Ghi nhận về hình tượng chó trong tác phẩm Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh
ghi nhan
Ghi nhận về hình tượng chó trong tác
phẩm Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh
Đào Nguyên
Có thể nói Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715) là tác phẩm văn học đã dành số lượng
trang nhiều nhất để viết về loài chó (chó thường và chó sói): hoặc là chó đang
sống trong hiện đời, hoặc là chó trong quá trình đầu thai hóa kiếp. Đó là các
truyện:
-
Truyện Chó săn nhỏ: truyện số 84 trong tổng số 431 truyện của Liêu trai chí dị. Nguyên tác là Tiểu liệp khuyển (xem Liêu trai chí dị trọn bộ, Nguyễn Đức Lân
dịch, Nxb. Văn Học, 2006, tr.335-336).
-
Truyện Ngọn đèn hóa con chó, truyện số 99… Nguyên tác là Khuyển đăng (Sđd, tr.407-409).
-
Truyện Mộng chó sói, truyện số 156… Nguyên tác: Mộng lang (Sđd, tr.690-694).
-
Truyện Mối thù ba kiếp, truyện số 170… Nguyên tác: Tam sinh (Sđd, tr.735-737).
-
Truyện Ba kiếp làm súc vật, truyện số 248… Nguyên tác: Tam sinh (Sđd, tr.981-983).
-
Truyện Chó có nghĩa, truyện số 317… Nguyên tác: Nghĩa khuyển (Sđd, tr.1087-1088).
-
Truyện Chó Sói, truyện số 371. Nguyên tác: Lang (Sđd, tr.1156-1158).
-
Truyện Chó có nghĩa, truyện số 377… Nguyên tác: Nghĩa khuyển (Sđd, tr.1163).
Điều rất nổi bật ở đây
là, cũng như mảng truyện viết về giới Tăng sĩ của Phật giáo(1), mảng
truyện nói về sự việc tụng kinh, niệm Phật và giá trị tâm linh của những sự việc
ấy(2), hầu hết các truyện viết về chó đã nêu dẫn ở trên đều có nội
dung “kín đáo – truyền đạt những đạo lý về nhân quả, nghiệp báo, tái sinh, luân
hồi”(3). Nhân năm 2018 là năm Mậu Tuất, chúng tôi xin giới thiệu về
nội dung của 4 truyện trong số 8 truyện đã nêu (các truyện số 156, 170, 248 và
377). Cũng là nhằm góp phần làm rõ dấu ấn của Phật giáo đã in đậm nơi tác phẩm Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
1- Truyện số 156: Mộng chó sói (Mộng lang)
Ông lão họ Bạch dân miền Trực Lệ, có người con trưởng
là Giáp làm quan ở miền Nam đã ba năm, vì đường sá xa xôi nên chẳng biết tin tức.
Vừa hay có người bà con xa họ Đinh tới chơi. Lâu ngày mới gặp, ông thiết đãi tử
tế. Đinh vốn là tín đồ đạo Phật, trong lúc chuyện trò, ông hỏi về việc nơi Âm
ty. Đinh trả lời nhiều câu huyền ảo, nên ông cũng không tin lắm, chỉ cười mỉm.
Đinh đi rồi, vài ngày sau, ông đang nằm ngủ, thấy Đinh
trở lại rủ đi chơi, ông liền đi theo. Vào một nơi chốn có thành quách, Đinh chỉ
về một cánh cửa, bảo: - Đây là nhà người cháu của cụ! Bấy giờ, đứa cháu con bà
chị ruột của ông, đang làm quan lệnh đất Tấn, ông lấy làm ngờ, hỏi: - Sao nó lại
ở đây được? Định nói: - Không tin, cụ cứ vào sẽ biết!
Ông vào, quả nhiên thấy cháu mình đội mũ cánh chuồn,
giải trĩ (mũ áo quan Ngự Sử) ngồi nghiêm chỉnh nơi công đường, cờ quạt, kiếm
kích bày la liệt. Vì không có người thông tin tức, Đinh lại kéo ông ra, bảo: -
Dinh thự của công tử cũng ở gần đây, cụ có muốn vào thăm không?
