Từ Ốc Tiêu cổ tự đến chùa Phước Duyên ngày nay
tu oc tieu c
Từ Ốc Tiêu cổ tự đến chùa Phước Duyên ngày nay
(CHÙA PHƯỚC DUYÊN: 70 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN)
I. Dẫn nhập
Công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam diễn ra suốt nửa đầu
thế kỷ XX, đã đưa nền Phật giáo Việt Nam từ tình trạng suy vi, thoái hóa đến
thời vẻ vang, hưng thịnh. Công cuộc chấn hưng trọng đại này, đã góp phần rất lớn
vào việc chỉnh đốn thanh quy, nghiêm trì tịnh giới và bảo tồn mạng mạch Chánh
pháp trong chốn Thiền môn, đã tạo đà vững chắc cho nền Phật giáo Việt Nam phát
triển trên nhiều lãnh vực. Nhờ thế mà Phật giáo Việt Nam, từ nửa sau thế kỷ XX
cho đến ngày nay đã không ngừng phát triển. Chỉ riêng ở miền đất Cố đô này, về
mặt kiến trúc chùa tháp, sau thời kỳ chấn hưng, cũng đã có hơn 320 ngôi Niệm
Phật đường được xây dựng khắp các làng xã, từ thành thị đến nông thôn. Song song
với sự thành tựu nói trên, chư tôn Thiền đức cũng không ngừng nỗ lực khai sơn,
kiến tạo nhiều ngôi chùa mới, để mở rộng cơ sở đào tạo Tăng tài, hoằng dương
Chánh pháp. Trong đó có chùa Phước Duyên. Chùa Phước Duyên được kiến tạo giữa
năm Mậu Tý, 1948. Tính đến năm Mậu Tuất, 2018, vừa tròn Bảy Mươi Năm.
Bảy Mươi Năm - ngần ấy thời gian chưa đủ để chùa Phước Duyên
làm nên những kỳ tích lớn lao cho Phật pháp như những ngôi chùa có nhiều dấu ấn
lịch sử ở Thừa Thiên, Huế. Nhưng với sứ mệnh thiêng liêng và cao cả của các bậc
Tăng già trong chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, chư Tăng chùa Phước Duyên đã tích
cực đóng góp phần trí tuệ và máu xương của mình cho sự tồn vong của Đạo pháp và
dân tộc trong suốt một giai đoạn lịch sử nhất định.
Để có cái nhìn rõ hơn về những thành tựu mà chùa Phước Duyên
đã đạt được, kể từ thời đầu xây dựng cho đến ngày nay. Chúng tôi xin trình bày
sơ lược Lịch sử chùa, Tiểu sử Hòa thượng khai sơn và Tiểu sử Đại đức “Vị pháp
thiêu thân” Thích Thanh Tuệ.
II. LƯỢC SỬ CHÙA PHƯỚC DUYÊN
1.
Vị trí giới hạn
Chùa Phước Duyên do Hòa thượng Tâm Ưng Đảnh Lễ (1918-1968)
kiến tạo giữa năm Mậu Tý, 1948. Chùa tọa lạc trên một vùng đất rộng khoảng 8 sào
Trung Việt (4.000m2) nằm
dưới chân ngọn rú Vi, thuộc địa phận làng An Ninh, xã Hương Long, quận Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên. (Nay là phường Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế).
Chính điện chùa xây về hướng Đông Nam. Giới hạn chùa được mở
rộng theo bốn hướng: Đông Nam tiếp giáp với rú Vi và đồng ruộng. Tây Nam tiếp
giáp với xứ Nại Thành. Tây Bắc tiếp giáp với ấp và An Lạc. Đông Bắc tiếp giáp
với ấp Nam Bình. Sau lưng chùa là dòng sông Ninh (còn gọi là sông Bạch Yến, hay
sông Sau).
Chùa có vị trí không gian, kiến trúc hài hòa với thiên nhiên.
