan điểm dung
hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, trước
hết phải căn cứ vào tác phẩm của Trần Nhân Tông. Điển hình như trong
Cư trần lạc đạo phú
có đoạn:
Han hữu lậu, han
vô lậu
Bảo cho hay: the
lọt, duộc thưng;
Hỏi Đại thừa,
hỏi Tiểu thừa
Thưa thẳng tắt:
lòi tiền, tơ gáo...
(Hội thứ
6)(8).
Trong đoạn phú này, chữ
‘han’ trong câu đầu và
chữ ‘hỏi’ ở câu sau là
hai từ đồng nghĩa,
nên chúng ta thường
dùng chung
là hỏi han. Hữu lậu, vô lậu:
xét về từ nguyên, theo
chữ Hán, lậu (漏)
nghĩa
là lọt, là rơi rớt,
hữu lậu là còn rơi rớt; vô lậu là không còn rơi rớt.
Theo quan điểm Phật giáo,
nếu
ai
tu hành được giải thoát sanh tử là ra khỏi
Tam
giới (Dục
giới, Sắc giới và Vô sắc giới),
đó
gọi
là vô lậu. Còn
người nào chỉ tu tạo
phước báo
nhân thiên thì còn ở
trong vòng
tam giới, còn
sanh lại trong cõi
đời này để hưởng phước,
tức
là hữu lậu.
Khi có ai hỏi thế nào là hữu lậu hay vô lậu thì “bảo cho hay”
tức là trả lời cho họ biết “the lọt, duộc thưng”.
Theo sự phân tích, giải thích của Hòa thượng
Thích Thanh Từ, chữ “the” tức là vải the, nếu chúng ta đổ cám hay
cát trên vải the rồi lắc một hồi nó rơi xuống hết nên gọi là the lọt. Chữ “duộc”
là cái cán, “thưng” là cái gáo, nhưng ở đây “duộc thưng” còn có nghĩa là tấm
vách ngăn chận lại. Vì vậy hữu lậu là còn rơi rớt lại cũng như vải the còn rớt
cám, rớt cát xuống, còn vô lậu ví như tấm vách ngăn chặn lại, không bị rơi rớt(9).
Hỏi Đại thừa, hỏi
Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo. Trong
câu này, Lê Mạnh Thát giải thích
từ
“lòi” là dây cột,
“tơ” là dây kéo(10).
Theo cách giải thích đó, thì “lòi tiền” nghĩa là thời xưa sử dụng tiền đồng điếu
có đục lỗ ở giữa, phải dùng sợi dây cột lại thành xâu; “tơ gáo” tức là dùng sợi
dây để kéo gàu múc nước.
Như vậy sợi dây
xâu tiền và sợi dây kéo gàu múc nước, mỗi thứ đều có công dụng riêng của nó. Ý
câu này muốn nói Tiểu thừa giống như sợi
dây
nhỏ dùng để xâu tiền đồng điếu, Đại thừa giống như sợi dây to dùng để kéo gàu
múc nước, nghĩa là mỗi pháp môn tu đều là phương tiện lập ra
để làm lợi ích cho chúng sanh.
Liên quan đến vấn đề này, trong hội thứ 10
của Cư trần lạc đạo phú cũng đề cập:
“Chúng Tiểu thừa cốc hay
chửa đến,
Bụt xá ngăn Bảo sở Hóa
thành”(11).
Nội dung của câu này
xuất phát từ kinh Pháp hoa, Hòa thượng Thích Thanh Từ giải thích:
Chúng Tiểu thừa, là các vị tu theo Thanh văn thừa, tức là chỉ cho Phật giáo
Nguyên thủy. Cốc hay chửa đến,
“cốc” là biết, “hay” là hiểu, tức là cái hiểu biết chưa đến. Bụt xá ngăn Bảo
sở Hóa thành: “Xá” là đâu, nghĩa là những vị Tiểu thừa vì sự hiểu biết chưa
đến, chứ Phật đâu có ngăn chia đây là Bảo sở, kia là Hóa thành. Bảo sở là chỉ
Phật thừa, Hóa thành là chỉ Thanh văn thừa. Trong kinh Pháp hoa, Niết-bàn
của Thanh văn gọi là Hóa thành, chỗ cứu kính của Phật gọi là Bảo sở(12).
