Thích Thanh Tâm
Ý tưởng hạnh phúc như là mục tiêu phát triển hàng
đầu bàng bạc trong tinh thần chính trị Bhutan. Trong nỗ lực thời kỳ đầu của quá
trình hiện đại hóa, Bhutan xác định Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH) là mục đích
cơ bản của sự phát triển, là quá trình dẫn đến hòa bình và thịnh vượng; là tiền
đề cho niềm tin, mong muốn hạnh phúc của mỗi cá nhân, và mở rộng ra là trách
nhiệm và mục đích của nhà nước nhằm tạo điều kiện cần thiết để người dân có cuộc
sống tốt đẹp.
Vì thế, GNH là cách tiếp cận toàn diện và bền
vững cho sự phát triển cân đối giữa vật chất và các giá trị phi vật chất với
niềm xác tín con người muốn tìm kiếm hạnh phúc thật sự. Cho nên, mục tiêu của
GNH là nhằm đạt được sự phát triển hài hòa trong tất cả các khía cạnh của cuộc
sống - vốn là điều cần thiết cho hạnh phúc. Do đó, Vương quốc Phật giáo Bhutan
qua nhiều năm phát triển, bên cạnh quá trình toàn cầu hóa, vẫn giữ được những
nét vốn có từ thế kỷ XVII. Hiện được đánh giá là đất nước có chỉ số hạnh phúc
cao nhất ở châu Á và đứng thứ 8 trên thế giới khi mức tăng trưởng GDP nằm ở nhóm
đầu nhưng vẫn giữ được môi trường trong lành và bảo tồn những giá trị văn hoá.
Giờ đây, khi thế giới lao đao trước những cơn
khủng hoảng kinh tế, trước tình trạng thiên nhiên bị hủy hoại, khí hậu nóng lên
thì Bhutan lại càng nổi lên như một quốc gia đi đầu, định hướng được cách phát
triển bền vững, lâu dài và hiệu quả. Bài tham luận này đề cập đến hệ giá trị GNH
Bhutan và nghĩ đến hướng đóng góp thiết thực của Phật giáo Việt Nam cho sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững.
Từ khóa: Bhutan, GNH, Phật giáo Việt Nam, phát
triển kinh tế - xã hội bền vững
1. Hệ giá trị Tổng hạnh phúc quốc gia Bhutan
Bhutan thời cổ đại bao trùm trong màn sương thần
bí. Lịch sử văn tự sớm nhất của Bhutan ghi lại, vào thế kỷ thứ 8, ấn ký của Guru
Rimpoche –Thượng sư Liên Hoa Sanh của hệ phái Mật tông Phật giáo Kim cương thừa
chính là bậc thánh đã đem hạt giống văn hóa gieo rải khắp Bhutan.
Năm 1971, Bhutan gia nhập vào Liên hợp quốc, đề
xuất kế hoạch đặc biệt làm tiêu chí hạnh phúc cho nhân dân. Vốn là quốc gia theo
chế độ quân chủ, các quốc vương Bhutan đều có tầm nhìn xa, hiểu biết thương yêu
và tôn trọng nhân dân. Quốc vương bảo đảm thần dân mỗi người đều được miễn phí
nhà đất, giáo dục, trị liệu y học và luôn quan tâm đến tổng số hạnh phúc của
toàn dân hơn là quan tâm đến tổng giá trị sản xuất. Cho nên, Butan đã loại bỏ
chỉ số Tổng sản phẩm trong nước (GDP) để đo lường sự tiến bộ của nước mình và
thay thế bằng chỉ số GNH, theo đó, đời sống tinh thần - thể chất, văn hóa - xã
hội của người dân, việc bảo vệ tài nguyên - môi trường của quốc gia được đưa lên
vị trí ưu tiên số một.
Chính cựu Quốc vương Butan Jigme Singye Wangchuck
đưa ra khái niệm GNH thay cho khái niệm GDP, lấy sự hài lòng của người dân đối
với xã hội, cuộc sống làm thước đo khi hoạch định chính sách phát triển kinh tế
- văn hóa. Qua những hình mẫu phát triển của nước ngoài, ông thấy người dân
không hạnh phúc khi khoảng cách giàu - nghèo ngày càng gia tăng, phúc lợi xã hội
không được đảm bảo, môi trường bị phá hủy trầm trọng từ quá trình phát triển và
tăng trưởng kinh tế.