Vị trí này rất thích hợp cho những ai yêu chuộng không khí yên bình, thanh tịnh.
Đến đây, người ta sẽ dễ gạt bỏ những chuyện đời thường: “cân đong đo đếm”.
2. Giai đoạn hình thành
Theo nhiều vị bô lão làng An Ninh kể lại, thì trên vùng đất
khô này, trước đây đã có một cái am gọi là am linh và một thảo am gọi là Ốc Tiêu
tự, nhưng không rõ am linh và Ốc Tiêu tự do ai lập ra và lập nên từ năm nào. Chỉ
biết, ban đầu Ốc Tiêu tự thờ tranh tượng Quan Thánh.
Đến cuối năm Bính Tuất, 1946, dân chúng trong làng vẫn đến
hương khói. Bất ngờ lại thấy một bức tranh tượng Phật A Di Đà và một cái lư
hương bằng gỗ để trước sân Ôc Tiêu tự. Tin ấy loan ra thì dân chúng trong làng
đều cho là điềm lành, nên các bô lão liền thiết trí thành bàn thờ Phật ngay
trong thảo am. Từ đó, Ốc Tiêu tự trở thành nơi thờ “Tiền Phật hậu Thánh”.
Trải qua một thời gian, trên vùng đất này ngoài cái am linh và
ngôi Ốc Tiêu tự ra, còn lại là một vùng đất khô để bà con trong làng đến canh
tác, trồng trọt. Chung quanh ngọn rú này lại chôn cất nhiều mồ mả nên cảnh trí
thêm phần hoang sơ, vắng vẻ. Mãi cho đến năm Đinh Hợi, 1947, giữa lúc cuộc chiến
tranh Việt Pháp bùng nổ dữ dội, dân chúng ở làng An Ninh phải qua lánh nạn tại
chùa Linh Mụ. Trong dịp này, các vi bô lão đã đệ đạt ý kiến với Hòa thượng trú
trì Thích Đôn Hậu và Tỷ kheo Giám tự Thích Đảnh Lễ, về ý nguyện của bà con là
muốn mời ngài Đảnh Lễ, đứng ra lập một ngôi chùa trên vùng đất do Hội đồng các
Tộc trưởng hai làng An Ninh thượng, hạ quản quy. Sau khi trao đổi ý kiến, Hội
đồng các Tộc trưởng đã thuận định ký giấy chuyển nhượng vùng đất này để Hòa
thượng Thích Đảnh Lễ tùy nghi xây dựng chùa, làm nơi tu tập và hoằng dương Chánh
pháp.
Giữa năm Mậy Tý, 1948, việc xây dựng chùa bắt đầu khởi công.
Sự nỗ lức lớn lao của Hòa thượng đã đem đến cho đồng bào các giới, nhất là dân
chúng ở quanh chùa một niềm tin mạnh mẽ, nên tất cả bà con đều tích cực đóng góp
công sức vào việc xây dựng chùa. Sau khi ngôi chùa lợp tranh, vách tre hoan
thành, được sự gợi ý của Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Hòa thượng khai sơn đã đặt
tên chùa là “PHƯỚC DUYÊN TỰ’. Trong lễ lạc thành, an vị, có các vị trong Pháp
phái Thiền Đồng, đem đến chúc mừng câu đối:
- Ốc Tiêu cổ tự, An trí huy hoàng hồng chung chấn địa
- Phước Duyên tân tự, Ninh giang thắng cảnh pháp cổ thông
thiên.
3. Thời đầu xây dựng
Chùa được kiến tạo theo mô hình chữ “Khẩu”. Tuy nhiên, theo mô
hình này, Hòa thượng khai sơn đã xúc tiến thành nhiều giai đoạn. Bởi lẽ, trong
suốt quá trình 15 năm xây dựng, Hòa thượng đã gặp rất nhiều chướng duyên qua các
thời kỳ:
- Mùa Hè năm Quý Mão, 1963, cuộc tranh đấu của Tăng Ni và
Phật giáo đồ miền Nam Việt Nam với chính quyền Ngô Đình Diệm diễn ra suốt thời
gian sáu tháng, nên các Phật sự lớn nhỏ đều bị đình đốn.