Ông nhận lời. Một lát, tới một dinh thự, Đinh nói: - Cụ
vào đi. Nhìn ở chỗ cửa, thấy một con chó sói rất lớn nằm chắn lối. Ông cả sợ,
không dám tiến bước. Đinh giục: - Cụ cứ vào đi! Qua một lần cửa nữa, thấy ngổn
ngang khắp nhà trên nhà dưới toàn là một lũ sói. Lại nhìn trên công đường,
xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ. Đinh đưa mình chắn đỡ cho ông để
cùng tiến vào. Công tử Giáp vừa từ trong nhà bước ra, thấy cha đi cùng với
Đinh, thì lộ vẻ mừng rỡ. Vừa ngồi, liền gọi người nhà dọn rượu thịt. Bỗng thấy
một con sói to lớn ngậm một người, đi vào. Ông giật nẩy mình, đứng dậy hỏi: -
Làm cái gì thế này?
Giáp nói: - Để đưa đầu bếp làm thức nhấm!
Ông vội ngăn lại, tim đập thùm thụp, cáo từ định về,
nhưng bị đàn sói ngăn trở, không biết nên đi hay ở. Bỗng thấy đàn sói kêu rống,
tranh nhau chạy trốn, con chui gầm bàn, con chui gầm giường. Ông kinh ngạc
không hiểu có chuyện gì. Giây lát, có hai mãnh sĩ mặc áo giáp vàng, mắt trợn trừng
đi vào, lấy ra sợi dây đen trói Giáp lại. Giáp ngã lăn ra đất biến thành con cọp,
hàm răng tua tủa. Một người rút gươm định chặt đầu cọp. Người kia bảo: - Ấy
thôi! Đợi đến tháng tư sang năm hãy hay. Nay cứ tạm ghè gãy hàm răng của nó đi
cũng được! Bèn rút ra một chiếc búa lớn bổ mạnh vào hàm răng cọp. Răng rụng lả
tả, cọp kêu rống lên, chuyển động cả núi non.
Ông sợ quá, giật mình tỉnh dậy, thì là một giấc mộng,
trong lòng lấy làm lạ. Cho người mời Đinh, Đinh từ chối không đến. Ông ghi nhớ
giấc mộng, sai con thứ tới thăm Giáp, đưa thư khuyên răn tha thiết. Người em tới
nơi, thấy đám răng cửa của anh rụng hết sạch, kinh hãi, hỏi tại sao. Thì ra
Giáp say rượu ngã ngựa, bị gãy răng. Xét ngày tháng thì đúng vào hôm cha nằm mộng,
lại càng hãi, lấy thư của cha đưa ra. Giáp đọc thư, mặt biến sắc. Một lát, nói:
- Đó là ảo mộng, bỗng nhiên mà phù hợp, chứ có lạ gì! Bấy giờ, Giáp đang hối lộ
quan trên, được quan yêu mến, tiến cử, nên không lấy chuyện mộng mị đáng để
tâm. Người em ở chơi mấy ngày, thấy đám sai dịch đầy nhà, người chạy chọt đút
lót, nửa đêm chưa hết ra vào. Em khóc lóc khuyên can. Giáp nói: - Em ở chốn quê
mùa, không biết chỗ ngoắt ngoéo của con đường làm quan. Quyền bãi truất là của
quan trên, chứ chẳng phải ở đám dân bách tính. Quan trên vui thì mình là ông
quan tốt. Mình yêu dân thì làm cách nào cho quan trên vui lòng?
Người em biết không thể khuyên can, bèn về, thưa hết
cho cha hay. Ông nghe được, khóc lớn, mà không biết làm sao, đành bỏ của trong
nhà ra cứu giúp kẻ nghèo khó, hàng ngày khấn vái thần linh, chỉ xin quả báo
giáng vào thằng nghịch tử, mà tha cho vợ con nó.
