Chùa Bồ đề - Trường Bồ đề: Điểm son trong phong trào chấn hưng Phật giáo xứ Bắc
chua bo de
CHÙA BỒ ĐỀ
- TRƯỜNG BỒ ĐỀ: ĐIỂM SON TRONG
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO XỨ BẮC
Nguyễn
Đại Đồng
Cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX, một thực trạng đau lòng khiến
các vị chức sắc Phật giáo, các cao tăng, những người có tâm huyết với đạo phải
chú ý: Đạo Phật ngày càng mất uy tín đối với quốc dân, quần chúng quay lưng lại
với Phật giáo ngày càng đông.
Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến hiện trạng này mà nguyên nhân chủ quan là
đa số Tăng đồ ngày càng lơ là việc học, chỉ chuyên ứng phó, hành trì tín ngưỡng
Phật giáo dân gian, chuyên làm những việc của thầy cúng, dẫn đến thực trạng “dốt
và hư nát”, không chuyên tu hành, chỉ tham lợi dưỡng. Điều này đã bị các báo phê
phán rất gay gắt.Tuy
gay gắt nhưng những lời phê phán ấy đã thể hiện rất rõ những khía cạnh suy đồi,
tiêu cực trong Phật giáo đương thời.
Cần phải chấn
hưng Phật giáo để khắc phục tình trạng trên mà một trong những công việc cần kíp
lúc này là tu sĩ đạo Phật phải được đào tạo bài bản, đặc biệt là phải được tu
học theo lối mới.
Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề này, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã xác định công tác
giáo dục Tăng Ni là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, phải làm ngay và lâu dài.
Ngày 14 tháng 12 năm 1934, hơn một tháng sau ngày Hội ra đời, Ban Giáo sư là một
trong 10 ban “chức việc” được thành lập. Nhiệm vụ của Ban được bộ Quy tắc của
Ban Đạo sư xác định là dạy Tăng Ni học tại trường Phật học của Hội sau này.
Chùa Bồ
Đề - trường dạy kinh
Ngày 17 tháng
2 năm 1935, Ban Quản trị Hội Phật giáo Bắc Kỳ (gọi tắt là Hội) họp dưới sự chủ
tọa của Hội trưởng Nguyễn Năng Quốc. Ngài Hội trưởng trình bày bốn việc Hội định
làm, trong đó có việc: Mở trường học để dạy các sư và thiện nam tín nữ học cho
biết cái chân lý của đạo Phật. Tuy nhiên mở trường ở đâu, nội dung học là gì thì
chưa xác định.
Đến phiên họp
Ban Quản trị ngày 30 tháng 3 năm 1935 Hội quyết định:
1).….
2) Xét tờ
trình của Ban Cố vấn Đạo sư lập một Ban Học kinh tại chùa Bồ Đề. Hội đồng định
chi tiêu 100$00 cho trường Hạ, sắm sửa đồ dùng trong lớp học; lương một vị giáo
sư dạy học mỗi tháng là 6$00; lương một cư sĩ dạy học mỗi tháng là 10$00.
Ngày 10 tháng 5 năm 1935, trong phiên họp Đại hội đồng thường niên,
do Chánh Hội trưởng chủ tọa, sư tổ Vĩnh Nghiêm và Ban Đạo sư làm Chứng minh, các
hội viên nam nữ cùng Tăng Ni có tới mấy trăm vị đến dự. Ngài Hội trưởng đọc tờ
trình của Ban Quản trị, cho biết:
Hội đã mở trường học ở chùa Bồ Đề bên kia sông Nhị Hà để dạy sư ông
học, có một vị sư cụ làm giáo thọ dạy về kinh luật, một vị cư sĩ dạy Hán tự và
quốc âm (tức tiếng Việt). Lại mở một lớp Sơ học ở chùa Quán Sứ do 2 hội viên
Nguyễn Quang Oánh và Lê Dư trông coi và dạy học.
Như vậy, Bồ
Đề trở thành trường hạ của Hội dành cho các Tỳ-kheo (sư ông), nhưng nội dung học
phong phú hơn vì ngoài các môn nội điển như kinh Diệu pháp liên hoa, Lục tổ
đàn kinh, Sa-di luận giải…, các sư được học môn quốc âm (tức quốc văn).
Người dạy học
kinh là sư cụ trụ trì chùa Phù Lãng Trung tỉnh Bắc Ninh, người dạy chữ Hán và
quốc âm là Tú tài Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến thành viên Ban Quản trị Hội.
