Các Pháp Vào Định
cac phap 
 
Nguyên Giác
 
Bài này sẽ trình bày một số 
pháp vào định, dựa trên nhiều truyền thống. Tuy được viết để trả lời nhiều thắc 
mắc, bài này vẫn là một khảo sát không thẩm quyền, vì bản thân người viết tu học 
chưa tới đâu. Trong các phần dựa vào kinh và luận, hy vọng các ghi chú cuối bài 
sẽ làm sáng tỏ hơn.
*
Trước tiên, nói về thái độ 
người tu học: cần có lòng tin kiên cố và tận lực tinh tấn, bất kể thịt da xương 
cốt khô héo.
Đức Phật nói trong kinh 
Trung bộ số 70 rằng đối với người tu có lòng tin kiên cố, dù bây giờ chưa tu 
học tới đâu, nhưng người có lòng tin tất nhiên sẽ tinh tấn, và trước khi lìa đời 
trong kiếp này hoặc sẽ đắc quả Chánh trí (quả A-la-hán), hoặc là quả Bất hoàn 
(quả Bất lai, hay A-na-hàm). Hãy tin rằng Đức Phật nói không thể sai được. Trích 
bản dịch của HT. Thích Minh Châu là:
"Này các Tỷ-kheo, đối với 
đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy 
pháp này được khởi lên: “Dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân 
bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, 
nhờ trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng”. Này 
các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo sư và sống thể nhập 
giáo pháp ấy, vị ấy sẽ chứng được một trong hai quả như sau: Chánh trí ngay 
trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn." 
(1) 
Nhưng, phải tu học thế nào? 
Đức Phật dạy rằng phải tu trong từng giây phút trong ngày, tu trong từng khoảnh 
khắc trong và ngoài, hiểu là giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh từng khoảnh khắc.
Kinh Pháp cú, kệ 315 
viết: Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản 
thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
Nghĩa là, phải quan sát từng 
khoảnh khắc trong tâm.
*
Có một suy nghĩ rằng: tại sao 
nhiều vị sư hiện nay tập trung nhiều vào các pháp thiền Chánh niệm, và thường 
không nói nhiều về các pháp định – thí dụ, vào sơ thiền, nhị thiền… Thực tế lịch 
sử, ban đầu phong trào dạy Vipassana khởi lên từ Miến Điện là từ Thiền sư Ledi 
Sayadaw (1846-1923), người tìm ra pháp thiền thích nghi với mọi thành phần đại 
chúng để dùng như công cụ chống lại thực dân Anh, để toàn dân Miến Điện tu được 
trong mọi hoàn cảnh đời thường, và cũng để bảo vệ Phật giáo trong khi nhiều giáo 
sĩ người Anh vào Miến Điện mở trường truyền giáo. Tuy ngài nhấn mạnh về tuệ, 
nhưng trong thiền Chánh niệm (Vipassana) từ ban đầu cũng tự động đã có yếu tố 
cận định, vì nếu không, sẽ không gọi được là Mindfulness. Trong các thế hệ sau 
của ngài có cư sĩ S.N. Goenka, người truyền dạy Vipassana ra toàn cầu và cả tại 
Việt Nam.
Tại sao quý ngài không dạy 
tập trung vào định? Bởi vì giới là cần hộ trì nhất. Và cũng vì hai Thánh quả đầu 
tiên (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm) có thể đạt được mà không cần tập định.
Trong bài viết “Liberation 
- Relevance of Sutta-Vinaya” (2) 
của Đại sư Dhammavuddho Thera có dẫn lời Đức Phật dạy trong các kinh Trung bộ 
(43), Tương ưng bộ (46.4.8), Tăng chi bộ (10.75; 4.58; 5.41), cho 
thấy Thánh quả Tu-đà-hoàn là thân cận thiện tri thức, lắng nghe Chánh pháp (lắng 
nghe, hiểu là nghe, đọc, nghiền ngẫm kinh điển), chú tâm tương ưng (paying 
proper attention or thorough consideration, chú ý tương ưng, suy xét cẩn trọng, 
như lý tác ý), siêng tu học.
Đại sư cũng dẫn ra các kinh 
trong Tăng chi bộ (3.85 và 9.12), ở đó Đức Phật nói rằng hai Thánh quả 
đầu tiên cần có giới toàn hảo (perfect sila).
Đặc biệt, Thánh quả 
Tu-đà-hoàn không khó, theo phân tích của Đại sư, vì kinh Tăng chi bộ 
(3.9.85) nói rằng các bậc Thánh vẫn có thể bị lỗi phạm giới nhỏ. Kinh Tương 
ưng (55.3.4) dẫn ra trường hợp ngài Sarakani, khi Đức Phật nói rằng Sarakani 
đã đắc thánh quả Tu-đà-hoàn đã làm đại chúng bất ngờ, vì Sarakani trước đó đã bị 
tẫn xuất về đời thường, và đã phạm giới uống rượu.