Năm sau, có tin Giáp được tiến cử làm chức Lại Đô, người
ta kéo tới mừng chật nhà, riêng Bạch ông thì rầu rĩ, nằm bẹp một chỗ không ra
tiếp khách.
Không bao lâu, nghe tin con về thăm nhà, giữa đường gặp
giặc cướp, tớ thầy đều tán mạng, ông mới trở dậy bảo mọi người rằng: - Quỷ thần
nổi giận chỉ trút lên một thân nó, ơn trên phù hộ gia đình nhà ta không thể nói
là không trọng hậu! Bèn thắp hương lễ tạ. Người ta an ủi ông rằng đó chỉ là tin
đồn đại giữa đường, nhưng ông tin lắm, chẳng chút nghi ngờ, ngay hôm ấy cho lập
bàn thờ con.
Nhưng thực ra Giáp chưa chết. Nguyên là tháng tư năm ấy,
Giáp giải nhiệm, vừa rời khỏi địa giới của nhiệm sở cũ thì gặp cướp. Giáp dốc
túi dâng chúng, thì bọn cướp bảo: - Việc chúng ta làm đây là làm vì dân cả một ấp,
để giải nỗi oan phẫn, chứ bọn ta có phải chuyên nghề bóc lột này đâu! Nói rồi,
bèn chặt đầu Giáp. Lại hỏi đám gia nhân xem Tư Đại Thành là ai. Tư vốn là kẻ
tâm phúc của Giáp giúp quan hung bạo làm ác. Gia nhân chỉ cho, bọn cướp lại
chém luôn. Lần lượt bốn chức dịch sâu mọt là tay chân của Giáp, được Giáp mang
theo về kinh, đều bị giết sạch, xong rồi, chúng mới chia nhau tiền bạc, dong ngựa
trốn đi.
Hồn của Giáp còn đang quanh quẩn bên đường, chợt có một
vị quan Tể đi qua, hỏi: - Người bị giết là ai vậy? Quân hầu đi trước dẹp đường
thưa: - Đó là viên Tri huyện Mỗ họ Bạch.
Quan Tể nói: - Nó là con trai của Bạch ông. Không nên
để ông lão phải thấy cảnh kinh hãi đó. Ta nên ghép đầu nó lại.
Liền có người nhặt đầu của Giáp đặt trên cổ và nói: -
Người gian tà không nên để cho ngay ngắn. Cứ đặt cái đầu cho sát hai vai là được.
Xong việc thì ra đi. Hồi lâu, Giáp sống lại. Vợ con của
Giáp đi lượm xác, thấy còn hơi thở, bèn vực lên xe chở về. Nhẹ nhàng đổ nước
cho uống, cũng uống được. Nhưng từ đấy sống gửi nơi quê người, nghèo túng không
về được quê. Nửa năm sau, Bạch ông mới hay tin đích xác, sai đứa con thứ tới
đưa về.
Giáp tuy được sống lại, nhưng mắt nhìn xuống bụng, chẳng
còn ra vẻ con người nữa!
Thằng cháu gọi Bạch ông bằng cậu, việc hành chính giỏi
giang, cùng năm ấy được thăng Ngự Sử, đúng như giấc mộng (Dẫn theo Liêu trai chí dị trọn bộ, Nguyễn Đức Lân dịch, Nxb. Văn Học, 2006, tr.690-694).
·
Lời bàn của Dị Sử Thị(4):
Xin trộm phép than rằng: Cái giống quan hùm lại sói,
trong thiên hạ thật nhan nhản, không phải là hiếm. Nếu may mà quan không là hùm
thì lại cũng đều là sói. Huống hồ còn có những ông quan dữ hơn hùm. Ôi! Con người
ta ở đời chỉ lo không trông được suốt về đàng sau. Ấy thế mà viên Tri huyện họ
Bạch được sống lại để chịu cái tội lúc nào cũng phải trông thấy hai vai đàng
sau mà nghe lời quỷ thần, thật là mầu nhiệm lắm vậy! (Dẫn theo Liêu trai chí dị I, Nguyễn Hoạt dịch, Cơ
sở Xuất bản Tự do, S, 1960, tr.45).
