Tiếp Theo Về Các Bài Phê Bình Bản Dịch Mới Tâm Kinh Của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Trịnh Đình Hỷ_______
Sở
dĩ tôi xin phép viết thêm bài này là vì hai mục
đích: thứ nhất, là để xin
lỗi GS Lê Tự Hỷ và anh Nguyễn Minh Tiến về những lời nhận
xét và phê
bình khiếm nhã của tôi trong bài trước, đã không khỏi làm phiền
lòng hai vị; và thứ nhì, là để góp thêm ý
kiến về một vài từ đặc
biệt trong Tâm
Kinh, sau khi nhận được lá thư của một anh bạn
thân Phật
tử.
Đầu tiên, tôi xin kể lại sự
tình câu
chuyện: mới cách đây khoảng 2 tháng, tôi có nhận được qua một người bạn
bài phê
bình của ông Jayarava-Attwood về Bản dịch mới Tâm
Kinh của Thầy Nhất
Hạnh. Tuy không phải là đệ
tử trực tiếp và chỉ theo
dõi từ xa các bài giảng của Thầy, tôi cũng cảm
thấy bất bình vì một số chỉ
trích (theo tôi) nặng nề, khe khắt, và nhiều khi không chính
đáng của bài đó. Tôi có viết một bài để trả
lời, nhưng không đăng trên mạng và chỉ gửi cho một số bạn. Sau đó, tôi
lại nhận được bài mới đăng về đề tài đó của GS Lê Tự Hỷ, đồng
thời được đọc một bài đã đăng trên Thư viện Hoa
Sennăm 2014 của anh Nguyễn Minh Tiến. Từ đó mới nảy ra trong tôi ý
kiến viết trong cùng một bài một số nhận
xét về ba bài phê
bình đó.
Có lẽ đó là một điều sai
lầm, vì có thể gây nên cảm
tưởng là tự
nhiên tôi đi tìm tranh
luận, đương đầu với cả ba tác
giả cùng một lúc. Thật ra, tôi không hề có ý
định như vậy, mà chỉ muốn, nhân những bài phê
bình đó, đóng góp thêm một vài ý
kiến: thứ nhất là về lý
do (theo tôi hiểu) Thầy Nhất
Hạnh đã viết ra Bản dịch mới, và thứ nhì là về nguồn gốc của Tâm
Kinh, theo những nghiên
cứu Phật
học mới nhất. Nhưng trong khi đưa ra nhận
xét trên từng bài phê
bình một, tôi đã không tránh
khỏi làm một số phê phán khắt khe và dùng những lời lẽ khiếm nhã làm mích
lòng GS Lê Tự Hỷ và anh Nguyễn Minh Tiến. Điều đó làm tôi rất ân
hận, và tôi xin thành
thật xin
lỗi GS và anh.
Các bất đồng
ý kiến khi được phát
biểu thường gây nên những cảm
xúc tiêu
cực, mặc dù ai cũng biết rằng chỉ có qua trao
đổi và thảo
luận, sự hiểu
biết của con
người mới tiến
triển và mở
rộng được. Muốn tránh những tác
động tiêu
cực đó (mà trong y khoa thường gọi là « tác
động phụ », nhưng đôi khi lại trở
thành tác
động chính!), người viết cũng như người đọc phải cố
gắng dẹp
bỏ bớt cái « ngã » của mình – đó là điều khó nhất -, đồng
thời không nhắm vào cá
nhân người tham
dự, mà chỉ tập trung vào nội dung của cuộc thảo
luận. Riêng đối với người viết, phải thận
trọng cân
nhắc từng chữ, tránh tất cả những câu, những từ có thể gây phản
ứng tiêu
cực, tức là động chạm tới cá
nhân và làm phiền
lòng người đọc. Đó không phải chỉ riêng là bài học « chánh
ngữ » của đức
Phật, mà còn là của các tục
ngữ hay cổ
ngữnhư « hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói »; « lời
nói như một mũi tên, bắn vào tai ai không rút ra được nữa »… Trong bài
viết của tôi vừa qua, có những lời chỉ
trích quá
đáng, khiếm nhã đối với cả ba vị, và đặc
biệt khiếm lễ với GS Lê Tự Hỷ, xin quí vị hoan
hỉ bỏ qua cho, và coi như là một sự vụng
về, thiếu khéo léo (nói như Thầy Nhất
Hạnh) của một kẻ còn non nớt trên con
đường học và tu theo đạo
Phật.