Bảo sở hay Hóa thành cũng chỉ là phương tiện, không nên chấp trước, bám trụ vào
đó. Tương tự đối với pháp môn tu của Phật giáo Đại thừa hay Tiểu thừa cũng vậy,
tùy theo căn cơ trình độ, nhân duyên và sở thích mà mỗi người có thể tự chọn cho
mình phương pháp tu tập phù hợp. Với sự hiểu biết như vậy, sẽ không có sự phân
biệt, kỳ thị giữa tông phái này và tông phái khác.
Có lẽ xuất phát từ những đoạn
thi phú này mà người đời sau đã phác họa hình ảnh Phật Hoàng Trần Nhân Tông vừa
theo mô thức của Phật giáo Đại thừa qua hình ảnh Sơ Tổ Trúc Lâm mặc áo hậu theo
hình thức y phục của Phật giáo Đại thừa, ngồi trên cáng võng xuống núi trở về
cung để truyền giới Bồ-tát tại gia cho vua Trần Anh Tông và quan quân triều
đình; ngoài ra, trong đoàn tháp tùng theo ngài còn có một
vị
Tăng
sĩ khoác áo hở vai phải
như hình ảnh minh họa trong
bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ(13). Bên cạnh đó, tượng
Phật Hoàng Trần Nhân Tông được tôn thờ trong tháp Huệ Quang lại được tạc với
hình thức khoác ca-sa hở vai phải theo lối y phục của Phật giáo Theravāda.
Phật Hoàng Trần Nhân
Tông về cung truyền giới Bồ-tát cho vua Anh Tông và quần thần (Trúc
Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ) |
Tượng Phật Hoàng Trần
Nhân Tông trong tháp Huệ Quang |
Từ nếp y hở vai ấy, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều giả thiết nghiên cứu, đặc biệt, Trần Ngọc Linh cho
rằng đó là “nếp áo Tiểu thừa”, đồng thời căn cứ vào phương pháp tu đầu đà khổ
hạnh và tôn hiệu “Hương Vân Đại Đầu Đà”, “Trúc Lâm Đầu Đà” của Trần Nhân Tông
rồi khẳng định rằng: “Vua
Trần Nhân Tông đã tu hành theo pháp giới hạnh đầu đà thuộc Tiểu thừa để rồi sau
này đắc đạo thành Phật”(14).
Từ chi tiết y hở vai này, Thích Thanh Thắng cũng đặt vấn đề: “Cách
mặc hở vai của Tăng
sĩ là một hình thức phổ biến thời Lý, được tiếp nối với các hình thức ăn mặc
khác của Tăng
sĩ thời Trần thì việc tạc tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông có nếp áo hở vai có
phải là điều quá ngạc nhiên?”(15).
Trong hai giả thiết trên,
chúng ta thấy cách đặt vấn đề của Thích Thanh Thắng có thể nói là có sức thuyết
phục hơn cách lập luận của Trần Ngọc Linh. Bởi lẽ phương pháp tu đầu đà khổ hạnh
không phải chỉ dành riêng cho các vị tu theo Tiểu thừa mà ngay cả các vị tu theo
Đại thừa như các vị Thiền sư sống ẩn dật tiêu dao nơi chốn núi rừng cũng tu tập
như vậy(16). Đặc biệt, đọc qua hành trạng và tác phẩm của Trần Nhân
Tông, chúng ta sẽ thấy Trần Nhân Tông ngay cả trước khi xuất gia cho đến sau khi
trở thành vị Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, ngài chuyên tâm nghiên cứu và tu
tập theo Thiền tông, tư tưởng cốt lõi và phương thức hành đạo chủ yếu của ngài
theo khuynh hướng Phật giáo Đại thừa. Do đó, nếu cho rằng vua Trần Nhân Tông tu
theo pháp đầu đà thuộc Tiểu thừa là một giả thiết không thuyết phục lắm. Ngoài
các giả thiết trên, hy vọng các nhà nghiên cứu sẽ phát hiện thêm các nguồn thư
tịch cổ và các công trình khảo cổ khác để làm rõ vấn đề tại sao Phật Hoàng Trần
Nhân Tông – Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử lại được tạc tượng để tôn trí trong
tháp Huệ Quang dưới hình thức khoác y hở vai.