2
– Truyện số 170: Mối thù ba kiếp(5)
Đất Hồ Nam có một người nhớ được những chuyện từ ba
kiếp trước. Một kiếp Mỗ làm Lệnh Doãn, được cử đi chấm kỳ thi Hương. Có danh sĩ
Hưng Ô Đường bị đánh rớt, phẫn chí tự tử chết. Xuống Âm ty, Hưng liền mang văn
bài kiện với Diêm vương. Đơn kiện vừa đưa, thì đám Ma cùng bệnh có cả ngàn vạn
tên liền tôn Hưng làm đầu, tụ họp thành đảng rất đông. Mỗ bị bắt xuống cùng
Hưng đối chất. Diêm vương mới hỏi: - Mày được quyền cân nhắc văn chương, cớ sao
lại đánh hỏng học trò giỏi mà tiến cử kẻ phàm phu?
Mỗ cãi rằng: - Trên còn có quan Tổng Tài, tôi chẳng
qua chỉ là kẻ thừa hành thôi.
Diêm vương liền vất thẻ bài, sai đi bắt quan Chánh
chủ khảo. Hồi lâu, bắt về, Diêm vương thuật lại lời của Mỗ. Quan Chủ khảo thưa:
- Tôi chẳng qua chỉ duyệt lại những bài đã chấm mà thôi. Tuy có bài hay nhưng
các giám khảo không đưa lên, làm sao tôi biết cho được!
Diêm vương phán: - Việc này không thể người nọ đổ
cho người kia. Cả hai đều thiếu bổn phận như nhau. Phải đánh đòn cả hai. Hình
phạt sắp thi hành, Hưng không vừa ý, lại kêu gào thảm thiết. Đám quỷ ở hai bên
thềm đồng loạt gào theo. Diêm vương hỏi tại sao? Hưng phản kháng rằng: - Hình
phạt nhẹ quá! Phải khoét hai con mắt để trị tội không biết văn chương, như thế
mới vừa.
Diêm vương không chịu, đám quỷ càng gào to thêm.
Diêm vương nói: - Không phải là nó không muốn đọc
văn hay, mà vì sức hiểu biết của nó hẹp hòi đấy thôi!
Đám quỷ lại xin mổ bụng moi tim. Diêm vương bất đắc
dĩ phải sai lột mũ áo của hai người, lấy dao sắc mổ bụng. Máu chảy lênh láng,
hai người rên la thảm não. Đám quỷ khoái quá đều nói: - Bọn ta uất ức dưới suối
vàng đã lâu, chưa được ai giải uất cho. Nay gặp được Hưng tiên sinh, bao nhiêu
oán khí đã tiêu hết. Đoạn rồi ồn ào giải tán.
Mỗ bị mổ bụng rồi thì được Quỷ sứ áp giải đi Thiểm
Tây làm con của một người dân thường. Năm ngoài 20 tuổi, gặp lúc giặc cướp địa
phương nổi loạn, bị chúng bắt đi. Sau đấy thì Tuần binh kéo tới dẹp giặc, bắt
được tù binh rất nhiều. Mỗ cũng ở trong đám ấy, nhưng nghĩ mình không phải là
giặc thật, hy vọng sẽ được tha. Đến khi nhìn thấy viên quan ngồi trên, tuổi
cũng chỉ mới ngoài đôi mươi, thì chính là Hưng vậy, bèn kinh hãi than rằng: - Đời
ta tàn rồi!
Thế rồi, bao nhiêu tù binh được tha hết, riêng Mỗ tới
sau cùng. Quan chẳng để cho cãi, đem ra chém liền.
