Apprendre la mort pour mieux vivre
Lama Denys Rinpoché
Hoang Phong chuyển ngữ
Lama Denys Rinpoché (1949-)
Lời giới thiệu của người chuyển ngữ
Dưới
đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người
Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ,
vị Thầy chính thức của ông là nhà sư nổi tiếng Kalu Rinpoché
(1905-1989), ngoài ra ông còn được thụ giáo thêm với rất nhiều vị Thầy
lỗi lạc khác như Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, Dudjom Rinpoché, Kangyr
Rinpoché, Pawo Rinpoché X, Dilgo Khyentsé Rinpoché, Karmapa XVI, v.v.
Hiện ông trụ trì một ngôi chùa Tây Tạng tại Pháp và cũng là chủ tịch
danh dự của Tổng hội Phật giáo Âu Châu.
Các bài viết cũng
như bài giảng của ông rất cô đọng, thiết thực và sâu sắc, dung hòa và
kết hợp thật tuyệt vời các truyền thống Phật giáo Tây Tạng và tinh thần
khoa học và duy lý của Tây Phương. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng
Pháp của bài giảng này trên trang mạng: http://ciret-transdisciplinarity.org/bulletin/b19c20.php.
Điều chủ yếu nhất chính là hiện tại
Nguyên
lý tương liên là nguyên tắc căn bản nhất trong Phật giáo, chi phối tất
cả mọi sự vật, khiến chúng luôn ở trong một tình trạng tương kết với
nhau và thường xuyên chuyển đổi. Bản chất luôn chuyển động và tạm thời
đó của tất cả mọi sự hiện hữu được gọi là "vô thường". Sự thực đó mang
giá trị toàn cầu, tác động đến toàn thế giới kể cả con người và trong
bất cứ hoàn cảnh nào. Nhờ vô thường nên sự sinh, cái chết và sự
hiểu biết mới có thể xảy ra được; vô thường cũng chính là lý do khiến
chúng ta chết (câu
trên đây nêu lên một tầm nhìn thực tế về sự hiện hữu và một khía cạnh
thật tích cực của vô thường: đó là sự hiểu biết. Nhờ vô thường sự hiểu
biết mới có thể xảy ra và thăng tiến được, nếu không thì u mê sẽ vẫn
mãi mãi là u mê).
Thông thường chúng ta không mấy khi chú ý đến tác động của vô thường, nhất là đối với bản thân mình. Cái ngã ("cái tôi")
có xu hướng che giấu bản chất vô thường của nó, tức là hiện thực về cái
chết của chính nó, một hiện thực không tránh né được cũng không biết
trước được ("cái
tôi" hay "cái ngã" cũng không thoát khỏi nguyên lý vô thường của vạn
vật, cũng đổi thay và chết, nếu xem nó là "linh hồn",thì cái "linh hồn"
ấy cũng sẽ vô thường như tất cả mọi hiện tượng khác).