Theo quan điểm của người
viết, tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong tư thế tọa thiền với nếp y hở vai
chỉ là một hình thức nghệ thuật tạc tượng của Phật giáo, mô phỏng theo một trong
những mẫu tượng của Đức Phật Thích Ca xưa kia. Đồng thời, pho tượng ấy và ngay
cả hình ảnh vị sư Nam tông xuất hiện trong Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ
cũng chỉ mang ý nghĩa biểu trưng, thể hiện quan điểm dung hòa giữa Phật giáo
Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tuy với tư cách là
một người lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vốn bắt nguồn từ truyền thống Phật
giáo Đại thừa, nhưng Sơ Tổ Trúc Lâm vẫn dung hòa các tông phái Phật giáo, không
hề có sự phân biệt, kỳ thị, bác bỏ tông phái nào, cụ thể như phái Tiểu thừa được
đề cập trong Cư trần lạc đạo phú.
Sự dung hòa giữa Phật giáo
Theravāda và
Mahāyāna thể hiện qua
văn hóa ứng xử của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Nhập
thế theo quan điểm
Phật giáo Nguyên thủy
Thông thường, khi
nói đến tinh thần nhập thế của Phật giáo chúng ta sẽ liên hệ ngay đến tư tưởng
Bồ-tát đạo của Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ chúng ta sẽ thấy
quan điểm nhập thế lại được hình thành ngay từ thời
Đức
Phật Thích Ca còn tại thế. Khi đề cập đến quan điểm nhập thế của Phật giáo
Nguyên thuỷ, chúng ta không thể nào quên lời di huấn của
Đức
Phật được ghi lại trong kinh Đại bát Niết-bàn:
“Này các Tỳ-kheo,
hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài
Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn
viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được
nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp”(17).
Thông qua đoạn kinh
này, Đức Phật khuyên các đệ tử Tỳ-kheo hãy đi du hóa rộng khắp mọi nơi để thuyết
pháp độ sanh, bởi vì “có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được
nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt”, khi được nghe pháp “sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn”, “họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp”. Như
vậy, hàng xuất gia đệ tử Phật không chỉ nỗ lực tu học để chính mình có thể đạt
được giác ngộ giải thoát mà còn phải ra đi hành đạo “vì hạnh phúc cho quần
chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người”. Liên quan đến vấn đề này,
trong kinh Tương ưng bộ cũng đề cập lời Phật dạy rằng:
“Này các Tỳ-kheo,
nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các ngươi, các ngươi phải khéo
học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh
cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Này
các Tỳ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy … Chính là Bốn
niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy bồ-đề phần, Tám
thánh đạo phần”(18).
Qua đó cho thấy,
tinh thần nhập thế của Phật giáo đã được định hình từ khi Đức Phật còn tại thế.
Quan điểm nhập thế của Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh hàng xuất gia đệ tử Phật
nên vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người mà khéo
học hỏi, tu tập, thực chứng và truyền rộng giáo pháp do Đức Phật chứng ngộ và
giảng dạy như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy
bồ-đề phần, Tám thánh đạo phần để cho phạm hạnh được trường tồn vĩnh cửu.
Theo
lời Phật dạy, các đệ tử của Ngài trải qua bao thế hệ trong suốt chiều dài lịch
sử hơn 2.500
năm đã đi từ thành thị đến nông thôn tại nhiều quốc gia trên thế giới để hoằng
dương Phật pháp, làm lợi ích cho đời.