Mỗ xuống Âm ty đưa đơn kiện Hưng. Diêm vương không
cho bắt ngay mà đợi hết tuổi thọ mới bắt. Đằng đẳng hơn 30 năm, Hưng mới đến,
cùng Mỗ đối chất. Hưng vì tội coi rẻ mạng người, phải phạt làm súc vật. Tính lại
việc làm của Mỗ lúc còn sống, thấy hắn từng đánh đập cha mẹ, nên phạt tội ngang
với Hưng. Mỗ sợ kiếp sau (kiếp thứ 3) Hưng lại báo thù, nên xin cho được làm giống
vật to lớn. Diêm vương chuẩn y, phán cho Mỗ làm giống chó to, còn Hưng thì làm
giống chó nhỏ.
Mỗ sinh ra làm chó, trong một cửa tiệm giữa chợ, ở
phía Bắc phủ Thuận Thiên. Một hôm, nằm ở đầu ngõ, bỗng thấy có người khách từ
Nam Trung tới, dắt theo một con chó lông vàng, nhỏ bằng con chồn. Mỗ nhìn xem kỹ,
thì chính là Hưng. Thấy hắn bé nhỏ, xem thường nên Mỗ xông vào cắn ngay. Con
chó nhỏ liền ngoạm lấy cổ con chó lớn, day nát như cưa. Chó lớn vùng vẫy, kêu
ăng ẳng muốn trốn. Người trong chợ xúm vào can ra cũng không được. Giây lát, cả
hai con chó cùng chết, và cùng xuống Âm ty, cùng gân miệng cãi.
Diêm vương phán bảo: - Oan oan tương báo đến bao giờ
mới thôi! Ta phải giải cái thù này mới được! Bèn phán cho Hưng kiếp sau làm con
rể của Mỗ.
Mỗ sinh ra, tên là Khánh Vân. Năm 28 tuổi đậu kỳ thi
Hương, đẻ được một gái xinh đẹp, mỹ miều, các nhà thế tộc tranh nhau tới hỏi, Mỗ
đều không nhận. Một hôm, Mỗ qua quận bên chơi gặp lúc quan Học sử đang trả bài
thi cho học trò. Quyển đứng đầu là của một người họ Lý, nhưng chính thực là
Hưng. Mỗ bèn mời Lý ra chơi nhà trọ, đối đãi tử tế. Hỏi thăm gia cảnh, thì hắn
chưa vợ, bèn hứa gả con gái cho. Ai cũng bảo Mỗ có bụng lân tài, chứ có biết
đâu là nhân quả kiếp trước. Thế rồi, Lý cưới vợ về, vợ chồng hợp nhau rất là
vui vẻ. Nhưng chàng rể thường ỷ tài, khinh rẻ ông nhạc, lắm khi suốt năm không
tới chơi nhà, nhưng ông cũng nhịn.
Về sau, chàng rể đã nửa đời người còn lận đận, khổ về
đường sinh kế. Ông nhiều lần lo liệu cho, mới được đắc chí nơi chốn trường thi.
Từ đó, chàng rể, cha vợ thân thiết nhau như cha con một nhà.
(Dẫn theo Liêu
trai chí dị trọn bộ, Nguyễn Đức Lân dịch, Sđd, tr.735-737).
·
Lời bàn của Dị Sử Thị:
Một lần bị đánh hỏng trong kỳ thi Hương, mà ba kiếp
không giải được mối oán thù, cái oán độc hại đến thế ư! Về cách xử trí của Diêm
vương kể cũng hay, nhưng dưới bệ có ngàn vạn hồn ma ồn ào nhiễu loạn, khiến cho
chúng ta thấy rằng, trong thiên hạ, tấm lòng của bố vợ yêu thương con rể, chẳng
qua chỉ là do những tiếng kêu đau thương bi thảm ở dưới Âm ty đó mà thôi. Cái ý
châm biếm, mỉa mai kể ra có phần quá khắc nghiệt, nhưng những bậc quân tử tất
cũng nên lấy đó làm gương.
(Dẫn theo Liêu
trai chí dị I, Nguyễn Hoạt dịch, Sđd, tr.206).
·
Chúng tôi nơi bài viết: “Một số ghi nhận
và đề xuất…” đăng trên Nguyệt san Giác Ngộ số 244, tháng 7-2016, cũng đã nói
qua về Phật lý được kín đáo truyền đạt trong truyện này. Ở đây xin được nhắc lại:
Đó chính là vấn đề đầu thai chuyển kiếp, luân hồi của chúng sinh nơi sáu đường.