_______________
Sau đây là một đoạn của lá thư anh bạn tôi mới gửi, anh Phạm Như Phúc ở bên Đức,
hồi còn sinh viên cũng như tôi là đệ
tử của Thầy Thiện
Châu:
« Còn về chữ "tính không" cũng là một đề tài để trao
đổi. (…) Có một
lần nghe Hòa
Thượng Thanh Từ nói chuyện sau một năm nhập
thất được phát trên Youtube. Lần đó Hòa
thượng có nói: lâu nay chúng
tacứ nói về "tính không" mà trong Tâm
Kinh thì lại nói đến "tướng không", tướng
không của các Pháp. Thầy cũng chỉ nói vậy thôi chứ không luận
bàn tiếp (ghi theo trí
nhớ).
Theo gợi ý đó, Phúc có tìm
hiểu lại Tâm
Kinh. Trong thuật
ngữ triết
học của Trung
quốc có "tướng, tính, thể, dụng". Chữ "tướng" không được dịch từ một từ
chữ Phạn tương
ứng, và chỗ này không thể dịch là "tính không" được. Trong bài viết của
anh cũng như của ông Lê tự Hỷ, tuy có diễn ý khác nhau nhưng cũng đưa về "đặc tính
không có tự tính". Tức là "tướng không" = "tính không".
Phúc cũng cho câu "Thị chư
pháp không tướng, bất
sanh, bất
diệt ....." là một câu rất trọng
yếu trong Tâm
Kinh, nên dịch: vì thế
tướng không của các pháp, không sanh, không diệt,... Quan trọng vì đã nói
lên quan
điểm "bản thể luận" của Phật
giáo Đại
Thừa. Chư
pháp được hiểu vũ
trụ, là pháp
giới. Còn "tướng không" có thể hiểu cái vô
tướng, thực
tướng, chân
như...
Nếu hiểu theo quan
điểm bản
thể luận này thì "trong không, không có sắc, có thọ... " mới hiểu được và
không có mâu
thuẫn với những ý trước đó trong Tâm
Kinh. »
_____________________________
Vấn đề anh Phúc đặt ra cũng là về hai từ « tánh (tính) » và « tướng »,
trong Tâm
Kinh nói riêng và trong kinh
điển PG nói chung.
Theo tôi thì « tánh » và « tướng » khác nhau, và không thể nói « tướng
không » = « tánh
không » được. Vì sao vậy?
Về chữ « tướng »
« Tướng
相 » tiếng Hán, là được dịch từ tiếng sanskrit « lakṣaṇā »
(pali lakkhaṇa), có nghĩa là
« dấu, đặc
tính, tính
chất » (mark, characteristic, quality), là hình
tướng mà một vật hiện
ra với mình. Như « ti-lakkhaṇa »
(Tam
pháp ấn) là « 3 đặc
tính » của cuộc
đời (3 characteristics of existence): vô
thường, khổ, và vô
ngã, dạy bởi đức
Phật.
Trong Tâm
Kinh, từ này được dùng trong câu tiếng Hán « Thị chư
pháp không tướng 是諸法空相 », (« Iha
sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā » tiếng sanskrit). Hai chữ « không
tướng 空相», « śūnyatā-lakṣaṇā »,
đi sát với
nhau, làm chúng
ta liên
tưởng tới « Kinh Vô
ngã tướng », « anatta-lakkhaṇa
sutta » tiếng pali, là bài thuyết
pháp thứ nhì của đức
Phật, nói về « đặc
tính vô
ngã », một trong 3 đặc
tính của cuộc
đời.