Kế thừa quan điểm
nhập thế của Phật giáo Nguyên thuỷ,
vua
Trần Nhân Tông sau
khi nhường ngôi cho con, xuất gia trở thành Sơ Tổ Trúc Lâm, đã “đi khắp mọi
nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập thiện”(19).
Ở đây, có một điểm đáng lưu ý là xưa kia Đức Phật dạy các Tỳ-kheo hãy truyền dạy
cho chúng sanh các pháp “Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn,
Năm lực, Bảy bồ-đề
phần, Tám thánh đạo phần”,
thế mà ngày nay, Sơ Tổ Trúc Lâm lại chọn pháp Thập thiện để giảng dạy cho dân
chúng, như vậy có đúng theo di huấn của
Đức
Phật chăng? Thật ra, suy cho cùng thì sự chọn lựa ấy không hề trái lời của
Đức
Phật mà còn có thể nói là vô cùng phù hợp với lời dạy “hãy thuyết
pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện”,
bởi vì nếu ai thực hành Thập thiện thì sẽ được an lành, hạnh phúc trong hiện tại
và mai sau.
Thập thiện (十善),
tức là mười điều lành. Thế nào gọi là ‘lành’? Hòa thượng Thích Thanh Từ giải
thích: “Phàm làm việc gì, đứng về
mặt thời gian, hiện tại mình và người đều được lợi ích, vị lai mình và người
cũng được lợi ích, thì điều đó là lành. Hoặc hiện tại mình bị thiệt thòi mà
người được lợi ích, đó cũng là lành. Hay hiện tại mình bị thiệt thòi mà tương
lai được lợi ích, đó cũng là lành. Ngược lại, hiện tại mình được lợi lộc mà vị
lai bị khốn khổ, điều đó không phải là lành. Hoặc hiện tại mình được lợi mà
người bị hại thì điều đó không phải là lành”(20).
Vậy mười điều lành là gì? Đó chính là mười việc lành do ba nghiệp tạo nên, gồm
có: không
sát sinh, không
trộm cắp, không
tà dâm, không
nói dối, không
nói thêu dệt, không
nói lời hai chiều, không
nói lời hung ác, không
tham lam,
không sân hận,
không si mê.
Như vậy, chúng ta
có thể hiểu vì sao Sơ Tổ Trúc Lâm chọn giáo lý Thập thiện để dạy cho dân chúng.
Bởi vì mười điều này rất đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hành và có thể mang lại
những lợi ích vô cùng thiết thực cho con người và xã hội. Cụ thể hơn, nói về
công năng của Thập thiện nghiệp, trong
kinh
Thế
ký thuộc
Trường A-hàm có đề cập: Ở thế gian vào thời kiếp giảm, con người sống đến
84 ngàn tuổi, sau đó giảm dần còn 7 vạn, 6 vạn ... cho đến 200, và ngày nay, con
người sống khoảng 100 tuổi. Sở dĩ tuổi thọ và phước báo con người suy giảm là do
không tu pháp Thập thiện mà ngược lại còn làm Thập ác. Nếu mười điều ác càng
ngày càng tăng thì phước báo, tuổi thọ con người càng ngày càng giảm. Giảm cho
đến khi nào mười điều ác đầy dẫy, không ai còn biết làm thiện và nghe danh từ
Thiện, thì tuổi thọ con người giảm xuống tột cùng, chỉ còn 10 tuổi thôi. Lúc bấy
giờ, tai họa tràn đầy không thể kể lường, nguyên do bởi con người tạo Thập ác.
Qua kiếp tăng, con người làm ác cùng cực, chợt thức tỉnh tu thiện, từ 1 cho đến
10 điều thiện, thì phước báo và tuổi thọ tăng dần lên đến 84 ngàn tuổi, và thế
giới trở thành an lạc, hạnh phúc vô cùng(21).
Đó chính là lý do tại sao khi đề cập đến lợi ích của pháp Thập thiện, Hòa thượng
Thích Thanh Từ nói rằng: “Người tu từ cư sĩ tại gia cho đến
xuất gia lẫn người thế gian, nếu biết áp dụng pháp tu Thập thiện trong cuộc sống
thì được bình an hạnh phúc. Người tu thì mau tiến đến quả giải thoát. Người đời
thì phước báu ngày càng lớn, tuổi thọ ngày càng tăng trưởng”(22).