Sau bao băn khoăn, trăn trở, ông đã tìm kiếm và
tự xây dựng một khái niệm hạnh phúc mới - hạnh phúc không đo bằng tiền bạc mà đo
bằng chính sự hài lòng, thỏa mãn của con người với cuộc sống hiện tại, bằng sự
cân đối giữa giá trị vật chất với giá trị tinh thần thông qua chỉ số GNH. Ông
cũng khẳng định, “Butan sẽ theo đuổi mục tiêu đem thịnh vượng tới bất cứ vùng,
miền nào trên đất nước, đồng thời, bảo đảm phát triển luôn đi kèm với việc giữ
gìn truyền thống văn hóa, bảo vệ môi trường cũng như duy trì một chính phủ dân
chủ đầy uy tín và trách nhiệm trước dân.”[1]
Do đó, chính phủ Butan đánh giá hạnh phúc của con
người không chỉ phụ thuộc vào các khía cạnh đời sống kinh tế mà còn dựa trên 4
tiêu chuẩn: môi trường trong sạch, phát triển bền vững, quản trị tốt, bảo tồn và
phát huy văn hóa.
● Về bảo vệ môi trường: đã được ghi nhận trong
Hiến pháp của quốc gia này là quyết tâm và cam kết duy trì ít nhất 60% diện tích
cả nước có rừng che phủ. Hiện nay, 72% diện tích của Butan là rừng và hơn một
phần ba nằm trong mạng lưới các khu bảo tồn. Bảo tồn hàng loạt mục tiêu hoặc hệ
sinh thái lý tưởng bắt đầu bằng việc thiết lập một đường cơ sở và sau đó thực
hiện mục tiêu đó. Nhiều người dân Butan khi được hỏi về lý do tại sao luôn có ý
thức cao đối với môi trường thì đều có chung một đáp án là con người sống chung
với thiên nhiên, đối xử với môi trường như thế nào thì sẽ được nhận lại như vậy.
● Về phát triển bền vững, Butan tập trung vào y
tế, giáo dục và dịch vụ xã hội. Để giải quyết các nhu cầu của hiện tại và tương
lai, Butan đưa ra tiêu chuẩn sống cao hơn và tiếp cận với tiện nghi hiện đại và
công nghệ trên mọi khu vực của đất nước. Yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng
này là phát triển bình đẳng, để những lợi ích của phát triển đến được những
người nghèo nhất và yếu thế nhất. Butan đã đạt được sự phát triển ấn tượng và
cải thiện cuộc sống của nhiều người và điều này đã đặt nền móng cho sự phát
triển nhanh hơn, công bằng hơn, và nhân đạo hơn.
● Về quản trị tốt, thế giới đang theo dõi tiến
trình dân chủ mới ở Butan, và những nỗ lực để thành công với quản trị tốt là một
ưu tiên để đất nước này thể hiện với thế giới. Với nền dân chủ này, chính phủ
phải phản ánh ý kiến của người dân, và người dân phải chủ động hơn trong việc
tham gia đóng góp cho sự thay đổi.
● Về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa,
kiến trúc riêng biệt, các giá trị văn hóa, các nghi lễ truyền thống... là tất cả
các khía cạnh cuộc sống mà người dân Butan muốn gìn giữ, bảo tồn. Thách thức
hiện nay đối với quốc gia này là khôi phục và duy trì những yếu tố đó thông qua
việc bảo tồn văn hoá.
Như vậy, để thực hiện chính sách phát triển của
mình, Butan lấy người dân làm trung tâm, đồng thời luôn chú trọng giữ vững sự ổn
định chính trị, bảo đảm môi trường bền vững, người dân sống hạnh phúc. Butan
triển khai được các chương trình kiềm chế và ngăn chặn tác động tiêu cực của
biến đổi khí hậu này từ hơn một thập kỷ vừa qua. Trước khi Chính phủ phê duyệt
bất cứ dự án nào thì vấn đề đặt ra luôn là tăng trưởng kinh tế phải bền vững, đi
đôi với bảo tồn di sản văn hóa, bảo đảm đa dạng sinh học.
