HÀNH TRÌNH TRUYỀN BA TÔNG LÂM TẾ CỦA CHUYẾT CHUYẾT VÀO ĐÀNG NGOÀI ĐẠI VIỆT
hanh trinh
HÀNH TRÌNH TRUYỀN BA TÔNG LÂM TẾ
CỦA CHUYẾT CHUYẾT VÀO ĐÀNG NGOÀI ĐẠI VIỆT
Nguyễn Đại Đồng
Hành trình ra kinh đô Đại Việt
Sách Chuyết Chuyết Tổ sư ngữ lục (viết tắt CCTSNL) kể: Bấy giờ, có
vị thương nhân lớn ở Kinh thành Thăng Long (lúc đó gọi là Đông Đô) tên là Nguyễn
Tề, thỉnh Sư (tức Chuyết Chuyết) đến kinh thành làm lễ cầu siêu cho cha mẹ. Thầy
trò bàn kín với nhau, Sư nói: "Đây chẳng phải là việc của chúng ta, nhưng nếu
muốn khai quyền hiển thật thì không thể không theo" (ý nói nếu muốn truyền Đạo
thì phải ra kinh thành làm việc Tề nhờ). Thế rồi, thày trò cùng nhau đến kinh
thành.
CCTSNL không nói đến việc trên đường ra đoàn qua chùa Thiên Tượng (Hà Tĩnh) và
Trạch Lâm (Thanh Hóa) hoằng pháp như Nguyễn Lang đã nêu trong Việt Nam Phật
giáo sử luận
mà kể: "Thế nhưng, Nguyễn Tề lại mắc phải tội không thể tha, khiến cho thầy
trò phải đi khất thực mất mấy tháng, rất ít khi gặp những người như trưởng
giả Cấp Cố Độc (tức chỉ đại thí chủ cúng dàng)".
Tỷ-khiêu Thích Thanh Sơn, tác giả Luận văn Tìm hiểu hệ thống văn bia chùa Bút
Tháp, Thuận Thành-Bắc Ninh
cho biết các bia Sắc kiến Tôn Đức khoán thạch, No 2883 và Ninh Phúc
thiền tự Tam bảo tế tự điền bi, No 2897 đều lược ghi về hành trạng của Thiền
sư Minh Hành, như sau: "Năm Quý Dậu niên hiệu Đức Long thứ 5 (1633), ngài
theo thầy là Thiền sư Phổ Giác
sang kinh đô nước Đại Việt đi hành đạo truyền giáo".
Dựa vào hành trạng Thiền sư Chuyết Chuyết đã nêu trên Nguyệt san Giác Ngộ
số 266 và 267, chúng tôi suy đoán về thời gian đoàn ra đến kinh thành như sau:
Khởi hành từ Quảng Nam đầu năm 1633, ra đến chùa Thiên Tượng và ở lại đó 1-2
tháng hoằng pháp; từ Hà Tĩnh ra chùa Trạch Lâm (Bỉm Sơn, Thanh Hóa) và ở đó 1-2
tháng truyền bá giáo lý thiền Lâm Tế từ 1-2 tháng; Từ Thanh Hóa ra Đông Đô do
Nguyễn Tề bị bắt thầy trò phải đi khất thực mất mấy tháng, tổng thời gian từ
Đàng Trong ra tới kinh thành và gặp được đại thí chủ Trần Thị Ngọc Am là 7
tháng. Nếu khởi hành từ tháng 2 năm 1633 (thường sau tết âm lịch mới đi) thì
khoảng tháng 9 năm đó mới đến chỗ nương thân chuẩn bị hoằng pháp (chùa Thiên
Tượng).
Truyền bá tông Lâm Tế ở Đàng Ngoài
Công cuộc truyền bá tông Lâm Tế do Chuyết Chuyết ở Đàng Ngoài Đại Việt sẽ thất
bại nếu ông không gặp được hai người là Chính vương phủ lão cung tàn Trần Thị
Ngọc Am và Dũng Lễ công Trịnh Khải. Họ là cầu nối giữa Chuyết Công với vua Lê
chúa Trịnh, vừa có quyền (Trịnh Khải là Thái úy, Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất
cung tần của chúa Trịnh Tráng), vừa giàu có; cả hai người đều mến mộ đạo Phật và
thích làm việc thiện.