Nhập
thế theo quan điểm
Phật giáo Đại thừa
Theo tinh thần Phật
giáo Đại thừa, một vị Bồ-tát khi đã phát tâm Bồ-đề cần phải hội đủ hai yếu tố
từ
bi và trí
huệ để nhập thế độ sanh, thực hành Bồ-tát đạo. Hay nói cách khác, theo Edward
Conze, một người bình thường có thể trở thành một vị Bồ-tát khi người ấy lần đầu
tiên phát nguyện sẽ đạt đến sự giác ngộ viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng
sanh (“A
person turns into a Bodhisattva when he first resolves to win full enlightenment
for the benefit of all beings”)(23).
Nếu người nào phát nguyện một cách liên tục, chắc chắn sẽ trở thành Bồ-tát.
Đồng thời, Bồ-tát phải phát Tứ hoằng thệ nguyện, thực hành Tứ nhiếp pháp (bố
thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) và tu tập Lục độ Ba-la-mật (bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ). Như vậy, Phật Hoàng Trần Nhân Tông có
hội đủ các tiêu chí này của một vị Bồ-tát nhập thế độ sanh hay không?
Có thể nói rằng
Trần Nhân Tông rất xứng đáng để được tôn xưng là một vị Bồ-tát. Phật Hoàng Trần
Nhân Tông nhập thế độ sanh bằng cách bố thí
cả tài và pháp, điển
hình như: “Quý Mão năm thứ 11 (1303) (Nguyên Đại Đức năm thứ 7), mùa
xuân, tháng giêng, ngày 15, Thượng hoàng ở phủ Thiên Trường, mở hội Vô Lượng ở
chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền
lụa để chẩn cấp cho người nghèo trong nước và giảng kinh giới thí”(24);
không những
tự mình giữ giới mà còn khuyên mọi người giữ giới; hết lòng siêng năng chăm lo
cho quốc gia dân tộc và phụng sự đạo pháp; nhẫn nhục với mọi chướng duyên nghịch
cảnh; luôn dùng thiền định và trí
tuệ
làm kim chỉ nam hướng đạo cho lộ trình tu tập giải thoát, hoằng dương giáo pháp,
hóa độ quần sanh. Đặc biệt, Phật Hoàng sống và hành động với tấm lòng Từ bi vô
cùng bao la rộng lớn của một vị Bồ-tát theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa như
Paul Williams đã đề cập trong tác phẩm Mahāyana Buddhism: The Doctrinal
Foundations: Lòng Từ bi của Bồ-tát không chỉ giới hạn trong phạm vi bà con
quyến thuộc, bạn bè, mà còn trải rộng khắp tất cả chúng sanh trong mười phương
thế giới (“(Bodhisattva’s)
Compassion is not merely concerned with a few sentient beings such as friends
and relatives, but extends up to the limits of the cosmos, in all directions and
towards all beings throughout space”)(25).
Qua đó cho thấy,
tình thương trong đạo Phật vượt qua giới hạn của tình cảm riêng tư, xóa tan mọi
rào chắn của đẳng cấp, giới tính, địa vị, quốc gia, chủng tộc. Với tâm Từ bi
rộng lớn vô biên, Bồ-tát ban rải tình thương cho tất cả chúng sanh bằng những
giọt nước cam lồ diệu pháp. Do đó, sau khi xuất gia tu hành chứng đạo, Phật
Hoàng Trần Nhân Tông đã đi khắp vạn nẻo thôn quê để xiển dương
Phật pháp,
thuyết pháp độ sanh, trải rộng tình thương cho tất cả tứ dân thiên hạ của mình,
và thậm chí còn trải rộng tình thương cho nhân dân nước láng giềng. Điều đó được
thể hiện qua sự kiện Phật Hoàng Trần Nhân Tông đi vân du hóa đạo đến xứ Chiêm
Thành và hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân.