Bồ Đề giữ vai
trò là trường Hạ của Hội Phật giáo Bắc Kỳ (Hội Việt Nam Phật giáo) từ 1935 –
1954 và là trường hạ của Phật giáo Hà Nội từ 1982 đến nay.
Chùa Bồ
Đề - trường đào tạo Tăng tài
Để đào tạo
Tăng tài cần phải mở các trường Phật học các cấp và có chương trình học bài bản,
chính quy. Đây là vấn đề rất mới đặt ra cho Hội. Công tác chuẩn bị cho việc này
được tiến hành ngay sau khi nghe tin Nam triều làm lễ Nam Giao Đại Tự có mời Hội
Phật giáo Bắc Kỳ vào dự. Ngày 10 tháng 3 năm 1936, Hội trưởng Nguyễn Năng Quốc
đã đưa các Hòa thượng Trung Hậu, Phúc Chỉnh, Bằng Sở, sư cụ chùa Bộc và sư ông
Trí Hải vào Huế để khảo sát việc thiền học và thăm các trường học của Hội An Nam
Phật học (Trung Kỳ) mới mở. Tiếp sau, tháng 9 năm 1936, Thượng tọa Tố Liên được
cử vào tham cứu các chương trình dạy tại các trường Phật học do Sơn môn Huế mở
và trường Tăng học do Hội An Nam Phật học mở. Ngày 20-9-1936, Thượng tọa đi Huế
về, cùng với các vị trong Ban Đạo sư và Ban Quản trị xây dựng chương trình dạy
tại các trường của Hội.
Sau một thời
gian chuẩn bị và chiêu sinh, ngày 14 tháng 12 năm 1936, lễ khai giảng trường
Phật học tổ chức tại chùa Quán Sứ - trụ sở Hội. Ngày hôm sau, Ban Bảo trợ Thiền
học đưa học sinh xuống nhập học ở chùa Sở và làm lễ khai giảng như ở chùa Hội
quán. Ban công bố danh sách học sinh hợp cách, tất cả 70 người, gồm 20 học sinh
xin vào lớp Đại học; 30 học sinh vào lớp Trung học ở chùa Sở (tức chùa Phúc
Khánh hay còn gọi là chùa Thịnh Quang ở Ngã Tư Sở, quận Đống Đa hiện nay); 20
học sinh xin vào lớp Tiểu học ở chùa Quán Sứ.
Tuy nhiên, do
chùa Quán Sứ chuẩn bị trùng tu, chùa Phúc Khánh chưa đủ chỗ học nên phải đưa
trường Trung, Tiểu học sang chùa Bồ Đề. Nhờ có Hòa thượng Sở (tức Hòa
thượng Phan Trung Thứ), Hòa thượng Tế Cát (Thích Doãn Hài) là hai vị
chánh, phó đốc học, cùng với mấy vị Thượng tọa (Tố Liên, Trí Hải)
cùng đôn đốc sự tu học cho các học sinh về phần nội điển, lại có
các bậc cư sĩ chuyên nghiên cứu về Phật pháp đến giảng dạy (như các
ông Bùi Kỷ, Thiều Chửu, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Dư
v.v...) về các môn học phổ thông và triết lý Đông Tây cho nên các học
sinh tiến bộ nhiều.
Như vậy, từ cuối năm 1936, đầu năm 1937, chùa Bồ Đề trở thành trường
đào tạo Tăng tài của Hội với 2 cấp Trung học và Tiểu học.
Đầu
năm 1939, Hội Phật giáo Bắc Kỳ tổ chức sát hạch và phát phần thưởng cho Tăng
sinh trường Bồ Đề niên khóa thứ 2. Mục đích sát hạch là kiểm tra trình độ lớp
Tiểu học và định số cho lên lớp trên Ban Thiền học.
Giám khảo:
Hòa thượng Sở - Đốc giáo Ban Thiền học làm chủ khảo; phó chủ khảo là ông Dương
Bá Trạc biên tập viên báo Đuốc Tuệ; sơ khảo là ông Nguyễn Trọng Thuật biên tập
viên báo Đuốc Tuệ và ông Văn Quang Thùy. Sư ông Uyên học sinh trường Đại học và
sư ông Cung học sinh trường Trung học. Chương trình các kỳ thi gồm:
Kỳ Đệ nhất vào ngày 12 tháng Chạp năm Mậu Dần (31-1-1939)
Hán văn: Một
bài ám tả và vấn đáp 1 giờ; một bài dịch Hán văn ra quốc ngữ 1 giờ; một bức thư
thường dùng trong nhà chùa 1 giờ.