Và nếu ta hiểu rằng « không » (śūnyatā) là
sự khái quát hóa của « vô
ngã » (anatta), tức là
« không » áp
dụng cho mọi pháp (dharma-śūnyatā),
trong khi « vô
ngã » áp
dụng cho mỗi người (pudgala-śūnyatā),
thì ý
nghĩa của « śūnyatā-lakṣaṇā »
trở nên rõ rệt, sáng
tỏ.
Như vậy, câu « Thị chư
pháp không tướng »(« Iha
sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā ») có thể dịch là « mọi
pháp đều có đặc
tính là ‘không’ » (Here, all dharma have the
mark of emptiness).
Về chữ « tánh »
« Tánh (tính theo giọng Bắc, tánh theo giọng Nam) » thì khác hẳn. Chữ Hán
« tánh 性 » không được dịch từ một chữ sanskrit tương
ứng, và chúng
ta nên để
ý là trong bài Tâm
Kinh không có một chữ « tánh » nào cả! Chữ « tánh » là được thêm vào
sau này, tiếng Hán sau chữ « không » thành « không tánh 空性
», và tiếng Việt trước chữ « không » thành « tánh
không », để phân
biệt cho rõ « không (danh từ) » (śūnyatā),
và « không (tính từ) » (śūnya).
Nói một cách khác, « tánh
không » có thể thay thế bằng « cái không » hay « sự không ». « Tánh
không » là tính
chất « không », chứ không phải là đặc
tính của « không ».
Lý do theo tôi là, trong từ sanskrit « śūnyatā »,
« –tā » được dùng như một hậu tố
(suffix), gắn vào sau « śūnya »
(tính từ), để trở
thành « śūnyatā » (danh
từ). Điều này cũng không khác gì các hậu tố « -té »
trong tiếng Pháp (như : bon - bonté; léger - légèreté; clair - clarté…), « -ty »
trong tiếng Anh, « -tà » trong
tiếng Ý, v.v. Qua đây, chúng
ta có thể nhận
thấy có nhiều từ sanskrit rất gần với các từ tiếng châu Âu, do nguồn gốc
chung của các ngôn
ngữ Indo-aryen và Indo-european.
Trong khi đó, tiếng Việt cũng như tiếng Hán không có hậu tố, nên phải dùng cách
khác để phân
biệt tínhtừ và danh từ, tức là thêm một từ nữa, thường là phía trước.
Chẳng hạn như: xanh (tính từ) - màu xanh (danh từ); ngọt - vị ngọt; đẹp - vẻ
đẹp; đau - nỗi, hay niềm đau… Các từ thường được dùng nhất là « cái, sự, điều,
chuyện… », nhưng còn nhiều từ khác nữa, mỗi từ quen dùng cho một vật thể.
Nói tóm
lại, « tánh
(tính) không » không có nghĩa là « đặc
tính của không » mà chỉ có nghĩa là « cái không », vậy thôi. Chúng
ta có thể bỏ từ « tánh » đi cũng được, nếu từ này chỉ gây thêm ngộ
nhận, và thay « tánh (tính) không » bằng « cái không »…
Tại sao lại nói « trong cái không » ?
Trở lại một câu quan trọng nữa trong Tâm
Kinh, là « Thị
cố không trung vô
sắc, vô
thọ tưởng hành thức 是故空中無色,無受想行識 », tiếng sanskrit là « tasmāc
Chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam ».
Câu này thường được dịch là : « Như vậy, trong
cái không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, v.v. » (Therefore,
Sariputra, in
emptiness there is no form, no feelings, no perception, no mental
formations, no consciousness).
Người ta có thể đặt ra một câu hỏi là: tại sao chữ « trong » lại được dùng
(« không trung 空中»,« śūnyatāyāṃ »)?