Ở đây, vấn đề được
đặt ra là tại sao chính Trần Nhân Tông đã xuất gia tu hành, đi khắp nơi khuyên
dân phá bỏ các dâm từ,
nhưng
cũng chính Trần Nhân Tông đi làm việc mai mối cưới gả con gái của mình. Về vấn
đề này, chúng ta cần phải phân tích và nhận định một cách rõ ràng để thấy được
văn hóa ứng xử theo quan điểm nhập thế của Trần Nhân Tông. Theo lời Phật dạy,
dâm dục là cái nhân sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn tuyệt dâm dục
để được giải thoát. Tuy người tại gia không hoàn toàn đoạn dâm dục như người
xuất gia nhưng cũng phải cẩn thận giữ gìn ba nghiệp đối với việc dâm dục. Nghĩa
là ý không khởi nghĩ đến chuyện tà dâm, miệng không nói lời tà dâm, thân không
làm các hành vi tình dục lang chạ, ngoại tình phi pháp, trái luật.
Nếu
mỗi thành viên trong xã hội không giữ giới tà dâm thì không những
tự phá vỡ hạnh phúc của chính gia đình mình mà còn hủy hoại luân thường đạo lý
của dân tộc.
Vì vậy Phật Hoàng Trần Nhân Tông khuyên dân
chúng phá bỏ các dâm từ.
Riêng đối với việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân,
có người chê trách
tại sao Trần Nhân Tông đã từ bỏ ngai vàng, nhường ngôi cho con là vua Trần Anh
Tông vào năm 1293 để lên ngôi Thượng hoàng, sau đó chính thức xuất gia vào năm
1299, vậy mà trong chuyến vân du sang xứ Chiêm Thành vào năm 1301, Trần Nhân
Tông lại còn làm chuyện mai mối của thế gian là hứa gả con gái cho vua xứ này.
Hơn thế nữa, với tư cách là một người cha, sao vua Trần Nhân Tông lại đem người
con gái yêu quý nhất của mình gả cho vua của một nước mà trước đây đã từng là kẻ
thù quấy phá xâm lấn biên giới quốc gia Đại Việt? Vấn đề này cho đến nay vẫn còn
nhiều quan điểm trái chiều giữa các nhà nghiên cứu.
Ở đây, chúng ta cần
nhìn nhận một cách rõ ràng rằng nếu xét về phương diện giới Thanh văn của Phật
giáo thì có thể cho là Trần Nhân Tông phạm giới làm việc mai mối, là
một trong 13 giới Tăng-già-bà-thi-sa
(Saṃghādisesa) của Tỳ-kheo(26).
Tuy nhiên, theo tinh thần Đại thừa thì Bồ-tát không chấp giữ giới luật một cách
cứng nhắc mà cần phải uyển chuyển linh hoạt, có thể làm những việc gì cần làm để
cứu giúp hoặc mang lại lợi ích cho chúng sanh. Mặc dù vô cùng thương yêu người
con gái cành vàng lá ngọc của mình, nhưng với tâm
từ
bi, vì lợi ích chung của quốc gia dân tộc, Trần Nhân Tông đã hy sinh mối quan hệ
tình cảm cha con mang tính cá nhân để thực hành hạnh nguyện của một vị Bồ-tát
đúng nghĩa như Paul Williams từng nhận định: Với tư cách của một vị Bồ-tát,
ngài
đã mở rộng lòng đại bi và tâm Bồ-đề. Ngài không hành động vì lợi ích của
riêng mình,
mà vì nghĩa vụ của ngài
đối với các chúng sanh hữu tình
(“The
Bodhisattva is the Bodhisattva, he has developed great compassion and the
bodhicitta. He does not practise for his own benefit but in order to fufil his
obligations to sentient beings”)(27).