Đại sư cũng dẫn ra kinh 
Trung bộ (số14), kể rằng ngài Mahanama, người đã đắc quả Tư-đà-hàm (còn gọi 
là Nhất Lai, một lần tái sinh nữa), trình với Đức Phật rằng ngài tu học nhiều 
năm, nhưng đôi khi trong tâm vẫn khởi lên niệm bất thiện (tham-sân-si). Đức Phật 
trả lời rằng bậc Thánh dù đã có trí tuệ, đã biết tham-sân-si là sai, nhưng vẫn 
có thể bị lôi cuốn bởi niềm vui cảm giác, trừ phi đã đắc hai yếu tố trong định 
là: piti (delight, vui sướng nhờ tu định) và sukha (happiness, 
hạnh phúc). 
Đại sư trong bài cũng dẫn ra 
kinh Tăng chi bộ (5.3.26), nói về năm giải thoát xứ, cho biết người tu có 
thể đắc quả A-la-hán qua một trong 5 giải thoát xứ: 1. Lắng nghe (hay học) Chánh 
pháp; 2. Giảng dạy Chánh pháp; 3. Tụng đọc Chánh pháp; 4. Tư duy ý nghĩa Chánh 
pháp; 5. Thiền tập.
Tới đây, cũng nên nhắc về hai 
kinh Tăng chi bộ (10.2 và 11.2), ở đó Đức Phật dạy rằng chỉ cần giới đức 
thanh tịnh, các chi giải thoát khác (kể cả định, huệ) cũng sẽ tự động thành tựu, 
dẫn tới Thánh vị A-la-hán.
Như thế, chúng ta có thể hiểu 
vì sao, khi quý ngài Miến Điện khởi động phong trào toàn dân tu thiền Vipassana, 
đã không tập trung dạy về định.
*
Một câu hỏi: Làm thế nào để 
biết là đã vào được sơ thiền? Đức Phật nói trong nhiều kinh rằng, vào sơ thiền 
(và các tầng thiền khác) sẽ thấy an lạc vô cùng tận. Trong sơ thiền, niềm vui hỷ 
lạc tràn ngập toàn thân y hệt như người tắm và xoa bột tắm trên toàn thân.
Đức Phật giải thích trong 
kinh Tăng chi bộ (5.28) rằng vào sơ thiền sẽ thấy:
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, 
Tỷ-kheo ly dục... chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm 
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, 
không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Ví như, này các Tỷ-kheo, 
như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng 
đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào 
trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành 
giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung 
mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn 
thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần."
(3)
Chúng ta dễ dàng hiểu được 
tại sao một số vị thầy ngoại đạo hướng dẫn đệ từ vào được sơ thiền, rồi nói gì 
cũng được tung hô, vì niềm vui trong sơ thiền (và các tầng thiền khác) là tuyệt 
vời.
Chữ “tầm” trong giải 
thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: thought (bản dịch của Bhikkhu 
Bodhi), directed thought (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), initial 
thinking (bản dịch Leigh Brasington), applied thought (bản dịch 
Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm hướng vào.
Chữ “tứ” trong giải 
thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: examination (bản dịch của Bhikkhu 
Bodhi), evaluation (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), sustained thinking 
(bản dịch Leigh Brasington), sustained thought (bản dịch Henepola 
Gunaratana). Nghĩa là: niệm trụ vào.
Như thế, chúng ta có thể tin 
rằng, có những trường hợp nhiều người đã vào được sơ thiền, mà không biết tới 
danh từ này. Đó là khi tâm lắng xuống, lặng lẽ, cảm nhận làn da trên toàn thân 
vui sướng vô cùng, hệt như bột tắm xoa toàn thân. 
*
Có một câu hỏi: quý thầy dạy 
vào định như thế nào? Leigh Brasington là một thiền sư đã theo học nhiều năm ở 
Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka…, giải thích rằng hiện có hai khuynh hướng chính 
trong Theravada. Mỗi khuynh hướng chính cũng dạy có phần khác biệt tùy các thầy, 
ở các quốc độ khác biệt: 
- dạy vào các tầng thiền theo
Thanh tịnh đạo luận, nổi bật là trường thiền Pa Auk Monastery (ở Miến 
Điện) với các khóa thiền kéo dài nhiều tháng, và khi một số môn đệ người Hoa Kỳ 
đưa pháp này về dạy ở Hoa Kỳ, rút ngắn còn khóa 10 ngày. Vào định hoặc bằng hơi 
thở, hoặc nhìn các đĩa màu kasina. Vị thầy nổi tiếng khác là Ajahn 
Brahmayamso, học với Thiền sư Ajahn Chah ở Thái Lan trước khi về Úc châu, chủ 
yếu dùng hơi thở để vào định, phương pháp có kết hợp với kinh. 