Việt văn: Một
bài ám tả và vấn đáp 1 giờ, một bài luận 3 giờ, 4 bài tính 1 giờ.
Kỳ Đệ nhị vào
ngày 13 tháng Chạp năm Mậu Dần (1-2-1939)
Vấn đáp
bằng chữ Hán:
-
Quốc văn
giáo khoa: 15 phút
-
Phật học
giáo khoa: 15 phút
Vấn đáp
bằng tiếng Việt:
-
Thuỷ sám:
15 phút
-
Trung Quốc
Phật học sử: 15 phút
-
Phật học
giáo khoa: 15 phút
-
Việt sử: 15
phút
-
Cách trí:
15 phút
-
Địa dư: 15
phút
-
Kinh 42
chương: 15 phút
-
Di giáo
kinh: 15 phút
Kỳ Đệ tam:
Tối 13 và
14 tháng Chạp năm Mậu Dần (31-1 và 1-2-1939): Luân lưu lên giảng kinh diễn
thuyết từ 19h00 đến 21h00.
Vấn đáp bằng
chữ Hán: Quốc văn giáo khoa 15 phút, Phật học giáo khoa 15 phút.
Vấn đáp bằng
tiếng Việt: Thủy sám 15 phút, Trung Quốc Phật học sử 15 phút, Phật học
giáo khoa 15 phút, Việt sử 15 phút, Cách trí 15 phút, Địa dư 15 phút, Tứ thập
nhị chương 15 phút, Di giáo kinh 15 phút.
Kỳ Đệ tam vào
tối ngày 13 và 14 tháng Chạp năm Mậu Dần (31-1 và 1-2-1939)
Luân lưu lên
giảng kinh diễn thuyết từ 7 giờ đến 9 giờ tối.
Kỳ Đệ tứ vào
ngày 18 tháng Chạp năm Mậu Dần (5-2-1939)
5 giờ
chiều: Diễn tập lễ nghi. 6 giờ chiều phát thưởng.
Có 11 Tăng
sinh đạt kết quả cao từ 85 - 169 điểm. Trong đó có: Thanh Đương (Hưng Yên) 169
điểm, Thanh Đăng (Hưng Yên) 160 điểm, Thanh Diễn (Ninh Bình) 157 điểm.
Từ năm 1941
đến năm 1945, trường Tăng học chuyển về chùa Quán Sứ và chùa Sở. Hội Phật giáo
Bắc Kỳ mở lớp Ni học tại chùa Bồ Đề. Thầy giáo dạy tại trường Ni lúc bấy giờ là
Hòa thượng Tuệ Tạng (tổ Cồn), Thượng tọa Trí Hải, các cư sĩ: Thiều Chửu, Nguyễn
Quý Tán.
Chùa Bồ
Đề - nơi tổ chức đại giới đàn lớn nhất xứ Bắc
Học để trau
dồi trí tuệ mà không có giới pháp thì không hoàn toàn giới thân tuệ
mệnh được. Vì thế hai ngài Chánh Đốc giáo và các giáo sư xét lại
học sinh, học đã biết được đôi chút mà tuổi đã đến kỳ thụ giới
được, trình lên Hội. Ban Quản trị Hội tiếp được tin ấy, rất mừng vì
chấn hưng Phật giáo mới được có 3 năm trời mà đã đào tạo được một
số khá đông học sinh có học hạnh, xứng đáng thụ giới Cụ túc. Hội
quyết định tổ chức ngay giới đàn tại chùa Quán Sứ.
Trình tự
giới đàn gồm 1- Lễ sám; 2 - Rút thăm; 3 - Ban tứ y bát.
1)
Lễ Sám: Cứ
theo đúng phép thì cả giới sư và giới tử đều phải lễ sám trong 49
ngày để cho ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh mới lĩnh thụ pháp khí
được. Nhưng vì Hội đang trùng tu chùa Quán Sứ, e làm nhiều ngày quá
thì đọng cả mọi việc nên mới châm chước làm 21 ngày và cử Thượng tọa
Tố Liên thay mặt các giới sư đốc xuất các giới tử làm lễ. Hai tuần
thứ nhất và thứ hai, giới tử làm lễ ở chùa Bồ Đề đến ngày 27
tháng 1 ta (tức 6 tháng 1 năm 1940) mới tề tựu về chùa Quán Sứ.
Giới Tỳ-kheo
có 9 vị: Tâm Tịch (Yên Bái), Tâm Thông, Tâm Minh, Tâm Giác ở Nam Định,
Tâm Ấn, Tâm Từ ở Hưng Yên, Tâm Đăng, Tâm Nguyện ở Hà Nam, Tâm Chính ở
Ninh Bình và Giải Ngạn ở Quảng Ngãi.