2. Sứ mệnh Phật giáo Việt Nam với nếp sống nhân
sinh
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Thế Tôn xuất hiện
giữa thế gian đã ưu tư đến những vấn đề con người và an sinh xã hội. Ngài tự
dấn thân tìm con đường giải thoát ra khỏi tình trạng bấp bênh sóng gió, để rồi,
suốt 49 năm hoằng pháp lợi sanh, Ngài mang chân lý hiện sinh đi vào cuộc đời.
Những làng mạc, những thôn xóm Ngài đi qua đều thấm nhuần lợi ích với những ai
thực hiện: việc làm đúng, lời nói đúng, và tư duy suy nghĩ đúng đắn. Lời dạy của
Ngài vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa có giá trị xã hội, đặt biệt thể hiện giá trị
đạo đức cao đẹp và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Do đó, với trí tuệ siêu việt Ngài
nhìn thấy khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt tận khổ và con đường diệt khổ, nên
xóa bỏ những điều bất hạnh áp đặt lên thân phận con người. Ngài chỉ cho mọi
người thấy rõ bản chất cuộc sống một cách chân thực để từ đó có cách ứng xử đúng
đắn trong đời sống, tránh đi những lầm lạc và tu tập để đạt đến sự an lạc trong
hiện tại cũng như tương lai.
Là tôn giáo có tầm ảnh hưởng đối với xã hội loài
người, nhờ một hệ thống giáo lý mà nổi bậc là tư tưởng, triết học, văn hóa, xã
hội, nhân văn, kiến trúc, nghệ thuật, Phật giáo đã cống hiến cho nhân loại những
giá trị không thể phủ nhận. Trên tất cả các lĩnh vực thì giáo dục Phật giáo bao
trùm rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống của con người; và đó là chức năng cần
thiết đào tạo một con người hoàn thiện về nhân cách đạo đức cũng như lối sống
chuẩn mực và giúp cho con người ý thức được trách nhiệm đối với bản thân và gia
đình để sẵn sàng phục vụ và góp phần công bằng xã hội.
Cho nên, trong xã hội đó đức Phật nêu cao giá trị
làm người. Mặc dù cuộc đời vô thường, giả tạm và năm uẩn không có tự thể riêng
biệt, song con người còn có thể vận dụng được xác thân ngũ uẩn ấy để chuyển hóa
vô minh và giải thoát phiền não. Trong mối tương quan tương duyên của cộng đồng
xã hội, mỗi người đều có giá trị hiện hữu bình đẳng. Không ai có quyền nhân danh
thế lực gì để chà đạp lên quyền sống và quyền làm người của kẻ khác. Làm người
ai cũng muốn bảo vệ sự sống, ai cũng muốn tránh khổ đau và mưu cầu hạnh phúc, ai
cũng có sự tôn nghiêm trong tư cách làm người; cho nên phẩm giá của con người là
giá trị phổ quát, không một ai có thể chối bỏ hay chà đạp. Nếu từng cá nhân tự
chuyển hóa tâm thức để giải tỏa những vấn đề, nghĩa là họ đã giảm trừ hay tận
diệt vô minh và các phiền não gây ra bất an khổ não, thì cộng đồng xã hội có
thêm một thành viên kiến tạo hòa bình, an lạc và thịnh vượng.
Tóm lại, Phật giáo Việt Nam với dòng lịch sử
xuyên suốt từ khi du nhập đến nay luôn hội nhập vào sức sống của dân tộc qua các
giai đoạn lịch sử thăng trầm thịnh suy của đất nước. Với tinh thần “ Phật pháp
tại thế gian, bất ly thế gian giác”, Phật giáo luôn đề cao tinh thần “Từ bi hỷ
xả, vô ngã vị tha”, lấy đó làm phương châm giáo hóa chúng sanh, sống nếp sống
chân thiện mỹ, góp phần tô diểm đất nước. Và trong thời đại phát triển vượt bậc
của khoa học kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, con người càng trở nên
bận rộn, chịu nhiều áp lực mọi mặt khi đối diện với thách thức, những trở ngại
và cạnh tranh tất yếu với cuộc sống. Với ưu điểm phát triển kinh tế thị trường,
song vẫn tồn tại mặt trái của nó là môi trường bị đe dọa cùng với đạo đức bị ảnh
hưởng đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần con người. Từ những đa đoan
ấy mà tâm tư chúng sanh đầy những tâm hành sợ hãi lo âu. Từ đó, tâm tư mong cầu
một bến đỗ, một cõi đi về ngay khi sống trên đời này hay cả lúc rủ áo ra đi theo
chu trình sanh diệt.