Nếu cứ nối kết theo oán thù thì thật là đáng sợ, hay nói như nhân vật Diêm
vương trong truyện: “Oan oan tương báo đến bao giờ mới thôi!”. Do đấy, chỉ sống
với tình thân ái, tạo được mối tương quan thân ái, thì con người mới có thể sống
gần nhau, cùng giúp đỡ nhau tiến tới, hướng thượng để có được hạnh phúc và đạt
đến giác ngộ giải thoát. Tham khảo kinh Pháp
cú: “Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi mới
trừ được hận thù. Đó là định luật ngàn thu”. (Bđd, tr.93).
2- Truyện
số 248: Ba kiếp làm súc vật
Ông Hiếu Liêm họ Lưu nhớ được các chuyện về kiếp trước
của mình. Ông với anh Văn Bí nhà tôi là bạn cùng tuổi. Ông thường kể rõ rằng: Một
kiếp được làm quan, làm nhiều điều trái lẽ, nhưng đến năm 62 tuổi mới mất. Lúc
mới gặp Diêm vương, ngài tiếp đãi tử tế như các vị quan chức, mời ngồi và cho uống
trà. Nhìn trà nơi chén của Diêm vương thấy xanh và trong suốt, còn chén của
mình thì đục lờ lờ như keo, mới nghĩ thầm: Thuốc mê hồn thang hẳn là nước này
đây! Thừa lúc Diêm vương quay đi chỗ khác, mới cầm chén tựa vào góc bàn, đổ đi,
giả vờ như đã uống hết. Giây lát, kể tới tội ác đã làm khi còn sống, Diêm vương
nổi giận sai quỷ sứ lôi xuống, bắt tội làm ngựa. Liền có quỷ sứ coi chuồng ngựa
tới trói lôi đi đến một nhà kia, bực cửa rất cao, không thể nhảy qua, đang lung
túng thì bị quỷ sứ ra sức đánh đập, đau quá ngã lăn ra. Nhìn lại thì thân đã ở
trong chuồng ngựa. Có tiếng người nói: - Ngựa cái vừa đẻ. Con đực!
Trong lòng rất sáng suốt, chỉ không nói được mà
thôi. Thấy bụng đói mèm, bất đắc dĩ phải ghé bên mẹ tìm bú.
Qua bốn năm năm, thân thể to lớn mà rất sợ roi vọt.
Thấy roi liền sợ hãi chạy đi. Mỗi khi chủ nhân cưỡi, đều đóng yên cương tử tế,
và buông lỏng dây cương, đi từ từ, nên cũng không khổ lắm. Nhưng đám đầy tớ cưỡi
thì chúng không cần đến yên cương, cứ thúc gót giày vào hai bên sườn, đau thấu
tim gan. Vì thế, rất uất hận, bỏ ăn ba ngày, liền chết.
Tới Âm ty, Diêm vương tra sổ, thấy tội chưa mãn,
trách sao trốn nợ, bèn sai lột da, bắt làm chó. Uất ức, rầu rĩ, không muốn đi,
đám quỷ liền vụt túi bụi, đau quá, trốn ra ngoài đồng, nghĩ chẳng thà chết
quách cho rồi! Giận dữ, đâm đầu vào tường, liền ngã vật ra không dậy được. Nhìn
lại thì thân mình đã nằm trong cũi chó, và chó mẹ đang liếm những chỗ đau kia.
Mới hay thân mình lại sinh ra ở đời.
Dần dà lớn lên, thấy cứt đái cũng biết là dơ, mà ngửi
lại thấy thơm. Tuy nhiên, đứng ngẫm nghĩ một hồi, rồi cũng không ăn. Làm chó được
một năm, thường phẫn uất muốn chết. Lại sợ tội trốn nợ, mà chủ nhân cứ nuôi
mãi, không nở giết, bèn cắn vào đùi của chủ, rơi hẳn một miếng thịt. Chủ nhân
giận, vác gậy đập chết. Diêm vương xét tội, giận là chó điên, đánh cho mấy trăm
roi, bắt phải làm rắn.