Giới Sa-di
có 12 vị: Tâm Nhẫn, Tâm Cố, Tâm Định ở Nam Định, Tâm Từ, Tâm Ấn, Tâm
Đạo ở Hưng Yên, Tâm Kiên, Tâm Lạc, Tâm Khả ở Hà Đông, Tâm Tu ở Kiến An,
Tâm Khoan ở Thái Bình.
Giới Bồ-tát: Tâm Đăng, Tâm Tứ ở Hưng Yên, Tâm Chính ở Ninh Bình,
Giải Ngạn ở Quảng Ngãi, Tâm Cần ở Hà Nam và các già hơn 10 vị.
Ngũ giới: Tâm Hành và hơn 30 vị Ưu-bà-di.
Đàn sám bày ở ngoài giảng đường, trên nhất là tượng Đức Bổn sư
Thích Ca Mâu Ni, hai bên bày hương hoa đèn nến rất trang nghiêm rực rỡ,
thứ đến chỗ sám chủ, rồi cứ cách một cái án dài trên có bày hương
hoa đèn nến chỉnh tề lại đến một hàng giới tử 5 người lễ, chia
khoảng đứng gần kín cả giảng đường, các thiện tín đến lễ rất đông.
Mỗi hương án có một tấm gương để giới tử vừa lễ vừa quán tưởng. Đáng
chú ý nhất là trên án thờ có ba cái ống sơn son thếp vàng, trong
đựng những thẻ bằng gỗ, cắt hình bầu dục cũng sơn son thếp vàng,
mỗi cái ghi một danh mục. Tất cả có 37 cái, 34 cái biểu thị 34 cái
tâm, để rút xem công tu của giới tử tiến về đường nào. Con 3 cái: một
chiếc Hắc, một chiếc Trùng sám, một chiếc Bất hứa để xem hành
nghiệp của các giới tử đã thanh tịnh hay chưa. Ống rút xem hành
nghiệp chỉ có 5 cái thẻ, một cái Bạch nhất, một cái Bạch nhị, một
cái Trùng sám, một cái Hắc, một cái Bất hứa. Ai rút được Bạch mới
được thụ giới, rút được Hắc, được Trùng sám thì phải lễ sám rồi
rút lại, rút phải ba kỳ Bất hứa thì thôi không được thụ giới. Trong 5
thẻ chỉ có 2 thẻ được, thực cũng khó thay!
Bắt đầu vào lễ, ngày thứ nhất tuần tam, theo lễ sám Huân tu, các danh
hiệu Phật đều lễ cả, chứ không ngồi mà đọc lượt đi, vẻ rất thành
kính. Đọc đến bái sám hối thì đọc rằn từng câu, mỗi đoạn đều đánh
một tiếng kiểng, dừng lại một tý nghe rất thiết tha cảm động, có vị
cảm quá sụt sùi khóc. Đọc phát nguyện thì theo hành nguyện khóa
sáng, chú trọng về công tự tự tha, kỳ cho đạt hành nguyện của
Bồ-tát, cũng đọc rằn từng tiếng và dứt mạch đánh một tiếng kiểng,
vái một vái, như thể khấn nguyện trước Phật đài thề chừa tội lỗi,
thề cứu chúng sinh, nghe rất phấn khởi lòng tu. Khi niệm Phật thì đi
nhiễu, lúc tán khóa thì phòng nào về phòng ấy, đã lập riêng một nơi
tinh xá có biển yết từng phòng, có riêng hai tịnh nhân phục vụ… Mỗi
ngày lễ 3 khóa, mỗi đêm lễ 3 khóa, cứ cách 2 giờ đồng hồ lại lễ một
khóa, mỗi khóa dài tới hai giờ, theo đúng trú dạ lục thời như trong
kinh dạy. Buổi sáng mỗi vị được thụ một lưng cháo gạn lấy toàn
nước, đúng ngọ thụ một bữa trai, quá ngọ cấm hết. Một ngày đêm có
24 giờ, lễ mất 12 giờ còn thì niệm Phật ngồi thiền, không ra ngoài,
không tiếp chuyện ai, như thế mà làm sao không sạch ba nghiệp được!
Xem đến đó càng biết Phật pháp là tinh nghiêm chỉnh túc hơn cả quân
luật.