3 Hướng đóng góp thiết thực của Phật giáo Việt
Nam về phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Như vậy, với sứ mệnh cao cả của Đạo cùng với tính
cấp thiết của thời cuộc, Phật giáo Việt Nam cần có tiếng nói và sự đóng góp
thiết thực hơn nữa cho sự phát triển kinh tế xã hội bền vững, không những cho
Việt Nam mà cả quốc tế. Bởi hiện nay, các quốc gia, các tổ chức trên thế giới
đang xem xét lại các tiêu chuẩn phát triển quốc gia để tìm mô hình phát triển
mới, đóng góp vào sự phát triển bền vững trên nhiều lĩnh vực, nhằm vượt ra khỏi
các vấn nạn toàn cầu.
Cho nên, thứ
nhất, đóng góp lớn nhất của Phật giáo là dùng hệ thống giáo lý tác động đến nhận
thức của giới lãnh đạo cũng như người dân để phát triển bền vững trên nền tảng
các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi Việt Nam có
một di sản sống của đạo Phật đã đi vào nếp sống tinh thần người dân. Cho nên,
Phật giáo phải góp phần vào việc phát triển đất nước nhằm đảm bảo an sinh xã hội
khiến người dân duy trì một sự cân bằng ngay trong cuộc sống.
Thứ hai, truyền dạy giáo lý Phật giáo để được
dùng như kim chỉ nam trong cuộc sống thường nhật của người dân và là nền tảng cơ
bản để xây dựng luật pháp của chính phủ nhằm thực hành triệt để việc bảo vệ
thiên nhiên và lưu giữ được những truyền thống tốt đẹp tự ngàn xưa. Chính điều
đó sẽ khiến đất nước có môi trường thiên nhiên tốt. Khi người dân có ý thức cao
về môi trường, vì hiểu con người sống chung và đối xử với môi trường như thế nào
thì sẽ được đáp lại như vậy, nên việc truyền dạy năm giới để người dân ý thức
gìn giữ môi trường luôn là một phần quan trọng trong nếp nghĩ và sẽ muốn bảo vệ
thiên nhiên như một thực thể sống. Do đó, mỗi người dân là một người giám hộ tài
nguyên thiên nhiên và môi trường vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương
lai, là nhiệm vụ cơ bản của mỗi công dân đóng góp vào việc bảo vệ thiên nhiên,
bảo tồn sự đa dạng sinh học.[2]
Thứ ba, thiển nghĩ, con người không bao giờ ngưng
tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất
đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định
mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình,
khi nhận ra hai bàn tay quá ngắn, hai chân quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng
chảy xiết của sinh tồn. Để hưởng thụ cuộc sống, phải nuôi dưỡng cơ thể. Đói và
khát không ngừng thôi thúc phải chuyển động. Thế mà cơn đói chưa bao giờ được
thỏa, và nỗi khát cũng chưa từng lắng dịu. Các nguồn tài nguyên có vẻ bất tận
trong tầm nhìn, nhưng lại khan hiếm trong tầm với, cho nên phải phân phối các
nguồn tài nguyên ấy một cách hợp lý. Cho nên, tăng trưởng kinh tế là nền tảng
cho ổn định và thanh bình xã hội, vì vậy sự phát triển của nó bao hàm việc mở
rộng sự hành đạo. Do đó, ứng dụng Phật giáo vào phát triển, không những hướng
con người sống theo chánh pháp - hợp pháp và lương thiện, mà còn dạy cách xử
dụng lợi nhuận thế nào để có lợi ích cho bản thân và người khác trong hiện tại
cũng như trong tương lai.
Thứ bốn, với học thuyết Duyên khởi cho chúng ta
biết mọi sự hiện hữu là sự kết hợp của nhiều nhân duyên. Chúng không thể tồn tại
độc lập mà nương tựa với nhau trong mối tương quan mật thiết. Cái này có nên cái
kia có, cái này sanh nên cái kia sanh, cái này không nên cái kia không, cái này
diệt nên cái kia diệt. Xuất phát từ tư tưởng Duyên khởi, luân lý học môi trường
đương đại cho rằng giữa con người và giới tự nhiên có sự tương nhập lẫn nhau.