Để đưa
tới sự ngộ
nhận là « trong không
gian của cái ‘không’ »? Đáng
lẽ ra phải dùng chữ « do » hay chữ « vì », bởi vì ý của câu là: « do cái
‘không’, cho nên… », hay « vì cái ‘không’, cho nên… ».
Có lẽ chúng
ta sẽ tìm được câu trả
lời khi tìm lại và so
sánh, cũng như Jan Nattier (1), hai bản
kinh tiếng sanskrit: bản Tâm
Kinh tiếng sanskrit và một đoạn của Kinh Đại Bát
Nhã(Pañcaviṃśatisāhasrikā,
25000 giòng) tiếng sanskrit, dịch bởi Kumārajīva sang
tiếng Hán. Thay vì « tasmāc
Chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam »
trong Tâm
Kinh, thì Kinh Đại Bát
Nhã chỉ có câu « na tatra
rūpaṃ na vedanā na na saṃjñān na saṃskārān na vijñānaṃ », cũng trong đoạn
ấy. Như vậy có nghĩa rằng « na tatra
rūpaṃ… » đã được thay thế bằng « tasmāc
Chāriputra śūnyatāyāṃ rūpaṃ… ». Xin nhắc lại là giả
thuyết hiện nay của các nhà Phật
học, sau các nghiên
cứu của JN (1992), là Tâm
Kinh đã
được viết bằng tiếng Hán, rồi sau đó dịch ngược lại sang tiếng sanskrit,
và phần chính, cốt
lõi của nó (trong đó có câu trên) đã được chép
lại gẩn như nguyên văn
từ bản dịch sang tiếng Hán của Kinh Đại Bát
Nhã bởi Kumārajīva.(1)
Như vậy
thì chúng
ta có thể đưa ra giả
thuyết, táo bạo nhưng có thể gần sự
thật, là chính Kumārajīva là
người đã dịch « na tatra rūpaṃ… »
là « Thị
cố không trung vô sắc… », và sau đó người dịch ngược lại sang tiếng
sanskrit (rất có thể là Huyền
Trang, theo JN) đã dịch là « tasmāc
Chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpaṃ… ». tatra có
nghĩa là « tại đó, nơi đó, vì
vậy » (there, therein, in that place, in that case, on that occasion,
under those circumstances, then, therefore, theo Monier-Williams
Sanskrit-English Dictionary). Đáng
lẽ ra, Kumārajīva không
nên thêm vào « không trung 空中 », mà chỉ nên dịch « na
tatra rūpaṃ… » là « Thị
cố vô
sắc 是故無色 » là đủ rồi. Để sau này Huyền
Trang (?) khỏi dịch ngược lại là « tasmāc
Chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpaṃ… » cho dài giòng thêm…
Nếu đúng như vậy
thì cụm từ « trong cái không » (không trung 空中,śūnyatāyāṃ)
là thừa thãi, không cần
thiết, vì không có trong bản gốc Kinh Đại Bát
Nhã mà từ đó Tâm
Kinh được rút ra.
Về « bản
thể luận »
Còn chuyện Tâm
Kinh có nói đến « bản
thể luận » (ontology) hay không, thì lại là một vấn
đề khác. Riêng tôi không nghĩ như vậy.
Theo tôi, nội dung triết lý của Bát
Nhã Ba-la-mật-đa và Trung
Quán, tuy xuất
hiện hơn 5 thế kỷ sau đức
Phật, nhưng vẫn còn rất gần với đạo
Phật nguồn gốc (trừ vai
trò của các vị Bồ
Tát và hạnh
nguyện Bồ
Tát), dựa lên các giáo
lý duyên
khởi, trung
đạo, vô
ngã và không, liên
quan mật
thiết với
nhau. Và, theo phân tích của nhà Phật
học David Kalupahana (2, 3), triết lý này vẫn còn nằm trong « hiện
tượng luận » (phenomenology), và đi
theo những lời dạy ban
đầu của đức
Phật Thích
Ca (4). Tuy
nhiên trong những thế kỷ sau, với sự xuất
hiện của một số khái niệm mới như Chân
Như, Phật
tánh, Như
Lai tạng, Pháp
giới, v.v., trong các Kinh
Đại Thừa khác, đạo
Phật đã chuyển
hướng sang một giai đoạn siêu hình hơn, nặng về « bản
thể luận », và lan truyền dần tại Đông Á và các nước theo Kim
Cương thừa (5).