- dạy vào các tầng thiền theo 
các kinh Pāli, nổi bật là nữ Thiền sư Ayya Khema, dạy vào định bằng nhiều cách, 
hơi thở, tâm từ, niệm quét (sweeping) trên thân. Tương tự là quý thầy 
Amathagavesi ở Sri Lanka. Bhante Gunaratana, Thanissaro Bhikkhu…
Cách tu định phổ biến nhất là 
qua thiền hơi thở và qua thiền tâm từ.
Một số người nói rằng tâm từ 
trong nhà Phật cũng giống như yêu thương hay bác ái trong các đạo khác. Thực ra 
không phải. Thiền tâm từ trong nhà Phật có một số phương pháp tu khác nhau, cũng 
có hai khuynh hướng tu chính, một là theo kinh và một theo Thanh tịnh đạo 
luận.
Riêng phương pháp tâm từ do 
Đức Phật dạy trong kinh Tương ưng (46.64) độc đáo là kết hợp với thiền Tứ 
niệm xứ.
Trích nơi đây từ bản dịch 
tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu trong kinh “64. Từ” thuộc Tương ưng giác chi:
“Và này các Tỷ-kheo, từ 
tâm giải thoát tu tập như thế nào? Thú hướng như thế nào? Tối thắng như thế nào? 
Quả như thế nào? Cứu cánh như thế nào?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, 
Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi câu hữu với từ… tu tập xả giác chi câu hữu với từ, 
liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ 
bỏ. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng ghê tởm đối với pháp không ghê tởm”, vị 
ấy trú ở đây với tưởng ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng không ghê 
tởm đối với pháp ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng không ghê tởm. Nếu vị ấy 
muốn: “Ta sẽ trú với tưởng ghê tởm đối với pháp không ghê tởm và pháp ghê tởm”, 
vị ấy trú ở đây với tưởng ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng không 
ghê tởm đối với pháp ghê tởm và pháp không ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng 
không ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Từ bỏ cả hai không ghê tởm và ghê tởm, ta sẽ trú 
xả, chánh niệm tỉnh giác”, vị ấy trú ở đây với xả, chánh niệm tỉnh giác, hay đạt 
đến giải thoát được gọi là thanh tịnh, vị ấy an trú. Này các Tỷ-kheo, từ tâm 
giải thoát là thanh tịnh tối thượng, Ta tuyên bố như vậy. Ở đây là trí tuệ đối 
với Tỷ-kheo không đạt tới giải thoát cao hơn.”
(4)
Nghĩa là niệm giác chi kết 
hợp với tâm từ để ly tham, ly sân, ly si. 
Chủ đề bản kinh rất dài đó 
là: Làm cách nào từ bi dẫn tới giác ngộ… Kinh vừa nêu là Mettā Sahagata
Sutta. Piya Tan giải thích theo Thanh tịnh đạo luận rằng Đức Phật 
dạy trong kinh này là về đối trị nhóm 5 tưởng trong tâm.
Thứ nhất, trường hợp gặp một 
pháp mình ưa thích (thí dụ: gặp một phụ nữ xinh đẹp, nghe một đoạn nhạc ưa 
thích…), người tu phải khởi niệm, hướng bao trùm về pháp đó là bất tịnh, hay 
quán pháp đó là vô thường. 
Thứ hai, trường hợp gặp một 
pháp mình không ưa (thí dụ: gặp một người hung dữ, hay đọc phải một bài thơ quá 
dở…), người tu hoặc là quán bao trùm đối tượng hung hăng đó bằng tâm từ, hay xem 
kẻ hung dữ đó chỉ là như tập họp các đại (thí dụ: đất, nước, gió, lửa). 
Thứ ba, người tu quán bao 
trùm khắp các đối tượng cả xinh đẹp dễ thương và hung hăng dữ dằn đó bằng niệm 
về bất tịnh, hay xem chúng như vô thường. Do vậy xem cả 2 như là “pháp ghê tởm” 
(dịch như HT. Thích Minh Châu).
Thứ tư, người tu quán bao 
trùm khắp các đối tượng cả dễ thương và hung dữ đó bằng tâm từ bi, hay xem chúng 
như các đại; do vậy xem cả 2 như là “pháp không ghê tởm” (dịch như HT. Thích 
Minh Châu).
Thứ năm, tránh cả hai loại 
đối tượng dễ thương và hung dữ đó – khi xem sắc với mắt, nghe tiếng với tai, 
ngửi mùi với mũi, nếm vị với lưỡi, chạm xúc với thân, nhận ra pháp với thức, 
người tu không vui và cũng chẳng buồn, duy chỉ giữ tâm xả trong tỉnh thức tròn 
đầy. 
*
Bây giờ, câu hỏi là: có cách 
nào tiện dụng để vào sơ thiền? 