Con người nương giới tự nhiên để sinh tồn, giới tự nhiên là thân thể “vô cơ” của
con người. Từ đó đưa đến một hệ quả tất yếu, nếu con người tiếp tục phá hoại môi
trường thiên nhiên, coi thiên nhiên là vật sở thuộc mà ra sức khai thác bừa bãi
thì rốt cuộc nhân loại tự hủy diệt chính mình.
Như vậy, con người cần phải tiết chế dục vọng
và tính tham lam bất tận bằng pháp tri túc thiểu dục của Phật giáo, để không
tiếp tục điên cuồng nhắm mắt chạy theo những lợi lộc đơn thuần vật chất mà tự
phá hủy môi trường sống của mình. Phật giáo luôn chủ trương một nếp sống giản
đơn, tiết kiệm. Phát triển kinh tế phải đồng thời với việc phát triển đạo đức,
phát triển tâm thức và phát triển sự nhận thức về con người và thế giới. Phật
giáo không phủ nhận việc phát triển kinh tế, bởi sự thiếu thốn tài vật dễ đưa
con người đến vi phạm những vấn đề đạo đức và làm băng hoại xã hội, nhưng sự
giàu có được xây dựng trên một đời sống phi đạo đức lại đưa xã hội đến băng hoại
theo một cách khác.
Thứ năm, nguồn tài nguyên thế giới và hệ sinh
thái không thể hỗ trợ tất cả các dân tộc đạt mức độ tiêu thụ như các quốc gia
tiên tiến. Cho nên, những nỗ lực theo hướng công bằng toàn cầu phải được kết hợp
với những nỗ lực theo hướng tự nguyện từng cá nhân và thông qua các chính sách
dân chủ. Vì thế, để xây dựng tương lai bền vững, phải chọn mức độ và hình thức
tiêu dùng bền vững, tức là sử dụng nguồn tài nguyên của thế giới một cách khôn
ngoan, không áp chế hệ sinh thái mà nên bảo tồn những phần còn lại trên hành
tinh này. Và để có được chính sách và tầm nhìn minh bạch và nhất quán thì xã hội
phải dân chủ, nghĩa là mỗi tầng lớp đều cử người đại diện và phải có tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận.[3]
Theo nghĩa phổ thông ngày nay, dân chủ có nghĩa là trong một quốc gia xã hội mọi
người đều có quyền như nhau. Tức là, những vấn đề tranh chấp nên được giải quyết
bằng cách biện luận thay vì bằng bạo lực; những ý kiến phải được thâu nhận xuyên
qua cuộc tranh biện không bị ngăn trở, chớ không phải chỉ một bên được phép phát
biểu.
Phật giáo đề cập nhiều đến vấn đề tự do dân chủ.
Ngài luôn chỉ con đường hướng đến giải thoát và chúng sanh muốn giải thoát phải
tự mình thực hành để chứng ngộ. Ðức Phật không xen vào tư tưởng người khác, vì
tự do suy tư là quyền của mỗi cá nhân. Ép buộc người khác lệch khỏi lối sống
thích hợp với tâm tánh, hiểu biết và khuynh hướng suy tư của họ là sai lầm.
Trong sự hiểu biết, đức tin và nỗi niềm lo sợ suông không có vai trò trong tư
tưởng Phật giáo. Mỗi người được phép trưởng thành theo phương cách nào sẽ đưa
đến những gì tốt đẹp nhất. Bất luận cưỡng bách gì để ép buộc tư tưởng của người
khác vào khuôn khổ của mình là xen vào cuộc sống tinh thần của người khác.