Bị giam trong ngục tối, chẳng thấy ánh mặt trời, phiền
muộn quá, mới trèo tường, leo lên mái nhà, đục lỗ chui ra. Quay nhìn lại thì
thân mình đang nằm trong đám cỏ rậm, rõ ràng là rắn. Bèn lập lời thề rằng không
giết hại sinh vật. Có đói thì ăn cây ăn quả mà thôi. Được hơn một năm, thường
nghĩ tự tận là không được, hại người để người giết cũng không xong, mới nghĩ
tìm cách gì chết cho lương thiện, mà nghĩ chưa ra. Một hôm, đang ẩn trong đám cỏ,
chợt nghe có tiếng xe chạy qua, vội bò ra chắn lối. Xe đang ruổi mau, cán phải,
đứt làm hai khúc. Diêm vương lấy làm lạ sao tới sớm thế, mới bò ra tự kể chuyện
mình. Diêm vương thương là vô tội mà bị giết, bằng lòng cho được mãn hạn, trở lại
làm người. Ấy là Lưu Công vậy.
Ông sinh ra đã biết nói. Văn chương thư sử xem qua đọc
được liền. Năm Tân Dậu đỗ Hiếu Liêm. Ông thường khuyên người ta có cưỡi ngựa
thì nên đặt yên cho dầy, vì chân mà thúc vào mình ngựa, thì ngựa cảm thấy còn
đau hơn roi vọt nữa.
(Dẫn theo Liêu
trai chí dị trọn bộ, Sđd, tr.981-983).
·
Ghi nhận: Lưu Công là một con người có
trí tuệ. Do vì trong đời làm quan đã gây tạo nhiều nghiệp ác nên phải bị đọa
làm súc vật trong 3 kiếp: làm ngựa, làm chó rồi làm rắn. Nhờ có trí tuệ, nên lần
mới gặp Diêm vương, Lưu Công đã thấy được chỗ khác nhau giữa chén trà của Diêm
vương và chén trà của mình do Diêm vương mời! Lại nhờ có trí tuệ, nên trong ba
kiếp bị đọa làm súc vật, Lưu Công vẫn luôn có ít nhiều tỉnh táo, suy xét, không
hoàn toàn an phận với số kiếp hiện có. Nơi số kiếp làm rắn thì đã lập thệ nguyện
không giết hại sinh vật, đói thì ăn cây cỏ hoa trái mà thôi. Và cũng tìm ra một
cách chết tương đối ổn thỏa để hy vọng thoát kiếp đọa đày, trở lại làm người,
làm người lương thiện, có trí tuệ để hướng thượng. Xin tham khảo kinh Pháp cú:
Đêm dài cho kẻ
thức
Đường dài cho kẻ
mệt
Luân hồi dài, kẻ
ngu
Không biết pháp
chân diệu.(6)
3- Truyện số 377: Chó có nghĩa
Thôn Chu có Cổ Mỗ, đi buôn bán ở Vu Hồ, thu được nhiều
lời, rồi thuê thuyền định về quê. Lại thấy trên bờ đê có một người đồ tể trói một
con chó. Cổ Mỗ bèn trả giá cao mua lấy, đem về nuôi trên thuyền. Gả lái đò vốn
là một tên giặc cướp xưa nay, trông thấy khách ăn mặc ra vẻ giàu có, bèn chèo
thuyền ra quãng vắng, có nhiều cây cỏ um tùm, xách đao định giết. Cổ năn nỉ xin
cho được chết toàn thây, tên cướp bèn nhét vào bao tải, đẩy xuống sông. Con chó
thấy vậy, kêu rít lên rồi nhảy xuống nước, miệng ngậm vào bao tải, cùng nhau
chìm nổi, trôi mãi chẳng biết bao xa, tới chỗ cạn mới ngừng lại. Con chó liền
nhảy khỏi mặt nước, tìm tới chỗ có người ở, kêu oăng oẳng rất bi ai. Có người
thấy lạ, đi theo nó ra chỗ kia, thấy bao tải dưới nước, bèn lôi lên, cắt dây buộc.