Ngay cả Thiền
tông, lấy « tánh
không » và Kinh Bát
Nhã làm căn
bản, cũng (bắt đầu từ Lục
tổ Huệ Năng) bị ảnh
hưởng của khái niệm
Phật tánh, tự
tánh, và như vậy mang trong mình một mâu
thuẫn nội tại. Điều này đã được tôi trình bầy gần
đây trong một bài viết tên là : « Căn
bản triết lý và kinh
điển của Thiền
tông » (6).
Cảm ơn anh Phúc đã góp thêm ý
kiến và cho tôi dịp trình bày thêm ý
kiến về một vài từ khó dịch trong Tâm
Kinh.
Xin trân
trọng, và chúc quí vị thân
tâm an
lạc và một năm mới 2018 đầy sức khoẻ, niềm vui và hạnh
phúc.
Olivet, ngày 24/12/2017
Trịnh Đình Hỷ (Nguyên Phước)
(Thư
Viện Hoa Sen)
Tài liệu trích dẫn, chú thích
(1) Jan Nattier, The Heart Sūtra: a Chinese apocryphal text?
Journal of the International Association of Buddhist Studies. 15 (2) 153-223
(1992)
(2) David Kalupahana, Buddhist Philosophy: A Historical Analysis.
The University Press of Hawaii, Honolulu (1976)
(3) David Kalupahana, Mulamadhyamakakarika of Nagarjuna: The Philosophy of the
Middle Way
Motilal Banarsidass Publ. Delhi (1991)
(4) Thiết tưởng cũng nên nhắc lại các lời dạy thực
tiễn và thực
dụng của đức
Phật Thích
Ca:
- « Xưa
nay, ta chỉ dạy có một điều, là khổ và con
đường diệt
khổ »; « Cũng như nước đại
dương chỉ có một vị mặn, giáo
pháp của ta chỉ có một vị, là vị giải
thoát ».(Cullavaga, tập 5
của Luật
Tạng)
- Theo đức
Phật, có một số câu hỏi không thể trả
lời được, gọi là « avyākata »
(pali, 10 câu), « avyākṛta »
(sanskrit, 14 câu), như « vũ
trụ vĩnh
cửu hay không vĩnh
cửu, vô
biên hay không
vô biên, tâm
hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như
Lai có còn hay không sau
khi chết ». Và khi tỳ
kheoMalunkyaputta tới vặn
hỏi ngài về những câu hỏi đó, thì ngài trả
lời bằng ẩn
dụ của một người bị bắn một mũi tên độc, đặt rất nhiều câu hỏi mà không
chịu nhận chữa trị, và như vậy sẽ chết trước khi nhận được trả
lời.(Cula-malunkyovada Sutta,
trong Trung
Bộ Kinh, 63).
- Trong Sabbasava Sutta (trong Trung
Bộ Kinh, 2), đức
Phật cũng nói tới 16 câu hỏi không nên tự đặt ra, vì chỉ làm cho chấp
chặt thêm vào cái « ta », và gây thêm phiền
não: « Ta là ai? Ta
ra sao? Ta có mặt hay không? Trong quá
khứ, ta có mặt hay không, ta
ra sao? Trong tương lai, ta sẽ có mặt hay không, ta sẽ ra sao?, v.v. »
Đức Phật chỉ đặt trọng
tâm vào hiện
tượng tâm
lý là sự « khổ đau » (duḥkha),
và gạt bỏ mọi vấn
đề về bản
thể, siêu hình, chỉ làm mất thời
giờ mà không mang lại gì. Do đó, đạo
Phật là một « hiện
tượng luận » (phenomenology), ngược lại với các triết lý, tôn
giáo khác đồng
thời với ngài, đầu tiên là truyền
thống Veda. Theo giáo
lý Veda, có những thực
thể thường
hằng, bất
biến, như tiểu
ngã (atman), Đại
ngã (Brahman), nhưng theo đức
Phật, không có tự
tánh (svabhāva), thường
hằng, bất
biến, mà chỉ có những hiện
tượng luôn luôn biến
đổi, không độc
lập, không có thực
thể, theo nhân
duyên mà thành.