- Rạng sáng ngày 24 tháng 6 năm Quý Mão (Ngày 13.8.1963) Đại
đức Thích Thanh Tuệ, tự nguyện thiêu thân cúng dường Phật pháp, trước cổng chùa
Phước Duyên. Tập đoàn Ngô Đình Diệm đã dùng bạo lực cướp nhục thân Đại đức và áp
dụng nhiều thủ đoạn để gây khó khăn cho Tăng chúng trong chùa, nhất là đối với
Hòa thượng khai sơn. Ngày 19.8.1963, chính quyền Diệm ra lệnh tầm nã Hòa thượng
trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Từ đó, ngài phải cải trang đi lánh nạn
nhiều nơi. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hòa thượng mới trở về chùa.
Trải qua nhiều giai đoạn gian nan như thế, nên công việc xây
dựng phải đình trệ, cho đến đầu năm Giáp Thìn, 1964, mới tiếp tục. Qua năm Ất
Tỵ. 1965, thì hoàn thành. Công trình kiến trúc chùa hoàn tất chưa được ba năm
thì biến cố đầu năm Mậu Thân, 1968, xảy ra. Chùa lại nằm trong vòng chiến sự
giao tranh, nên Hòa thượng khai sơn cùng Tăng chúng phải đi lánh nạn. Không may
rồi ngài cũng thị tịch trong cơn binh lửa hỗn loạn này. Sau khi Đại tang Thầy
hoàn mãn, Môn đồ cung thỉnh Hòa thượng Nguyên Tiến Lương Phương lên kế tục trú
trì cho đến ngày nay. Đảm nhận trú trì trong tình trạng chùa bị hư dột, đổ nát,
Hòa thượng đã dốc hết tâm lực để sửa sang, tu bổ. Từ đó, quang cảnh chùa mới trở
lại y như cũ. Đến năm Nhâm Tý, 1972, ngài lại cho mở rộng khách đường.
Sau ngày 30.4.1975, kinh tế chùa gặp khó khăn. Đất ruộng canh
tác để nuôi Tăng chúng, phần bị trưng dụng, phần bị thu hẹp. Dù khó khăn, thiếu
thốn, nhưng với phương châm “Tùy duyên bất biến”, Hòa thượng trú trì cùng chư
Tăng vẫn an trú trong niềm tin Chánh pháp trường tồn. Nhờ thế, mà suốt hơn 30
năm sau ngày đất nước thống nhất, trên các lãnh vực: Nuôi dưỡng Đồ chúng, văn
hóa giáo dục, hành trì tu tập, từ thiện xã hội… tại chùa Phước Duyên đã có nhiều
thành tựu đáng trân trọng.
- Năm Mậu Thìn, 1988, Đạo tràng Phước Duyên được thành lập
(Sau đổi là Đạo tràng Chánh niệm). Đây là một Đạo tràng được chư Tăng giảng dạy
rất thành công. Các Phật tử tu học tại Đạo tràng này, phần nhiều đều trở thành
những Phật tử tại gia rất xứng đáng trong sứ mệnh hộ trì và Hoằng dương Chánh
pháp.
- Nhằm nuôi dưỡng các thế hệ Phật tử tại gia, chư Tăng chùa
Phước Duyên lại lần lượt cho tổ chức Đoàn Phật học Chánh Tâm, đoàn Thiện Tài
Đồng Tử, Học chúng Tô Đà Di, đoàn nữ Phật tử Thanh Tuệ… hiện các đoàn thể này
vẫn sinh hoạt dưới sự dìu dắt và giảng dạy tận tụy của chư Tăng chùa Phước
Duyên. Có thể nói, ngày nay ở Thừa Thiên Huế chưa có nơi nào tổ chức việc tu học
cho tầng lớp Thanh, Thiếu nhi Phật tử đông đảo và có hiệu quả như ở chùa Phước
Duyên.