Thiền sư Leigh Brasington 
(người nối pháp của Ayya Khema) giải thích bằng một bài viết 
(5), giảng dạy trong một thiền thất 
9 ngày trong năm 2002 do ông hướng dẫn. Ông nói rằng trong vòng 9 ngày, với pháp 
này sẽ có một số người vào được sơ thiền.
Bài hướng dẫn rất dài, ở đây 
chúng ta tóm tắt như sau: Yêu cầu học nhân ngồi thẳng lưng, thoải mái, thư 
giãn toàn thân. Hít thở nhẹ nhàng, tự nhiên. Cảm nhận hơi thở nơi chóp mũi, chỉ 
chú tâm vào hơi thở nơi chóp mũi. Nếu tâm chệch ra, hãy kéo trở lại hơi thở nơi 
chóp mũi. Hơi thở mơ hồ dần, có thể cảm nhận là gần như biến mất, hay đã biến 
mất. Khi đó, chú tâm vào một nơi có cảm thọ an lạc. Thí dụ, mỉm cười (như tượng 
Đức Phật) và chú tâm vào thọ an lạc nơi mỉm cười. Nếu thấy chú tâm vào nụ cười 
mỉm không được, hãy nghĩ tới nơi khác, thí dụ, giữa ngực hay trên đỉnh đầu, 
nghĩa là một nơi trên cơ thể để cảm nhận thọ an lạc. Tự nhiên như thế, không làm 
gì hơn, dần dà cảm thọ an lạc toàn thân sẽ tới, an lạc toàn thân vô cùng tận. Và 
đó là sơ thiền, khi đối chiếu với kinh.
Như trên là một cách.
*
Trong kinh Tăng chi bộ 
(4.41), Đức Phật dạy về bốn cách khác nhau vào định. Trích bản dịch của HT. 
Thích Minh Châu:
“Có định tu tập, này các 
Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến hiện tại lạc trú. Có định tu 
tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến chứng được tri 
kiến. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến 
chánh niệm tỉnh giác. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho 
sung mãn, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc.” 
(6)
Trong bản phân tích của Piya 
Tan, nói về 4 cách này như sau:
Cách thứ nhất, an trú hạnh 
phúc ở đây và bây giờ (hiện pháp lạc trú), là tập cho bốn tầng thiền.
Cách thứ nhì, quán tưởng về 
ánh sáng, còn gọi là thiên nhãn, sẽ đạt tri kiến (biết và thấy).
Cách thứ ba, là chánh niệm 
tỉnh giác, tưởng về vô thường (quan sát các thọ sinh trụ dị diệt).
Cách thứ tư, quan sát sinh và 
diệt trong 5 uẩn (sắc thọ tưởng hành thức).
*
Tới đây, chúng ta sẽ nói về 
pháp định vô tướng. Nói vô tướng, nhưng có nghĩa là thực tướng. Như vậy, thực 
tướng là gì? Thực tướng các pháp đang diễn ra trước mắt, bên tai, và trong tâm 
mình là gì? Đức Phật trả lời là vô thường, là vô ngã, là do nhân duyên kết hợp. 
Cụ thể: Làm sao để thấy vô thường và vô ngã trôi chảy trước mắt và bên tai?
Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) 
trong bài thơ “Guhatthaka-suttaniddeso: Upon the Tip of a Needle” 
(7) mô tả rằng tất cả các pháp chảy 
xiết qua các khoảnh khắc thời gian, y như điểm tiếp giáp của một hạt đậu rất nhỏ 
đặt lơ lửng trên đầu một mũi kim. 
Nội dung bài thơ của ngài Xá 
Lợi Phất, nơi đây sẽ viết như văn xuôi cho dễ đọc, có thể dịch nghĩa như sau:
“Đời sống, thọ mạng, niềm 
vui, nỗi đau đều buộc chung vào một khoảnh khắc của tâm, một khoảnh khắc nhanh 
chóng trôi đi. Ngay cả các vị phi nhơn sống lâu tới 84 ngàn tỷ năm cũng không 
sống được 2 khoảnh khắc nào trong tâm y hệt nhau. Cái ngưng lại nơi người đã 
chết hay cho người còn đứng nơi đây đều là cùng các uẩn, khi biến đi là vĩnh 
viễn không nối lại được. Các trạng thái đang biến mất bây giờ và các trạng thái 
sẽ biến mất trong các ngày tương lai đều có đặc tướng y hệt như các đặc tướng đã 
biến mất trước đây. Khi không tạo tác gì nữa, sẽ không có sinh ra; chỉ với hiện 
tại này, chúng ta đang sống. Khi đã nắm được nghĩa tối thượng, thế giới chết 
ngay khi tâm ngưng lại. Không cất giữ gì được những gì đã biến mất, không để gì 
được cho tương lai. Những người đã sinh ra trong đời này đang đứng y hệt như hạt 
đậu rất nhỏ trên đầu mũi kim. Sự biến mất của tất cả các trạng thái này đã không 
hề được hoan nghênh, mặc dù hiện tượng khoảnh khắc tan rã như thế đã có từ thời 
ban sơ. Từ nơi chưa được nhìn thấy, các trạng thái này hiện ra và biến đi, được 
nhìn thấy chỉ khi chúng đang trôi đi vào quá khứ. Y hệt tia chớp trên bầu trời: 
tất cả các pháp khởi lên và rồi biến hẳn đi.”