CCTSNL cho biết: Bấy giờ có đức bà lão cung tần
giàu có lại mến mộ Phật pháp, xin theo Sư học đạo, lại cho ba cô con gái quy y
với Sư. Không lâu thì lại có em trai Thanh vương Trịnh Tráng là Dũng Lễ công
Trịnh Khải
hâm mộ Thiền học của Sư, bèn sai người rước Sư đến phủ. Trong lúc hỏi đáp, Khải
biết Sư là người tinh thâm thấu triệt lẽ huyền vi, biện tài vô ngại, liền bái Sư
làm thày, giữ lễ đệ tử. Khải tuy rất yêu mến Sư, nhưng vẫn còn hoài nghi về đạo
pháp của Sư, mới đem tục tình ra thử. Tuy roi vàng giơ lên mà ngựa Ý chẳng đông,
không nhiễm mảy bụi trần. Qua đây, Trịnh Khải mới biết được Sư chẳng phải là
hạng tầm thường. Sau đó, Trịnh Khải còn cho con gái theo Sư xuất gia.
Kế đến, bốn phương vân tập, đưa Sư về ngôi chùa cổ trước kia do nhà Lý xây dựng
ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du (chỉ chùa Phật Tích).
Xưa kia, khi hoàng đế nhà Lý
từ bỏ ngôi vị cao quý, đến ở nơi thấp hèn, vì để thiệu long Tam bảo nên đã cho
xây dựng ngôi chùa rất tráng lệ. Lấy vàng xếp làm đàn, gạch rồng rải kín đất,
tạc đá thành các tượng trâu, ngựa, voi, sư tử, hổ báo. Quần thần thấy thế mới
tâu: "Bậc chí tôn đã từ bỏ giàu sang, ở nơi nghèo khổ, sao còn xa xỉ như vậy?"
Vua đáp: " Sở dĩ ta làm rường cột vững chãi, nền móng, gạch ngói kiên cố, trong
thì trang sức hoa văn, ngoài thì trồng cây che mát... đó là vì sau này có nhục
thân Bồ-tát ở nơi chùa này, diễn giảng giáo lý tối thượng thừa, cứu độ cho vô
lượng chúng sinh vậy". Sư vào chùa, thấy đất báu vô cùng đặc biệt, hình thế chót
vót, gạch điêu gỗ khắc chữ [Lý] trùng với họ của mình. Sư nói: "Chẳng phải [vua]
là bậc chuyển thân đó ư? Sao có sự trùng hợp khéo đến vậy!"
Sau đó, hoàng thượng, hậu phí, vương công, cung tần, tể quan, sĩ
thứ, Tăng Ni, đạo tục đồ chúng ngày một đông. Lại được đội ơn đức Chúa - bậc
Thánh nhân vốn sáng suốt, lại thêm tâm tính thích làm việc thiện - đã ban tặng
cho danh hiệu là "Sư Tổ".
Như vậy ở Đông Đô, Chuyết Chuyết và các đệ tử được bà Trần Thị Ngọc
Am và Dũng Lễ công Trịnh Khải đưa đến chùa Khán Sơn
và bắt đầu giảng dạy Phật pháp. Người đến học gồm cả người Việt và người Trung
Hoa. Thấy người theo học ngày một đông, mà chùa chật hẹp không đủ sức chứa, lão
cung tần họ Trần bàn với Dũng Lê công và học chúng rước Chuyết Công về chùa Phật
Tích ở huyện Tiên Du, trấn Kinh Bắc cách kinh thành chừng ba mươi cây số. Nơi
đây đã được Đại thí chủ Trần Thị Ngọc Am hưng công trùng tu, có giảng đường lớn
chứa được cả trăm người, dưới hàng cây quanh năm xanh mát.