4. Giai đoạn trùng hưng
a. Năm Canh Thìn, 2000, Hòa thượng trú trì lại cho trùng tu
ngôi Đại hùng bảo điện. Đây là lần trùng tu có dự án mở rộng và nâng lên thành
hai tầng. Công cuộc trùng tu lần này, đã đạt đến mức độ bền vững, đã thể hiện
đúng đắn đường nét mỹ thuật và màu sắc hài hòa trong lối kiến trúc thuần túy của
chùa tháp Việt Nam. Lối kiến trúc mang đậm truyền thống cổ kính Á Đông “Lưỡng
long triều nguyệt”. Có thể nói, sự hoàn mỹ của ngôi chùa Phước Duyên trong lần
trùng tu này, một phần rất lớn là nhờ vào quyết định tinh tế của Hòa thượng
đương kim trú trì. Quyết định giữ gìn ngôi Phật đường đã được Hòa thượng khai
sơn kiến tạo hơn nửa thế kỷ trước, là một quyết định đầy ý thức bảo tồn giá trị
lịch sử, đối với một di sản đã trải qua bao nhiêu biến thiên dâu bể và trong
suốt cả thời kỳ binh lửa chiến tranh mà vẫn còn được giữ gìn nguyên vẹn.
Lược sử
Hòa thượng Tâm Ưng Đảnh Lễ (1918-1968)
Hòa thượng thế danh là VÕ VĂN PHÚ. Ngài sinh ngày 11 tháng 4
năm Mậu Ngọ (Ngày 20.5.1918) tại làng Thành Công, xã Điền Thành, quận Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên (Ngày nay là xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế) trong một gia đình thâm tín Tam bảo. Thân phụ Hòa thượng là cụ ông Võ
Đức Lãng, thân mẫu là cụ bà Nguyễn thị Diên.
Năm 17 tuổi (Ất Sửu, 1925) Hòa thượng xin đầu sư với Hòa thượng
Thanh Thái Huệ Minh (1861-1939) tại chùa Từ Hiếu. Sau khi xuất gia, Hòa thượng
rất tinh cần trong việc tu học, nên được ngài Huệ Minh cho theo học và làm đệ tử
với Hòa thượng Trừng Nguyên Chơn Như, tại chùa Đông Lâm, Huế. Năm 18 tuổi (Bính
Tý, 1936) Hòa thượng được Bổn sư truyền thọ giới Sa di giới, đặt pháp danh là
TÂM ƯNG, pháp tự ĐẢNH LỄ, thể nhập đời thứ 43 dòng Thiền Lâm Tế Chánh tông, đời
thứ 9 dòng Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán.
Năm 20 tuổi (Mậu Dần, 1938) Hòa thượng được Bổn sư cho thọ Cụ
túc giới tại giới đàn chùa Đại Bi, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi thọ Đại giới, Hòa
thượng lại được Bổn sư trực tiếp truyền dạy kinh luật trong suốt thời gian bốn
năm. Năm Tân Tỵ, 1941, Hòa thượng theo học trường Sơn môn Phật học Linh Quang và
Phật học đường Báo Quốc, Huế. Qua năm Bính Tuất, 1946, Hòa thượng được Hòa
thượng Trừng Nguyên Đôn Hậu mời làm Giám tự chùa Linh Mụ. Cũng trong năm này,
trên đường Hoằng pháp, Hòa thượng bị thực dân Pháp bắt giam tại thôn Vân Cù,
thuộc xã Hương Toàn, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, một thời gian sau mới tha
về.
Giữa năm Mậu Tý, 1948, Hòa thượng khai sơn “Phước Duyên tự”.