(5) Nhưng chỉ một vài trăm năm sau đức
Phật viên
tịch, đạo
Phật đã phân
chia ra làm nhiều bộ
phái, trong đó có phái Sarvāstivāda (Nhất
Thiết Hữu) trở
về với khái niệm tự
tánh, vừa có mặt trong quá
khứ, hiện
tại lẫn tương lai, phái Pudgalavāda theo
thuyết « cá
nhân » để giải
thích nghiệp và tái
sinh, và phái Lokottaravāda chủ
trương tính
chất siêu
nhiên của chư Phật và Bồ
Tát. Các bộ
phái đó đã trở
về với « bản
thể luận » (ontology) và khơi mào cho sự xuất
hiện sau này của Đại
Thừa với khái niệm tự
tánh, trình bày trong các Kinh chủ trương tathāgatagarbha (Như
Lai tạng), như Kinh Như
Lai tạng, Đại
Bát Niết Bàn sanskrit, Thắng
Man phu nhân, Hoa
Nghiêm, Lăng
Già, Lăng Nghiêm, v.v.
Chỉ có Kinh Bát
Nhã Ba-la-mật-đa và Trung
Quán, là vẫn trung
thành với giáo
lý ban
đầu của đức
Phật, phủ nhận tự
tánh và triển
khai triết lý « không » (đến nỗi có một nhà Phật
học, A. K. Warder, đã nêu lên câu hỏi là « Nāgārjuna có
phải là thuộc Đại
Thừa hay không? »)
(6) Trịnh Đình Hỷ, Căn
bản triết lý và kinh
điển của Thiền
tông
https://thuvienhoasen.org/a28061/can-ban-triet-ly-va-kinh-dien-cua-thien-tong
Bài liên
quan:
-Tâm
Kinh Tuệ Giác Qua Bờ (Thích Nhất
Hạnh)
-Tâm
kinh Tuệ Giác Qua Bờ (Bản gốc Làng Mai)
-Có
Nên Dịch Lại Tâm Kinh Hay Không (Nguyễn Minh Tiến)
-Bát-nhã-ba-la-mật-đa
tâm kinh (Quảng Minh dịch)
-Bát
Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (nhiều dịch giả)
-Dẫn
Vào Tâm Kinh Bát-nhã (Thích Tuệ Sỹ)
-Bản
Lai Vô Nhất Vật…(Nguyên Giác)
-Suy
Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh (Nguyên Giác)
-Jayarava
phê bình Thích Nhất Hạnh đã biến đổi Tâm Kinh (Bản dịch Việt của Phước
Nguyên)
-Vài
suy nghĩ khi đọc bài “Jayarava phê bình Thích Nhất Hạnh đã biến đổi Tâm Kinh” (Nguyễn
Minh Tiến)
-Bát
Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Giải (Thích Duy Lực)
-Vài
nhận xét về vấn đề dịch lại Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh (Lê Tự Hỷ)
-Về
Các Bài Phê Bình Bản Dịch Mới Tâm Kinh Của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh (Trịnh
Đình Hỷ)
-Vài
Nhận Xét Về “ Về Các Bài Phê Bình Bản Dịch Mới Tâm Kinh Của Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh Của Bác Sĩ Trịnh Đình Hỷ » (Lê Tự Hỷ)
-Cốt
lõi bản dịch mới Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh qua bài viết của Trịnh Đình Hỷ (Nguyễn
Minh Tiến)