Người viết tin rằng, bài thơ 
này khi được đọc và nghiền ngẫm, có sức mạnh dẫn vào định, y hệt như bài 
Bát-nhã Tâm kinh, vì gần như tức khắc, trong tâm người đọc sẽ không còn trụ 
bất kỳ pháp nào nữa.
Thực tướng các pháp là trôi 
chảy như thế, là vô thường và vô ngã. Và như thế, thực tướng chính là vô tướng. 
Nhưng gọi là thực tướng, hay gọi là vô tướng cũng chỉ là khiên cưỡng, vì không 
có lời nào mô tả được. Chính trong thực tướng này, gọi là vô thường hay thường 
cũng được, gọi là vô ngã hay ngã cũng được, vì gọi gì cũng là tạm gọi; nhưng gọi 
vô thường và vô ngã sẽ cận nghĩa nhất. Hình ảnh các pháp chảy xiết như điểm tiếp 
giáp của hạt đậu nhỏ trên đầu mũi kim là bất khả ngôn thuyết, không lời nào nói 
được. 
Hãy thử hình dung rằng chúng 
ta đang thấy, đang nghe, đang biết, đang cảm thọ toàn bộ thân tâm và thế giới 
đang chảy xiết trong thời gian như hạt đậu nhỏ lơ lửng trên đầu mũi kim. Thử 
nhìn trước mắt các pháp như thế, sẽ thấy hiện lên bài Bát-nhã Tâm kinh: 
không gọi được pháp nào là có, không gọi được pháp nào là không, và sẽ hiểu 
tường tận rất nhiều bản kinh Phật, đặc biệt là hệ Bát-nhã. Sau khi đọc, quán 
sát, nghiền ngẫm, cảm thọ bài thơ trên của ngài Xá Lợi Phất, sẽ dễ dàng hiểu 
từng dòng kinh Kim cang. 
Nhiều thế kỷ sau Đức Phật, 
ngài Long Thọ ra đời và mô tả rằng các pháp như thế đã hiện ra trước mắt chúng 
ta qua 2 sự thực: chân đế và tục đế.
Nghĩa là, tất cả những gì 
chúng ta nhìn về thế giới này đều qua bức màn không thực, dệt lên bằng ý thức. 
Chúng ta nói trước mắt là người, là cây, là núi, là sông… nhưng thực sự đó là 
khái niệm hóa gọi là người, là cây, là núi, là sông… Trong khi đó, các bậc Thánh 
ngoài cặp mắt khái niệm hóa đời thường, còn nhìn qua cặp mắt soi chiếu 5 uần: 
tất cả chỉ là các uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) đang trôi chảy xiết trên đầu mũi 
kim.
Trong hình ảnh chảy xiết đó, 
không thể có cái gì gọi là quá khứ, vị lai, hiện tại. Ba thời này chỉ là khái 
niệm hóa. Và hễ mở miệng về bất kỳ pháp nào, đều sẽ là các khái niệm hóa do 
chúng ta thêu dệt lên, và chúng ta không còn sống được trong cái hiện tiền nữa. 
Đây cũng là lý do mà các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam ưa nói: Hễ mở miệng là 
trật rồi.
Trong kinh Tương ưng (23.2)
(8), Đức Phật dạy rằng phải đập 
cho tan vỡ, phải đập cho văng tứ tán, phải đập cho không còn gì hết ngũ uẩn sắc 
thọ tưởng hành thức (smashing, scattering, & demolishing form (etc.) and 
making it unfit for play) mới thấy được Niết-bàn. Đó là ngôn ngữ Bát-nhã 
Tâm kinh vậy.
Đó cũng là ngôn ngữ Trung 
quán của ngài Long Thọ. Đọc kỹ bài thơ của ngài Xá Lợi Phất đã dịch trên, 
chúng ta sẽ thấy ngài Long Thọ diễn lại chính xác cái nhìn chảy xiết qua đầu mũi 
kim đó qua bài kệ:
Bất sinh diệc bất diệt. 
Bất thường diệc bất đoạn. Bất nhất diệc bất dị. Bất lai diệc bất khứ. 
Dịch: Không sinh cũng 
không diệt. Không thường cũng không đoạn. Không một cũng không khác. Không đến 
cũng không đi.