Thứ sáu, nhìn dưới góc độ phi chính trị, người
thực hành theo quan điểm Phật giáo thường đạt đến sự hạnh phúc cao nhất, vì họ
đã buông xả, giải thoát khỏi mọi thứ khổ về của cải, vật chất, về khái niệm yêu
ghét. Hạnh phúc dành cho những người biết quay về với chính mình và giây phút
hiện tại để biết rõ bản thân mình muốn gì. Người biết tri túc, biết vừa đủ thì
dẫu ở đâu cũng thấy vừa lòng. Người không biết đủ, dù ở thiên đường, trên vàng
bạc châu báu cũng không vừa ý. Như vậy, ai cũng biết việc tiêu thụ quá mức sẽ
hủy hoại sự ổn định xã hội, dẫn tới tính hung bạo, sự cô độc, lòng tham ái. Do
đó, phải có chính sách phát triển hài hòa bền vững trong mọi yếu tố tương quan
để nhận chân được giá trị hạnh phúc thật sự. Như vậy, phải hướng đến một nền
kinh tế bền vững – kết hợp phúc lợi vật chất đến sức khỏe con người, với việc
bảo tồn thiên nhiên, với sự uyển chuyển về văn hóa và tâm lý – là điều cần phải
được đặt ra khắp mọi nơi.
Thứ bảy, việc thực hành Phật giáo sử dụng vô số
phương tiện thiện xảo để đạt được hạnh phúc, vốn là một phẩm chất của tâm phát
sinh từ thái độ tinh thần tích cực, bao gồm ý định không bao giờ làm hại người
khác, mong muốn giúp đỡ và hỗ trợ cho những xung quanh, và hài lòng với cuộc
sống. Cho nên, “để đạt được hạnh phúc người ta phải rèn luyện để phát triển tâm
trí nhằm giác ngộ, phải phân tích những suy nghĩ và hành động của chúng ta trong
cuộc sống hàng ngày. Có hai loại hạnh phúc: hạnh phúc tuyệt đối và hạnh phúc
tương đối. Hạnh phúc cuối cùng là hạnh phúc của sự đạt ngộ, tâm tư vượt khỏi
những ràng buộc thô và tế. Hạnh phúc tương đối là niềm vui giúp đở mọi người.”[4]
Vì vậy, cả kinh tế - xã hội và lĩnh vực tinh thần
cần phải được phát triển cùng nhau, song đời sống tinh thần là nền tảng căn
bản. Cả quốc gia đều thực hành con đường chuyển đổi tâm trí, nhất là các nhà
hoạch định chính sách và đường lối xây dựng và phát triển đất nước. Phải rèn
luyện từng cá nhân về trách nhiệm, thúc đẩy sứ mệnh chuyển hóa tâm thức qua các
hệ thống giáo dục hiện đại, qua các phương tiện truyền thông, báo chí, truyền
hình, phát thanh, cũng như thông qua con đường truyền thống giáo dưỡng gia đình
nhằm tạo ra một xã hội lý tưởng.
Thứ tám, chánh mạng là cốt tủy của kinh tế học
Phật giáo, bằng cách áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào kinh tế có thể giúp
chúng ta tìm ra con đường độc đáo cho sự thịnh vượng của riêng mình, thanh lọc
tính cách của con người chứ không làm gia tăng những ham muốn của con người lên
theo cấp số nhân. Như vậy, phát triển kinh tế theo giáo lý Phật giáo sẽ thúc đẩy
sự khỏe mạnh về thể chất và sự tận hưởng niềm an vui chứ không phải tham muốn sự
khoái cảm.
Thiển nghĩ, kinh tế học hiện đại tập trung vào
hàng hóa chứ không phải tập trung vào con người hay khả năng sáng tạo. Do đó,
việc tiêu thụ hàng hóa được coi là một chỉ số quan trọng về chất lượng cuộc
sống. Tuy nhiên, theo kinh tế học Phật giáo, việc tập trung vào sự tiêu thụ là
không hợp lý. Nó chỉ có thể là một phương tiện để đến đích; mục đích cuối cùng
phải là tối đa hóa phúc lợi trong khi giảm thiểu sự tiêu thụ. Rõ ràng, để duy
trì một mô hình tối ưu của sự tiêu thụ thì cần ít sức lực hơn so với việc duy
trì sự tiêu thụ tối đa. Tuy nhiên, sau khi chuyển từ sự tiêu thụ tối đa qua sự
tiêu thụ tối ưu thì có thể sẽ cần đến nhiều hoạt động có ý nghĩa, chẳng hạn như
sự cải tiến. Thay vì tiêu thụ hàng nhập khẩu đắt đỏ, chúng ta có thể tập trung
vào các hoạt động nhằm thúc đẩy sự tự hoàn thiện và tăng năng suất, như là đầu
tư vào âm nhạc, sáng tạo nghệ thuật, hoặc học một kỹ năng mới.