Khách chưa chết, kể hết sự tình. Lại năn nỉ cùng bác thuyền chài, xin chở cho về
Vu Hồ, định đợi thuyền của tên cướp quay trở lại. Lên thuyền, thấy mất con chó,
lòng rất thương tiếc.
Qua cửa quan, ba bốn ngày, thuyền buôn đông như rừng
mà thuyền của tên giặc cướp chẳng thấy đâu cả. Bỗng con chó ở đâu chạy lại, hướng
vào chủ sủa vang. Gọi to, nó liền chạy đi. Cổ xuống thuyền đi theo chó, thấy nó
chồm lên một chiếc thuyền nọ, cắn chặt vào bắp vế của một người. Đánh nó, nó cũng
không buông. Cổ lại gần quát mắng chó, thì cái người bị chó cắn chính là tên cướp.
Quần áo cùng thuyền của hắn đều thay đổi, vì thế mới không nhận ra. Trói lôi
đi, thì may túi tiền còn nguyên.
Than ôi! Chó mà báo ơn như vậy, thì những kẻ vô tâm
can trên đời, chẳng thẹn với nó ư!
(Dẫn theo Liêu
trai chí dị trọn bộ, Sđd, tr.1163).
·
Ghi nhận: Ở đây tuy nói về chó có nghĩa
nhưng thực chất vẫn là lý nhân quả báo ứng. Như tục ngữ Việt Nam đã nói: Cứu vật vật trả ơn…
Trong Nam
trung tạp ngâm, thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ Điệu khuyển (Thương con chó) viết theo
thể ngũ ngôn gồm 10 câu như sau:
Tuấn mã bất lão
tử
Liệt nữ vô thiện
chung
Phàm sinh phụ kỳ
khí
Thiên địa phi sở
dung.
Niệm nhĩ thuộc
thổ súc
Dữ nhân mao cốt
đồng
Tham tiến bất
tri chỉ
Vẫn thân hàn sơn
trung.
Vẫn thân vật
thán uyển
Sổ thí vô toàn
công.
(Tuấn mã chẳng chết già
Liệt nữ đời dang dở
Sinh ra khí phách đầy
Đất trời chứa, không chỗ.
Nghĩ mày giống súc sinh
Thịt xương như người đó
Ham tiến chẳng biết dừng
Núi thẳm thây đành bỏ.
Bỏ mình chẳng oán than
Uống sức hoài thi thố).
(Ngô Linh Ngọc dịch. Nguyễn Du toàn tập I. Nxb. Văn
Học, 1996, tr.199-200).
Chú thích:
(1)
Xem Bài viết của Đào Nguyên: Giới thiệu
mảng truyện viết về giới Tăng sĩ của Phật giáo trong Liêu trai chí dị (bài sẽ đăng).
(2)
Xem Bài viết của Đào Nguyên: Giới thiệu
tóm tắt mảng truyện nói về sự việc niệm Phật tụng kinh trong Liêu trai chí dị (bài sẽ đăng).
(3)
Lời bạt của HT.Viên Minh, in trong Phật lý qua Liêu trai của Lý Việt Dũng.
Nxb. Hồng Đức, 2016, tr.14.
(4)
Phần đông các nhà nghiên cứu đều cho Dị
Sử Thị là tác giả Bồ Tùng Linh. Có người thì cho là Vương Ngư Dương
(1634-1711).
(5)
Truyện này chúng tôi đã nêu thuật tóm lược
(có lược bớt một số đoạn) trong bài viết: Một số ghi nhận và đề xuất… Lần nêu
thuật ấy là theo bản dịch của Lý Việt Dũng.
(6)
Xem kinh Pháp cú. Lời Phật dạy. Pāli – Anh – Việt – Hán đối chiếu. Nxb. Hồng
Đức, 2014, tr.51.