Đây là pháp đốn ngộ. Ngay khi 
thấy tức khắc thực tướng vô tướng, tất cả sắc thọ tưởng hành thức gần như tê 
liệt, và rồi cả năm uần đều sẽ từ từ mất sức mạnh. Và đó là pháp Ngộ trước tu 
sau.
Thiền Tổ Sư nhấn mạnh về ngộ, 
nhằm gỡ bỏ bức màn khái niệm hóa do tâm thức nhiều đời phủ lên thực tướng. Đó là 
những trường hợp trực nhận thực tướng vô tướng qua thấy nghe hay biết, nhưng khi 
kể lại bằng chữ viết qua nhiều đời sau, chúng ta đọc và ngỡ là bí hiểm. Như ngài 
Hương Nghiêm Trí Nhàn đại ngộ khi nghe tiếng viên sỏi văng vào cây trúc, chứ 
không phải là do suy luận gì. Hay như khi ngài Long Đàm thổi tắt nến, ngài Đức 
Sơn liền ngộ tức khắc, và hiểu hết ý chỉ của kinh điển. Đó là từ tai, từ mắt mà 
vào, và thấy ngay trong dòng chảy xiết vô thường của các uẩn, có một Niết-bàn tự 
tâm có thể cảm nhận qua tai, qua mắt – mà không phải qua mài giũa gì hết. Đó là 
như trong kinh Bahiya, khi Đức Phật dạy ngài Bahiya rằng hãy để cái 
được thấy sẽ chỉ là cái được thấy, cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe… và 
chúng ta thấy kết quả là: ngài Bahiya đốn nhập Niết-bàn.
Đó cũng là lý do Thiền tông 
nói là pháp này nằm ngoài chữ nghĩa kinh điển, chỉ là muốn nói là phải thấy, 
phải nghe tức khắc cái Niết-bàn tự tâm, chứ không phải từ gạn lọc chữ nghĩa.
*
Pháp định của thực tướng vô 
tướng được Đức Phật nói nhiều lần trong nhiều kinh.
Kinh Pháp cú, kệ 92 
viết rằng: Bậc A-la-hán có một đối tượng là giải thoát ra khỏi cõi 
sinh tồn này, tức là, Niết-bàn vốn là không và vô tướng. Nơi đến của họ, y hệt 
như chim bay trên bầu trời, không thể dò ra dấu vết (…They have as their 
object liberation from existence, that is, Nibbana which is Void and Signless. 
Their destination, like the course of birds in the air, cannot be traced).
Trong Trưởng lão Tăng kệ 
(1.92), có viết: 
“Với bậc đã có phiền não 
khô cạn, bậc không còn gắn bó vào thực phẩm, 
nơi an trú là sự giải thoát của vô tướng và của rỗng rang không tánh: Lối đi của 
họ khó dò nổi, y hệt chim trên bầu trời.” 
(9) 
Chữ “thực phẩm” trong đoạn 
trích dẫn trên còn có ý nhắc lời Đức Phật dạy trong kinh Tăng chi bộ (10.27 và 
12.64) rằng không cần tu gì hết, chỉ cần xa lìa thức ăn sinh tử luân hồi 
(10) là xong.
Kinh Phật nói rằng các 
pháp tự thân vốn xa lìa phiền não. Chỉ vì duyên vào nhau, dục tham khởi lên, 
mới bị trói buộc. Nghĩa là, nếu cảm nhận các pháp đang chảy xiết trong sắc thọ 
tưởng hành thức, tức khắc sẽ không có gì để duyên vào nhau mà trói buộc nữa. Như 
thế, nếu thấy các pháp chỉ là dòng chảy xiết trên đầu mũi kim.
Thiền Tông Việt Nam có gì 
liên hệ tới bài thơ của ngài Xá Lợi Phất? Thưa rằng chúng ta sẽ gặp lại gần như 
y hệt và sẽ hiểu tận tường bài kệ của ngài Tuệ Trung thượng sĩ (khi thấy dòng 
chảy xiết vô thường trên đầu mũi kim): 
Bản lai vô cấu tịnh; Cấu 
tịnh tổng hư danh. Pháp thân vô quái ngại; Hà trược phục hà thanh.
Dịch: Trước giờ vẫn không 
hề dơ với sạch; Dơ với sạch toàn là chữ rỗng thôi. Pháp thân không gì ngăn ngại; 
Chi mà đục với chi mà trong.
Trong dòng thơ trên của ngài 
Tuệ Trung, chúng ta gặp chữ “pháp thân” sau khi ngài nói rằng các pháp 
vốn không dơ, không sạch. Chảy xiết như thế, tất nhiên không dơ, không sạch, 
pháp thân hiển nhiên là trung đạo – Pháp thân là thân của Pháp, là thân của trí 
tuệ, vốn xa lìa mọi dơ sạch.
Có phải Đức Phật nói bản 
nhiên các pháp vốn không hề dơ sạch?