Văn bia chùa Phật Tích cho biết hoàng thượng, hậu phi, vương công,
cung tần, tể quan, sĩ dân, Tăng Ni, đạo tục đồ chúng đến với Thiền sư Chuyết
Chuyết ngày một đông. Sư được chúa Trịnh Tráng biết đến và hâm mộ, xem như bậc
thầy, đã ban cho Sư danh hiệu "Tổ sư" của danh sơn trong bốn trấn. Chuyết Công
rất được các vua Lê Thần Tông và Lê Chân Tông
kính trọng. Vua Lê Thần Tông đã tôn xưng Chuyết Chuyết là "Đông Đô Thủy Tổ".
Để xiển dương rộng rãi tông Lâm Tế, thể theo yêu cầu của chúa Trịnh Tráng,
Chuyết Công đã cử đệ tử Minh Huyễn (hay Minh Hành?) trở về Trung Hoa để thỉnh
kinh. Kinh điển thỉnh về được an trí tại chùa Phật Tích. Một số kinh đã được
khắc ván trong thời ấy để ấn loát và phổ biến. Bản khắc đều được tàng trữ tại
chùa Phật Tích. Trong số những kinh sách mà Chuyết Chuyết mang theo lần đầu, có
một nghi thức cúng cô hồn dưới nước và trên cạn, gọi là Thủy lục chư khoa.
Chuyết Chuyết và các đệ tử đã tổ chức một trai đàn lớn, cầu cho tất cả vong
linh nạn nhân của thời đại. Nghi thức và cách tổ chức trai đàn này rất được vua
Lê chúa Trịnh và các bậc công hầu thời ấy hâm mộ. Thủy lục chư khoa từ đó
được áp dụng rộng rãi tại các chùa Đàng Ngoài.
Từ đó, khắp cùng các chốn danh sơn trong cả nước, dấu Phật được trùng hưng không
kể xiết.
Học trò của Chuyết Chuyết
Chuyết Chuyết là một người xuất chúng, đạo đức vang xa nên thu hút hàng tứ chúng
khắp nơi về tham học tại thiền viện Phật Tích.
Chuyết Chuyết Tổ sư ngữ lục
nói: "Người theo học (Chuyết Chuyết) có đến mấy trăm, mấy chục người đắc chỉ,
còn những người thấy nghe mà giác ngộ thì có đến nửa thiên hạ". Nhưng sách này
không nêu tên cụ thể. Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận cũng
chỉ nêu Minh Hành và Minh Lương. Còn Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ
chỉ đưa ra sơ đồ mấy vị đệ tử đắc pháp nơi Chuyết Công Hòa thượng. May thay,
trong một tấm bia tại chùa Phật Tích mang tên Vạn Phúc đại thiền tự bi,
No 2146 và Kiến lập Tam bảo điền tự sự tổ sư Ân Quang tháp bi ký, No 2147
dựng năm Chính Hòa thứ 7 (1686), có kể lại chuyện vào ngày 15 tháng 7 năm Phúc
Thái thứ 2 (1644) thì Chuyết Chuyết viên tịch, 42 năm sau – tức 1686 là thời
điểm dựng tấm bia hai mặt nói trên, trong khi môn nhân gồm: Minh Hành Tại Tại,
Minh Huyễn Liễu Nhất, Minh Quang, Minh Đức, Minh Tông, Minh Đạo, Minh Hiền, Minh
Nghiêm, Minh Như, Minh Vô, Minh Hảo, Minh Chính, Minh Quảng, Minh Quy, Minh
Lệnh, Minh Thông, Minh Giai, Minh Mẫn, Minh Tường, Minh Nghĩa (Vô Trước), Minh
Pháp, Minh Toàn, Minh Ân, Minh Hải, Minh Trực, Minh Đăng, Minh Thiện, Minh Quán,
Minh Lai, Minh Niên, Minh Chính Giác, Minh Cao, Minh Thời, Minh Thọ, Minh Kiều,
Minh Nhân, Minh Si, Minh Giác, Minh (?), Minh Tịnh, Minh Giới, Minh Thịnh, Minh
Đạo Nghĩa, Minh Chiếu, Minh Tâm, Minh Túc, Minh Tiến, Minh Thế, Minh Vạn, Minh
Nhẫn, Minh Lâm, Minh Hạo (?), Minh Ngạn, Minh Châu, Minh Chi, Minh Biện, Minh
Mệnh, Minh Chiêu, Minh Phúc, Minh Lý, Minh Trung, Minh Huệ, Minh Tuyên, Minh
Phổ, Minh Thận, Minh Lan, Minh Qué, Minh Diệu, Minh Tại, Minh Tạng, Liên Hoa,
Hội Ưu-bà-tắc Dũng Lễ công, tự Quảng Đức, hiệu Nhân Bản, thụy Hoàng Phú giác
linh công Minh Nguyện. Vương phủ nội Cung tần Ưu-bà-di Đệ nhất Chiêu nghi Trần
Thị Ngọc Am, gia phong là Thánh Quang Bồ-tát (Pháp Giới). Hoàng thái hậu Trịnh
Thị Ngọc Trúc (Pháp Tính). Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Áng (Diệu Định). Tấn thân
Đại phu Thái phó Kiên quận công Trịnh Quân, Thiếu phó Dĩnh quận công Ngô Hữu
Dũng... đều đã viên tịch và mất, thì tên học trò Minh Lương được khắc lên hàng
đầu ở phía "Tỷ-khiêu còn tại thế", trong đó có cả Chân Nguyên.