Một điểm cơ bản của kinh tế học hiện đại được áp
dụng theo tinh thần Phật giáo về vấn đề lao động là tạo cho người lao động cơ
hội để sử dụng và phát triển khả năng của mình; giảm cái tôi của mỗi người bằng
cách cộng tác với những người khác trong một nhiệm vụ chung; và sản xuất hàng
hóa, dịch vụ cần thiết đối với nếp sống chánh mạng, chứ không như kinh tế học
hiện đại cho rằng, càng ít lao động trong quy trình sản xuất thì càng tốt. Sự tự
động hóa giảm thiểu lao động trong quá trình sản xuất được coi là có hiệu quả.
Các chức năng này có ý nghĩa sâu sắc đối với những gắn kết kinh tế và xã hội.
Trên thực tế, chất lượng công việc của một cá nhân có thể có tác động sâu sắc
đến sự tồn tại của họ. Tuy nhiên, sự tự động hóa và phân chia lao động đã làm
giảm ý nghĩa mà một cá nhân có thể nhận được từ công việc của mình. Bởi vì, công
việc được tiến hành một cách phù hợp trong điều kiện phẩm giá con người sẽ đem
lại hạnh phúc cho những người làm công việc đó, và những sản phẩm của họ cũng
thế.
Cho nên, Đức Phật khẳng định mục đích lao động
không chỉ nhằm sáng tạo ra vật chất mà còn nhằm phát triển cuộc sống tinh thần
của con người. Đức Phật hy vọng thông qua lao động thân tâm và đạo đức của con
người ngày thêm tiến bộ. Bởi vì, ứng dụng tinh thần Phật giáo vào cuộc sống nhận
thức giống như làm ruộng bằng hạt giống tín ngưỡng, nguồn nước khổ hạnh, lưỡi
cày lý giải, mương nước khiêm tốn, nguồn phân thâm tư để tạo nên hạt quả trí
tuệ. Công việc ấy với mục đích là làm lợi lạc quần sinh, tạo phúc muôn loài. Như
vậy, tài vật duy trì sự sống và phát triển toàn diện con người nên khi đem
nguyên lý Phật giáo áp dụng vào nền kinh tế thì mọi người có được cuộc sống đạo
đức, mọi người làm tròn bổn phận thì đất nước phát triển, an ninh, hoà bình,
người dân hạnh phúc, gia đình an lạc.
4. Kết luận
Như vậy, từ hệ giá trị GNH Bhutan nghĩ đến sứ
mệnh kế thừa, ổn định và phát triển 35 năm của Phật giáo Việt Nam đã đóng góp
được gì cho phát triển nhân sinh mà định hướng và xây dựng đất nước phát triển
kinh tế - xã hội bền vững. Phải thẳng thắng nhìn nhận để có định hướng rõ ràng
cho phát triển. Tránh chủ quan hóa và ảo tưởng về giá trị thật trong kinh điển
và giá trị ảo trong thực tế mà đề ra định hướng phát triển, phân cấp nhiệm vụ
các Ban, ngành của Giáo hội trong thời gian tới cho phù hợp mà không xa rời
chánh Pháp. Hãy Phật hóa nhân gian, chứ đừng để đời hóa Đạo theo hướng thế tục,
xa lìa cứu cánh giải thoát!
Tóm lại,
từ góc
nhìn của chủ nghĩa Kiến tạo, hướng đóng góp thiết thực của Phật giáo Việt
Nam bằng cách tác động đến yếu tố chủ quan của con người, tức tác động đến nhận
thức giới lãnh đạo để vạch ra chính sách phát triển quốc gia; thay đổi nhận thức
cuộc sống người dân, nhằm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững, phù
hợp với các mục tiêu thiên niên kỷ trong thời đại mới; và cuối cùng là hướng đến
mục tiêu xây dựng hệ giá trị GNH Việt Nam. Đồng thời, chính từ nhận thức thay
đổi nhóm hay giới elite mà dần dần hình thành nên một chuẩn mực chung cho sự
phát triển hướng đến hạnh phúc hơn là vật chất; tạo nên bản sắc riêng cho một
định hướng phát triển bền vững đáp ứng nhu cầu thời đại và cả thế hệ tương lai.