Nơi phần trên, chúng ta có 
nói về pháp đối trị 5 tưởng, khi mắt nhìn thấy hình dáng của người xinh xắn, hay 
khi tai nghe đoạn nhạc du dương… nhưng tới kinh Tương ưng (41.1), Đức Phật dạy 
rằng giữa tâm với cảnh nguyên khởi không gì trói buộc nhau, vì mắt không phải là 
trói buộc của sắc, và sắc không phải là trói buộc của mắt, tương tự với tai… 
Nghĩa là, tự thân, các pháp vốn xa lìa mọi trói buộc, mọi dơ sạch. Chỉ vì 
chúng ta khởi tâm linh tinh, mới có phiền não.
Trích bản dịch kinh Tương ưng 
(41.1) của HT. Thích Minh Châu:
“…con mắt không phải là 
trói buộc của các sắc; các sắc không phải là trói buộc của con mắt. Và ở đây, do 
duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc. Cái tai 
không phải là trói buộc của các tiếng… Mũi không phải là trói buộc của các 
hương… Lưỡi không phải là trói buộc của các vị… Thân không phải là trói buộc của 
các xúc… Ý không phải là trói buộc của các pháp. Các pháp cũng không phải là 
trói buộc của ý.” 
[Nối kết bản Việt và Anh ở (11)]
Vì vậy, còn nói rằng trước 
hết là cần chứng ngộ được Pháp thân, mới tức khắc biết cách để tâm vào nơi không 
dơ, không sạch, không vướng vào bất cứ những gì của quá-hiện-vị lai.
*
Như vậy, một cách phổ biến, 
Thiền tông truyền dạy như thế nào? 
Hiện nay, Thiền tông phổ biến 
ở Hoa Kỳ là Tào Động (Soto Zen). 
Thiền sư Thánh Nghiêm 
(1930-2009) giải thích về một pháp có tên là Mặc chiếu thiền của Tào Động tông, 
qua lời cao đồ là Guo Gu nói trên tạp chí Lion's Roar ngày 12 tháng 8-2016, dịch 
như sau:
“Cách toàn hảo để thực tập 
mặc chiếu là ngồi mà không dựa vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay ý. Bạn ngồi mà 
không trụ vào bất cứ nơi nào, không nghĩ tưởng bất cứ gì, cũng không rơi vào hôn 
trầm. Bạn không nhập định, cũng không để cho khởi niệm tán loạn. Trong khoảnh 
khắc này, tâm là như thị - tỉnh giác và lặng lẽ, tỏ tường và không ảo giác.”
(12)
Trong đoạn dẫn trên có nói là 
“không nhập định” – chỉ đơn giản vì Thiền tông là pháp đốn ngộ, thấy ngay 
tức khắc không hề xa lìa tự tánh định, nơi không hề có xuất định và nhập định. 
Vì hễ nghĩ ngợi, là hạt đậu sẽ rơi khỏi đầu mũi kim.
Có một phương pháp khác, có 
thể sẽ thích nghi với nhiều người: dựa vào kinh Lăng nghiêm. 
Trước tiên, nên tập khi ngồi. 
Cách ngồi khó nhất là kiết già, rồi tới bán già; cách dễ hơn là ngồi kiểu Miến 
Điện (xem hình ngồi qua 
https://images.google.com/  
với nhóm chữ “Burmese posture”); hay chỉ đơn giản ngồi trên ghế, áp sát hai bàn 
chân trên mặt đất. Khi quen thuộc rồi, nên tập trong mọi thời đi đứng nằm ngồi.
“Hoặc mở mắt lim dim hướng 
tới đầu chóp mũi, hoặc nhắm mắt nhẹ nhàng. Hít thở nhẹ nhàng. Không nghĩ ngợi 
chút gì. Sau nhiều hơi thở nhẹ nhàng, hãy bắt đầu lắng nghe, chỉ đơn giản 
lắng nghe cái khoảnh khắc đang trôi chảy. Không phải nghe âm thanh bên 
trong, không phải nghe âm thanh bên ngoài. Chỉ đơn giản lắng nghe, là lắng nghe. 
Có tiếng cũng mặc, không tiếng cũng mặc. Chỉ lắng nghe, không phải nghe bằng hai 
tai, mà là như dường nghe bằng toàn thân. Chỉ nghe là nghe. Lặng lẽ, tỉnh giác, 
lắng nghe, không để chệch một khoảnh khắc nào”. 