Đó chính là tinh
thần “Vô ngã vị tha” được xây dựng trên nền tảng học thuyết Duyên khởi - Tánh
không, Duyên sinh - Vô ngã của Phật giáo. Như vậy, việc mai mối của Trần Nhân
Tông nhằm mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Chiêm - Việt để
bảo vệ hòa bình cho quốc gia xã tắc, tránh đao binh đẫm máu cho nhân dân hai
nước. Bởi lẽ, với giáo lý
từ
bi, Phật giáo đã khẳng định rằng hận thù hay bạo lực không thể dập tắt mọi xung
đột hay mâu thuẫn trong cuộc sống, chỉ có tình thương rộng lớn mới có thể xoa
dịu những trái tim thù hận và tàn bạo. Hơn thế nữa, sự kiện vua Chế Mân đã tự
nguyện dâng hai châu Ô và Lý để làm sính lễ cưới Huyền Trân công chúa chẳng phải
đã góp phần hữu ích cho công cuộc mở mang bờ cõi của dân tộc ta hay sao? Bởi vì
“chuyện gả công chúa cho các tù trưởng ở miền
biên ải vẫn là quen thuộc với các vua chúa Việt Nam, cả với vua Lý thế kỷ XI, và
các chúa Nguyễn thế kỷ XVII.
Gả một nàng công chúa cho vua nước ngoài để thắt chặt tình hữu hảo, và để mở
rộng đất đai cho Tổ quốc”(28).
Nói tóm lại, Phật
Hoàng Trần Nhân Tông đã sống và hành động rất đúng với tinh thần nhập thế vô
chấp vô trụ của Phật giáo Đại thừa. Tất cả việc làm, thái độ, hành vi ứng xử của
Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đều thể hiện lòng từ bi rộng lớn và được soi
chiếu bởi ngọn đèn trí huệ vô cùng sáng suốt. Nhờ thấu hiểu nguyên lý Tánh không
- Vô ngã từ học thuyết Duyên khởi - Duyên sinh và trên tinh thần “Vô ngã vị tha”
của Phật giáo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông tuy đã xuất gia nhưng không chỉ tịnh tu
cho cá nhân mình mà luôn quan tâm đến sự an nguy của quốc gia dân tộc, không
chấp giữ danh thơm tiếng tốt cho bản thân mà chỉ nghĩ đến niềm an vui hạnh phúc
của dân chúng và nền hòa bình độc lập của Tổ quốc.
Kết luận
Trong giới nghiên cứu Phật
giáo, khi
bàn đến Phật giáo
Theravāda và Phật giáo Mahāyāna, cụ thể hơn là
kinh điển
Nguyên thủy và kinh điển
Đại thừa,
thì sẽ xuất hiện hai trường phái với hai quan điểm khác nhau. Trường phái thứ
nhất cho rằng kinh điển Đại thừa không phải do Phật nói nên đề cao kinh điển
Nguyên thủy, phê phán, chỉ trích kinh Đại thừa là tà giáo ngoại đạo.
Trái lại,
trường phái thứ hai cho rằng kinh điển Đại thừa là những kinh cao siêu do
Đức
Phật nói dành riêng cho hàng căn cơ bậc thượng như các vị Bồ-tát. Do đó, những
ai tu tập hành trì theo kinh Đại thừa thường sinh tâm cống cao, ngã mạn, chê bai
kinh Nguyên thủy và khinh khi những người theo tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy là
hạng tiêu nha bại chủng, thấp kém, hạ liệt. Có lẽ cả hai đều đứng trên lập
trường chủ quan của tông phái và dựa vào quan điểm cá nhân mà đưa ra những nhận
định sai lệch như vậy. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu Phật học thì giữa kinh
điển Đại thừa và kinh điển Nguyên thủy luôn có sự
ảnh hưởng
tích cực lẫn nhau
chứ không hề
có sự phân chia hay đối kháng.