Năm Quý Mão, 1963, cuộc tranh đấu của Tăng Ni và tín đồ Phật
giáo tại miền Nam Việt Nam với chính quyền Ngô Đình Diệm diễn ra ác liệt. Ngày
24 tháng 6 năm Quý Mão (Ngày 13.8.1963) Đại đức Thích Thanh Tuệ, Tăng sinh chùa
Phước Duyên, tự nguyện thiêu thân để phản đối sự đàn áp Phật giáo của tập đoàn
Ngô Đình Diệm. Sau khi Đại đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu, đã bị chính quyền cướp
mất nhục thân, rồi cho công an, mật vụ bao vây cô lập chùa. Tăng chúng trong
chùa bị bắt bớ, giam cầm, tra hỏi. Từ đó, Hòa thượng phải cải trang đi lánh nạn,
cho đến khi chế độ Diệm sụp đổ, ngài mới trở về chùa.
Năm Ất Tỵ, 1965, nhằm mở rộng cơ sở Hoằng dương Chánh pháp,
ngài ra khai sơn kiến tạo chùa Phước Hải, ở làng Văn Xá, quận Hương Trà, tỉnh
Thừa Thiên (Ngôi chùa này, sau ngày 30.4.1975 đã bị trưng dụng). Nay là chùa
Hội Phước ( Vp BTS GHPGVN huyện Hương Trà).
Đến đầu năm Mậu Thân, 1968, biến cố quân sự xảy ra, với tấm
lòng Từ bi vô lượng, Hòa thượng đã tìm cách đi thăm viếng, ủy lạo, an ủi mọi
người. Nhưng trong cơn binh lửa hỗn loạn, không may rồi ngài cũng thị tịch vào
lúc 16 giờ, ngày 11 tháng Giêng năm Mậu Thân (Ngày 08.02.1968).
Trong sự nghiệp Nhiếp hóa đồ chúng, Hòa thượng đã thế độ cho
nhiều vị đệ tử xuất gia và vô số đệ tử tại gia. Ngày nay, các đệ tử xuất gia của
ngài cũng tiếp nối sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của ngài một cách xứng đáng.
Đơn cử như Hòa thượng Nguyên Ngọc Tánh Hải, hiện là Viện chủ chùa Linh Sơn, Đà
Lạt, Hòa thượng Nguyên Tiến Lương Phương, kế tục trú trì chùa Phước Duyên, Huế…
từ ấy cho đến ngày nay!
“Năm Mươi Năm Lưu trú giữa hồng trần”, ngài không chỉ là bài
thuyết pháp vô ngôn, thù thắng của bậc Trưởng tử Như Lai và chí nguyện cao cả
của bậc Tăng già đạo cao, đức trọng đã không ngừng xả thân vì sự nghiệp “Tam
Tông dung hóa, Tứ nhiếp lợi sanh, Mọi chướng duyên đều trở thành thắng nghĩa…”
như lời truy tán nồng nàn của vị Pháp tử khắc trên bi chí nơi bảo tháp của ngài,
được xây dựng trong khuôn viên chùa Phước Duyên, Huế, mà còn để lại niềm ngưỡng
vọng vô biên đối với nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử cho đến ngày nay.
Lược sử
Đại đức “Vị pháp thiêu thân” Thích thanh Tuệ.
Đại đức thế danh là Bùi Huy Chương. Sinh năm Bính Tuất, 1946,
tại làng Ba Khê, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ ông Bùi Dư. Thân
mẫu là cụ bà Hoàng thị Phục. Đại đức thác sinh trong một gia đình mà song thân
và anh chị em đều sùng kính Tam bảo.
Năm 12 tuổi (Mậu Tuất, 1958), Đại đức thi đậu văn bằng Tiểu
học. Năm 14 tuổi (Canh Tý, 1960), được thân phụ cho phép vào chùa Phước Duyên,
Huế đầu sư với Hòa thượng Tâm Ưng Đảnh Lễ (1918-1968). Năm 15 tuổi (Tân Sửu,
1961), Đại đức theo học tại Phật học viện Báo Quốc và trường Trung học Bồ Đề
Thành Nội, Huế. Năm 16 tuổi (Nhâm Dần, 1962) Đại đức được Hòa thượng Đảnh Lễ cho
làm đệ tử Hòa thượng Nguyên Ngọc Tánh Hải. Cũng trong năm này, Đại đức được Bổn
sư truyền thọ Sa di giới, đặt pháp danh QUẢNG TRÍ, pháp tự THANH TUỆ. Thể nhập
đời thứ 45 dòng Thiền Lâm Tế Chánh tông, đời thứ 11 dòng Thiền Thiệt Diệu Liễu
Quán.