Thiền tập như thế, trong vài 
phút đồng hồ, sẽ chứng nghiệm tất cả kinh điển. Trong cái lắng nghe, đó là vô 
thường, vì âm thanh trôi đi, không gì níu được. Hễ khởi tâm nghĩ ngợi, lập tức 
mất đi cái lắng nghe đang trôi chảy. Trong cái lắng nghe, đó là vô ngã, vì không 
hề có bất kỳ một pháp nào thoát khỏi dòng chảy xiết của âm thanh. Trong cái lắng 
nghe, không hề có cái gì gọi là “tôi” và “cái của tôi” vì dòng chảy xiết của âm 
thanh cuốn phăng hết cả 5 uẩn sắc thọ tưởng hành thức. Trong cái lắng nghe, nhân 
và quả hiện ra như là đồng thời, nhân duyên sinh và nhân duyên diệt như là đồng 
thời, nên còn gọi là không hề có sinh, và không hề có diệt. Trong cái lắng nghe, 
Tứ Thánh đế tức khắc hiện ra, bất như ý và an lạc đồng thời hiện ra, nơi đó khổ 
và diệt khổ là một (và cũng là không), và do vậy phiền não tức thời là Niết-bàn, 
sóng là nước và nước là sóng (cũng nghiệm ra Trung quán của ngài Long 
Thọ: Thị cố tri Niết-bàn, phi hữu diệc phi vô; như thế, biết rằng Niết-bàn không 
phải có và cũng không phải không). Trong cái lắng nghe, cũng sẽ nhận ra các diệu 
lý trong kinh Duy Ma Cật và kinh Giải thâm mật: thắng nghĩa bất 
nhị (không hai) nhưng cũng không gọi là một, và hoàn toàn xa lìa ngôn thuyết.
Khi ngồi lắng nghe như thế, 
có thể trong vài phút đồng hồ, sẽ thấy an lạc toàn thân, đầu mình và tay chân 
như tắm trong hồ nước mát. Pháp này còn gọi là không có gì để tu, vì hễ nghĩ 
ngợi hay mở miệng là xa lìa cái lắng nghe rồi. Phật tánh nơi đây sẽ hiển lộ 
trong cái toàn thể, không gọi là trong hay ngoài. Trong pháp lắng nghe này, nếu 
chỉ lắng nghe bằng toàn thân xương cốt thịt da, đó là Tào Động tông; nếu khởi 
lên chữ “Ai”, lập tức pháp lắng nghe trở thành phương tiện của Lâm Tế tông. 
Nhưng chớ nên nghĩ là phải mài giũa gì, vì khi lắng nghe cái khoảnh khắc chảy 
xiết đó, bạn sẽ hiểu hết tất cả kinh điển trên toàn thân xương cốt da thịt của 
mình. Đó cũng là lời Đức Phật dạy ngài Bahiya, rằng trong cái được nghe sẽ chỉ 
là cái được nghe. Bất kỳ ai cũng có thể tập được pháp nghe của kinh Lăng 
nghiêm, và sẽ thấy trong vài phút đồng hồ, hiểu ngay tất cả mọi kinh điển, 
khi cảm nhận các pháp ấn cụ thể, rõ ràng, minh bạch… không gì mơ hồ. Và sẽ hạnh 
phúc vô cùng tận.
GHI CHÚ:
(1)
Kinh Trung bộ, số 70: 
https://suttacentral.net/vn/mn70
(2)
Liberation - Relevance of Sutta-Vinaya: 
http://www.budsas.org/ebud/ebdha163.htm
(3)
Kinh Tăng chi bộ (5.28), bản dịch của HT Minh Châu: 
https://suttacentral.net/vn/an5.28
(4)
Kinh Tương ưng
https://suttacentral.net/vn/sn46.64
(5)
Instruction for Entering Jhana: 
http://www.leighb.com/jhana3.htm
(6) 
Kinh Tăng chi bộ (4.41): 
https://suttacentral.net/vn/an4.41
(7)
Guhatthaka-suttaniddeso: 
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/nm/nm.2.04.olen.html
(8) 
Kinh Tương ưng bộ (23.2): 
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn23/sn23.002.than.html
(9)
TLTK (1.92): The one whose defilements are dried up, Who’s not 
attached to food, Whose resort is the liberation, That is signless and empty: 
Their track is hard to trace, Like that of birds in the sky. Xem: 
https://suttacentral.net/en/thag1.92
(10)
Pháp môn Định 
vô tướng: 
https://thuvienhoasen.org/a28189/phap-mon-dinh-vo-tuong
(11) 
Kinh Tương ưng bộ (41.1), bản Việt dịch: 
https://suttacentral.net/vn/sn41.1
Bản Anh dịch của Ni trưởng 
Uppalavanna: …the eye is not the bond of forms and forms are not the bond of the 
eye, yet the interest and greed that arise on account of these two is the bond 
there. The ear is not the bond of sounds and sounds are not the bond of the ear, 
yet the interest and greed that arise on account of these two is the bond 
there... 
http://awake.kiev.ua/dhamma/tipitaka/2Sutta-Pitaka/3Samyutta-Nikaya/Samyutta4/40-Citta-Samyutta/01-Cittavaggo-e.html
(12) 
Bài kinh Tuấn mã: 
https://thuvienhoasen.org/a25964/bai-kinh-tuan-ma-va-thien-tong