Chuyết Chuyết đã từng đến đất Cổ Miên (Campuchia) hoằng hóa 16 năm (từ
1609-1624), sau đó sang Đàng Trong Đại Việt du hóa 8 năm (từ 1625-1632) và tại
hai nơi này ông đều không thành công. Năm 1633 ông và đoàn đệ tử đến kinh đô Đại
Việt Đàng Ngoài và nhờ sự giúp đỡ của các Đại thí chủ Trần Thị Ngọc Am, Dũng Lễ
công Trịnh Khải, sự ủng hộ của chính quyền (chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng, vua
Lê Thần Tông) và các hoàng thân quốc thích, các Tăng Ni, thiện tín thập phương
cùng tài năng của ông (và các đệ tử), Chuyết Chuyết đã thành công trong việc
truyền bá tông Lâm Tế vào Đàng Ngoài Đại Việt với trung tâm Phật giáo Lâm Tế tại
Đại thiền viện Vạn-Ninh,
từ đây nhiều kinh sách được thỉnh về và khắc ván ấn loát lưu hành trong cả nước;
nhiều đệ tử theo học đã đắc pháp nối nghiệp. Từ đó, khắp cùng các chốn danh sơn
trong cả nước, dấu Phật được trùng hưng không kể xiết. Hệ phái Lâm Tế Đàng Ngoài
được thiết lập vững chắc, góp phần "Hộ quốc an dân" đất nước.
Công nghiệp của ông đã được vua Lê chúa Trịnh đánh giá "Đạo Phật phù trợ khiến
vận nước vững bền".
Và khi ông mất, vua Lê Chân Tông tặng phong là: "Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức
Thiền sư".
Tài liệu tham khảo:
1.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, Nxb. Văn Học,
1994.
2.
Hà Văn Thư-Trần Hồng Đức, Tóm tắt niên biểu Lịch sử Việt Nam,
Nxb. Văn hóa Thông tin, 2007.
3.
Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, 2010.
4.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Phật Tích trong tiến trình lịch sử ngày
10 tháng 5 năm 2011 tại chùa Phật Tích.
5.
Tạp chí Suối nguồn số 8 ra tháng 2 năm 2013, bài Ghi chú về
thiền sư Minh Lương Mãn Giác (?-1675), của Lê Quốc Việt từ trang 83-126.
6.
Nguyễn Đại Đồng, Những người con gái tiêu biểu của Đức Phật, Nxb.
Tôn giáo, tái bản năm 2013.
7.
Thích Thanh Sơn, Tìm hiểu văn bia chùa Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc
Ninh, Luận văn Thạc sĩ Phật học, 2017.
8.
Thiền sư Minh Hành và Thiền sư Tuệ Tiến, Chuyết Chuyết Tổ sư ngữ lục,
Nguyễn Quang Khải-Thích Nguyên Đạt dịch, Nxb. Thanh Hóa, 2017.
9.
Nguyệt san Giác Ngộ, số 266, 267 ra tháng 5 và tháng 6 năm 2018.
10.
Nguyễn Đại Đồng, Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến năm 1981,
Nxb. Tôn Giáo, 2018.