Năm 17 tuổi (Quý Mão, 1963), Đại đức thi đậu Văn bằng Trung học
Đệ nhất cấp. Đây cũng là lúc chính quyền Ngô Đình Diệm đang đàn áp Phật giáo.
Chứng kiến sự tham tàn của chế độ Diệm, Đại đức đã phát nguyện noi theo ngọn
đuốc của Bồ tát Thích Quảng Đức, Đại đức Thích Nguyên Hương, nên vào sáng ngày
24 tháng 6 năm Quý Mão (Ngày 13.8.1963) Đại đức đã tự nguyện thiêu thân trước
cổng tam quan chùa Phước Duyên. Sự tự thiêu của Đại đức dù có đau thương, mất
mát, nhưng cũng đã làm cho tinh thần và ý chí đấu tranh của Tăng Ni, tín đồ ở
miền Nam Việt Nam tăng lên như vũ bão cho đến ngày thắng lợi.
Với lời thơ chân thành tán thán của Thiền sư Tâm Quán khắc nơi
bảo tháp của Đại đức, đủ để thay lời muôn triệu Tăng Ni, Phật tử ghi nhớ mãi mãi
hạnh nguyện cao cả của Người:
“… Em đốt tuổi xuân thành lửa đó,
Cháy ngất trời cao,
Ngọn đuốc rực về sông núi âm u,
Ôi thịt xương em!
Cho tôi quỳ ngàn năm trên đống tro yêu
quý…”
&
Trong suốt 70 năm (1948-2018) chùa Phước Duyên không chỉ là một
chốn Thiền môn trang nghiêm, thanh tịnh, là ngôi chùa bình dị, hài hòa như tinh
hoa của đạo Phật thấm đẫm vào tâm hồn dân Việt, đẹp đẽ như hương sắc mùa Xuân
trong lòng mọi người con Phật, mà chùa Phước Duyên còn được biết đến là một Đạo
tràng Chánh niệm, nơi hội tụ nhiều Phật tử thuần thành, có học, có tu, có tâm
nguyện trong sứ mệnh hoằng dương và hộ trì Chánh pháp, một trung tâm tu học đông
đảo của các thế hệ Thanh, thiếu nhi Phật tử tại Thừa Thiên, Huế.
&
Từ năm 2011 đến năm 2018, với khoảng thời gian bảy năm mà quang
cảnh và kiến trúc chùa Phước Duyên đã có nhiều thay đổi lớn. Hòa thượng trú trì
Thích Lương Phương và Hòa thượng Giáo thọ Thích Thái Hòa đã quyết định trùng tu,
kiến tạo lại nhiều hạng mục công trình.
Đây là lần trùng tu, kiến tạo đại quy mô. Tất cả các hạng mục
công trình đều được xây dựng và nâng lên thành 2 đến 4 tầng. Để dễ nhận thấy
tổng thể kiến trúc của chùa Phước Duyên, có thể phân thành hai khu A và B.
Khu A gồm có:
1. Ngôi chánh điện
- Tầng trên là Đại hùng bảo điện.
(Phần trước phụng thờ Tam bảo).
(Phần sau thờ Tổ khai sơn, Đại đức Thanh Tuệ, và các Phật
tử quá cố)
- Tầng trệt là Giảng đường.
Án ngữ bên trái sân Chánh điện là bảo tháp của Hòa thượng
khai sơn. Bên phải là ngôi nhà Bát giác tôn trí Đại hồng chung. Chú tạo năm ngày
Phật đản PL.2559, Ất Mùi-2015. Trọng lượng 1.000kg.