Tài liệu tham khảo
Dasho Karma Ura and Dorji Penjore (2009), Gross
National Happiness: Practice and Measurement, The Centre for Bhutan Studies.
Dasho Karma Ura and Dendup Chophel (eds) (2012),
Buddhism Without Borders: Proceedings of the International Conference on
Globalized Buddhism, The Centre for Bhutan Studies.
Dessallien, Renata (2005). Democracy, Good
Governance and Happiness. Some views from the Kingdom of Bhutan, The Centre for
Bhutan Studies.
Karma Galay (2009), Time Use and Happiness, The
Centre for Bhutan Studies.
Karma Ura, Sabina Alkire, Tshoki Zangmo, and
Karma Wangdi (2012), A Short Guide to Gross National Happiness Index, The Centre
for Bhutan Studies.
Karma Ura and Karma Galay (2004), Gross National
Happiness and Development, The Centre for Bhutan Studies.
Karma Phuntsho (2013), The history of Bhutan,
Published by Random House India.
Karma Ura, Sabina Alkire, Tshoki Zangmo and Karma
Wangdi (2012), An Extensive Analysis of GNH Index, The Centre for Bhutan
Studies.
Kent Schroeder (2014), The Politics of Gross
National Happiness: Image and Practice in the Implementation of Bhutan’s
Multidimensional Development Strategy, Guelph, Ontario, Canada.
Anne-Marie Schreven, Good Organisational Practice
and Gross National Happiness,
http://www.bhutanstudies.org.bt/publicationFiles
/ConferenceProceedings/4thGNH/18.4thGNH_AnneSchreven.pdf
Avilash Roul,
Modi's India Vs Bhutan's Gross National Happiness,
http://www.sspconline.org/ModisIndiaBhutanGrossNationalHappiness_20082014
Bhutan Foundation, Bhutan believes in gross
national happiness,
http://www.bhutanfound.org/?p=151
Ban Ki-moon, Secretary-General in Message to
Meeting on ‘Happiness and Well-being’ Calls for ‘Rio+20’ Outcome that Measures
More than Gross National Income,
http://www.un.org/
press/en/2012/sgsm14204. doc.htm
Brandon, Thay on Gross National Happiness &
Mindfulness in Education,
http://www.wkup.org/thay-on-gross-national-happiness-mindfulness-in-education/
Carol Graham and
Soumya Chattopadhyay, Gross National Happiness and the Economy,
http://www.brookings.edu/research/ opinions/2008/ 10/24-happiness-graham
Dasho Karma Ura,
Gross National Happiness and Buddhism,
http://www.rk-world.org/dharmaworld/dw_2007odgross.aspx
Dr. Saamdu Chetri, National Happiness An
Alternative Paradigm to Sustainable Socio-economic Development,
http://www.aquaac.org/dl/
1nl3art3.html
Dr. Ron Colman and Dr. Julia Sagebien, Measuring
Genuine Progress - Indicators for Enlightened Society,
http://www.bhutanstudies.org.bt/publicationFiles/ConferenceProceedings/GNHandDevelopment/13.GNH&development.pdf
Dr. Ross Mcdonald, Finding Happiness in Wisdom
and Compassion – The Real Challenge for an Alternative Development Strategy,
http://www.bhutanstudies.org.bt/publicationFiles/ConferenceProceedings/GNHandDevelopment/15.GNH&development.pdf
Ecocity, Reflections on Gross National Happiness,
https://ecocity.wordpress.com/2014/06/03/reflections-on-gross-national-happiness/
[1]
Karma Ura and Karma Galay (2004), Gross National Happiness and Development,
The Centre for Bhutan Studies,
p. 375
[2]
Dasho Karma
Ura, Gross National
Happiness and Buddhism,
http://www.rk-world.org/dharmaworld/dw_
2007odgross.aspx
[3]
Dessallien, Renata (2005). Democracy, Good Governance and Happiness. Some views from the Kingdom of Bhutan,
The Centre for Bhutan Studies, p.105
[4]
Karma Ura and Karma Galay (2004), Gross National Happiness and Development,
The Centre for Bhutan Studies,
p. 483