2)
Rút thăm
Tại chùa Quán Sứ, sáng 27 bắt đầu rút thăm, giới Tỳ-kheo được 2 vị
Bạch Tịnh, giới Sa-di được 2 vị Bạch Tịnh. Rút thăm rồi lại lễ sám,
đến sáng 29 thì rút lần thứ hai…
3)
Ban tứ y bát
Tiến hành tại chùa Quán Sứ. Hòa thượng Trung Hậu trưởng ban sáng lập
trường Thiền học là Đàn đầu; Yết-ma là Tổ Bằng Sở Chánh đốc giáo;
Giáo thọ là Tổ Tế Cát Phó đốc giáo; Tôn chứng gồm các vị: Tổ Phúc
Chỉnh, Tổ Hương Tích, Tổ Phù Lãng, Tổ Trừng Mai, Hòa thượng Quế Phương,
Cao Đà, Bát Mẫu, cụ Quốc Sư, Hòa thượng Đào Viên Thanh Hóa, cụ Trữ Khê,
cụ Háo Xá. Các vị chứng minh Đạo sư: Cụ Liên Phái, cụ Ngũ Xã, Tổ
Thiên Phúc, Tổ Bạch Xá.
Đây là đại giới đàn lớn nhất xứ Bắc lúc bấy giờ và cũng là Phật sự quan
trọng Hội Phật giáo Bắc Kỳ giao cho chùa Bồ Đề. Nhiều vị thọ giới Tỳ-kheo, giới
Bồ-tát tại giới đàn này sau này trở thành rường cột của Phật giáo Việt Nam như
quý ngài Tâm Tịch, Tâm Thông, Giải Ngạn, Tâm Giác, Tâm Ấn, Tâm Khoan…
Nhớ khi xưa, năm 1874, ngài Nguyên Biểu vừa 38 tuổi, nhân trong cuộc du hóa
truyền giáo vùng Gia Lâm, ngài tới bến Bồ Đề trên bờ sông Hồng nhìn qua bên kia
thành Thăng Long. Nhận thấy nơi đây cảnh trí thiên nhiên thanh nhã, địa danh Bồ
Đề lại đồng danh với quả vị mà mọi người tu Phật đều mong đạt tới.Vả lại đây
cũng là dinh cũ của Bình Định vương Lê Lợi trong những ngày kháng chiến chống
quân Minh.Thật là một nơi địa linh, đáng có một ngôi Tam bảo để hoằng dương
Chánh pháp, cứu độ chúng sinh. Do đó, ngài quyết định ở lại, tự mình khai sơn
phá thạch, dựng lên ngôi chùa đặt tên là Thiên Sơn Cổ Tích Tự, dân quanh vùng
thường gọi là chùa Bồ Đề.
Sau khi xây xong chánh điện và giảng đường, Hòa thượng Nguyên Biểu liền khai
tràng thuyết pháp, thu nạp đệ tử tiếp chúng độ nhân. Tăng tục lui tới tham học
nghe pháp rất đông. Chùa Bồ Đề trở thành một đạo tràng sầm uất nơi cố đô Thăng
Long. Trong số đệ tử của ngài, nhiều vị đã trở thành các bậc lương đống trong
các Tổ đình trên miền Bắc, cả về học thức lẫn đạo hạnh như Tổ Quang Gia, Tổ
Quảng Yên ở chùa Bồ Đề, Hà Nội; Tổ Phổ Tụ ở chùa Tế Xuyên, Tổ Doãn Hài ở chùa Tế
Cát, Tổ Thanh Khải ở chùa Đa Bảo ở tỉnh Hà Nam.
Tuy Hòa
thượng Thích Nguyên Biểu không còn trụ thế khi phong trào chấn hưng Phật giáo
Bắc Kỳ được phát động nhưng sư đệ của ngài như Hòa thượng Thanh Hanh; đệ tử của
ngài như quý Hòa thượng Trung Hậu, Tế Xuyên, Tế Cát, Đa Bảo; sư điệt của ngài
như Hòa thượng Trí Hải, Hòa thượng Tâm Tịch đều là những cây đại thụ của phong
trào.
Chùa Bồ Đề đã
nối tiếp truyền thống Tổ đình của Hòa thượng Thích Nguyên Biểu khi xưa, trở
thành điểm son trong công tác giáo dục Tăng Ni trong thời kỳ chấn hưng Phật giáo
1930 – 1945.
Tài liệu tham
khảo
2.
Báo Đuốc Tuệ số 123 ra 1 tháng 1 năm 1940.
Báo Đuốc Tuệ số 123 ra ngày 1 tháng 1 năm 1940.