(Phần này đã được kiến tạo từ trước năm Canh Thìn, 2000).
2. Ngôi nhà hậu
- Tầng trên là nơi thờ tranh tượng Quan Thánh.
- Tầng trệt là phòng trai Tăng.
3. Ngôi nhà phía phải, chếch sau lưng chánh điện.
- Cả hai tầng là Thiền đường và Tăng xá.
4. Ngôi nhà phía trái, chếch sau lưng chánh điện.
- Tầng dưới là Phương trượng của Hòa thượng trú trì.
- Tầng trên là Tăng xá.
5. Ngôi nhà nối liền với Phương trượng và Tăng xá.
- Nhà Trai soạn, nhà ăn.
- Tiếp theo là nhà bếp.
6. Nối tiếp nhà bếp là ngôi nhà hai tầng.
- Tầng dưới là nơi sinh hoạt thường nhật của chư Tăng.
- Tầng trên là Đoàn quán sinh hoạt của GĐPT. Phước Duyên.
Kết cấu đặc biệt của Khu A này, có thể thấy rõ là từ ngôi
Đại hùng bảo điện, mọi người có thể đi liên thông đến các ngôi nhà khác một cách
dễ dàng. Hay đi ngược lại, cũng vô cùng thuận tiện mà không cần phải bước xuống
sân.
Khu B gồm có:
- Nằm về phía phải của Thiền đường là ngôi nhà lầu 4 tầng,
nơi thiết lập “Tàng Kinh Các”. Tàng Kinh Các, cất chứa hàng ngàn Kinh sách quý
hiếm. Hơn 100 tác phẩm biên soạn và dịch thuật của Hòa thượng Giáo thọ Thích
Thái Hòa. Sự nghiệp biên soạn của Hòa thượng đã đóng góp vào kho tàng Văn học
dân tộc và Phật giáo Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị. Ngôi nhà này cũng là
nơi thường trú của Hòa thượng Giáo thọ.
- Nối liền với “Tàng Kinh Các” là ngôi nhà 4 tầng, được
đặt tên là “Thiền đường TỊNH NHÂN”.
Kiến trúc của ngôi nhà lầu 4 tầng này rất rộng rãi, khang
trang. Mục đích của việc xây dựng công trình lớn lao này là để làm nơi lưu trú
cho hằng trăm Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước đến Tham thiền, tu học. Vì
thế, việc thiết kế ngôi nhà có đầy đủ phương tiện sinh hoạt hằng ngày.
Kết cấu của Khu B này, cũng giống như ở Khu A, là từ Tàng
Kinh Các, mọi người có thể đi liên thông qua ngôi nhà 4 tầng một cách dễ dàng.
Kết cấu này, không chỉ tạo cho kiến trúc chùa Phước Duyên có độ thông thoáng,
nhẹ nhàng, mà còn vô cùng thuận lợi trong việc đi lại của chư Tăng, Phật tử vào
mùa mưa gió.
Tổng thể đề án trùng tu, tôn tạo chùa Phước Duyên do Hòa
thượng trú trì và Hòa thượng Giáo thọ thiết kế đã đạt đến mức độ hoàn chỉnh.
Vườn hoa, cây cảnh được bố trí hài hòa, cân xứng, trong một không gian rộng rãi,
thoáng đãng.
&
Có thể khẳng định, tổng thể kiến trúc chùa Phước Duyên ngày
nay đã trở thành một Đại Tòng lâm, một trung tâm tu học của hàng ngàn Tăng Ni,
Phật tử trong và ngoài nước, xứng đáng đóng góp tên tuổi “Phước Duyên Tự” vào
lịch sử quần thể chùa tháp ở miền đất được xưng tán và mệnh danh là Kinh đô Phật
giáo này. (Hết)
Tâm Quang
Hình ảnh chùa Phước Duyên