Thật ra, xưa kia
Đức Phật thuyết pháp không hề phân biệt giáo lý của Ngài là Đại thừa hay Tiểu
thừa, mà chỉ do khả năng lĩnh hội của người tiếp nhận có sai khác nên mới phân
biệt như vậy. Nếu cho rằng kinh điển Nguyên thủy là Tiểu thừa thì ngay nơi Tiểu
thừa đó đã hàm chứa tư tưởng Bồ-tát đạo, làm lợi ích cho chúng sanh. Còn nếu cho
kinh điển Đại thừa là phi Phật thuyết thì tại sao trong kinh điển Đại thừa đã có
những tư tưởng phù hợp với kinh Nguyên thủy. Suy cho cùng thì kinh điển Đại thừa
chỉ khác với kinh điển Nguyên thủy ở phương thức trình bày và tư tưởng được
triển khai sâu rộng hơn để cho Phật pháp được linh hoạt sống động, thích ứng với
xã hội thời đại mà thôi. Như vậy, vấn đề không phải là phân biệt kinh điển
Nguyên thủy hay Đại thừa mà quan trọng là nội dung của kinh ấy có phù hợp với
tôn chỉ của đạo Phật là hướng đến mục đích giác ngộ giải thoát và có mang lại
lợi ích cho người tiếp nhận hay không.
Thiết nghĩ, chúng
ta nên học theo quan
điểm dung hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân
Tông, không
nên đứng trên lập trường chủ quan của tông phái hay quan điểm bảo thủ của cá
nhân mà chỉ trích kinh điển Phật dạy
hoặc phê
phán những người tu
theo tông phái khác mình.
Có như thế mới hy vọng mọi người thuộc mọi tông phái Phật giáo khác nhau đều
cùng nhau tu tập, xây dựng và bảo vệ ngôi nhà Chánh pháp luôn được trường tồn
vững mạnh mãi mãi trên thế gian này.
* CHÚ THÍCH -
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
.
Ngô
Sĩ Liên (Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính)
(2004),
Đại Việt
sử ký toàn thư,
tập 1,
Nxb.
Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội, tr. 493.
7.
Thích Thanh Từ
(2012),
Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải,
Nxb. Tổng hợp TP.HCM,
tr. 17.
.
Lê Mạnh
Thát (2006),
Toàn tập
Trần Nhân Tông, NXB.
Tổng hợp TP.HCM, tr.
359.
13.
Nguyễn Nam (2012),
“Bóng hình để lại” (Số chuyên đề Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ), Suối
Nguồn số 7, 11/2012,
tr. 76.
17.
Thích Minh Châu
dịch (2013a),
Kinh Đại bát Niết-bàn, Kinh Trường bộ,
NXB. Tôn
Giáo,
Hà Nội, tr. 178.
18.
Thích Minh Châu dịch (2013b),
Kinh
Tương ưng bộ, tập 1,
NXB. Tôn Giáo,
Hà Nội, tr. 313.
19.
Thích Phước Sơn
dịch và chú (1995),
Tam Tổ thực lục,
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành,
tr. 20.
20.
Thích Thanh Từ (1993),
Kinh Thập thiện giảng giải,
Thành hội
Phật giáo TP.HCM ấn hành,
tr. 9.
21.
Xem thêm: kinh
Thế
ký,
kinh
Trường A-hàm, Đại
chánh
tân
tu
Đại tạng kinh,
tập I,
tr. 144-145.
22.
Thích Thanh Từ (1993),
Kinh Thập thiện giảng giải,
Thành hội
Phật giáo TP.HCM ấn hành,
tr. 7.
23.
Edward Conze
(2005), A Short History of Buddhism (song ngữ Anh - Việt, Nguyễn
Minh Tiến dịch và chú giải: Lược sử Phật giáo),
NXB. Tổng
hợp TP.HCM, tr.
111.
24.
Ngô Sĩ Liên
(Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính)
(2004),
Đại Việt
sử ký toàn thư,
tập 1,
NXB. Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội, tr. 561.
25.
Paul Williams (2009),
Mahāyana Buddhism: The Doctrinal Foundations,
Routledge, London, p.
196.
27.
Paul Williams (2009),
Mahāyana Buddhism: The Doctrinal Foundations,
Routledge, London, p.
205.
28.
Phạm Minh Thảo
(2007),
Trần
triều hiển thánh,
NXB. Văn hóa - Thông tin,
tr. 74.