Khi
nào ý thức được thật minh bạch vô thường cũng hàm chứa các khía cạnh
tích cực thật tuyệt vời, thì điều đó trước hết cũng đã giúp mình buông
bỏ dễ dàng những gì bên ngoài (bởi vì chúng chỉ là phù du),
và nhờ đó mình cũng sẽ tạo được một cuộc sống phóng khoáng, hài hòa và
ít xung đột hơn. Nếu ý thức được vô thường và chuẩn bị cho cái chết của
mình, và nhất là thành thực chấp nhận sự hiện thực của nó, thì nhất
định chúng ta sẽ cảm thấy ít bám víu hơn và tạo được cho mình một cuộc
sống tròn đầy và phong phú hơn. Khi thời điểm không tránh khỏi được xảy
đến, thì khi đó mình cũng sẽ không quá kinh hoàng như trong trường hợp
không chuẩn bị trước. Tập ý thức thật mạnh về hiện thực của cái chết
đối với bản thân mình không phải là một hình thức luyện tập khiếp đảm,
ít nhất cũng không phải là một hình thức yêu thích những sự đau đớn
(masochistic), mà chỉ là một cách giúp mình biết sắp xếp lại các mục
đích ưu tiên trong cuộc sống, hầu giúp mình biết tập trung vào những gì
thiết thực trong hiện tại. Đấy chính là ý nghĩa của việc tìm hiểu cái
chết với tất cả sự ý thức đúng đắn về vô thường, sự tìm hiểu đó thật
hết sức cần thiết hầu giúp mình biết sống một cách tốt đẹp hơn trong
những giây phút của hiện tại này (Lạt-ma
Denys mỗi khi nói đến sự ý thức về vô thường đều nhấn mạnh đến tính
cách "đứng đắn" và "đích thật" của sự ý thức đó, bởi vì nhiều người khi
ý thức được sự tạm bợ của thế giới này thì tìm đủ mọi cách tận hưởng
những thứ phù du trong cuộc sống, thế nhưng đấy chỉ là cách mang lại
thêm cho mình đủ mọi thứ khổ đau và đổ vỡ, và tự mình tàn phá kiếp sống
quý giá này của mình mà thôi. Hãy nhìn vào vô thường qua các khía cạnh
tích cực của nó).
Sống hài hòa với cái chết
Khả
năng đón nhận cái chết trong sự hài hòa tùy thuộc vào phong cách sống
trong suốt cuộc đời đang sắp kết thúc của mình. Cái chết cũng tương tự
như một cuộc thi, một hình thức kết quả mang lại từ sự sống, và thật ra
thì đấy cũng là cơ hội cuối cùng để chứng tỏ kiếp sống đúng đắn của
mình (nhắm
mắt chính là dịp sau cùng để nhìn lại kiếp người của mình, do đó mình
cũng nên chuẩn bị ngay từ bây giờ hầu cái nhìn sau cùng đó sẽ mang lại
cho mình một sự hãnh diện hay ít nhất cũng là một nụ cười thanh thản
trên môi).
Nếu
muốn đối mặt với cái chết một cách tốt đẹp thì điều hết sức quan trọng
là phải tìm hiểu nó ngay từ bây giờ, bằng cách nhìn thẳng vào bản chất
vô thường của bản thân mình. Ngay trong lúc này nếu biết thành thực ý
thức về cái chết, bằng cách làm quen với sự hiện thực của nó, thân
thiện với nó, thẳng thắn chấp nhận nó, thì sau này mới mong vượt thoát
tình trạng chỉ biết ngoảnh mặt đi và sợ hãi mà nó sẽ tạo ra cho mình
nếu mình không chuẩn bị trước. Suy tư về ý nghĩa của sự sống và cái
chết tự nó cũng đã là một sự giải thoát thật sâu xa.
Ở cấp bậc cao nhất, việc tìm hiểu cái chết chính là tâm điểm của tất cả các truyền thống tâm linh (thật
hết sức hiển nhiên bởi vì tất cả các tín ngưỡng đều phát sinh từ sự bám
víu vào sự sống, phản ảnh bản năng sợ chết của con người),
nói chung là cách tìm hiểu xem cái chết của mình - hay cái ngã của mình
- sẽ xảy ra như thế nào? Tâm điểm của vấn đề này thật ra cũng chỉ xoay
quanh một thắc mắc chủ yếu nhất: "Vậy thì ai sống và nhất là ai chết?".
Giải đáp hoàn toàn tùy thuộc vào quan điểm về bản chất của tri thức -
có nghĩa là đối với những người chủ trương duy vật thì cái gì sẽ cùng
chết với thân xác, và đối với những người chủ trương duy tâm thì cái gì
sẽ tiếp tục tồn tại sau cái chết vật chất. Khi nào quán nhận được chỉ
có bản thể "siêu cá nhân" (supra-individual) của tâm thức là sống còn (tồn tại sau cái chết) và chỉ có cái tôi (hay cái ngã)
là chết, và đồng thời cũng quán thấy được bản chất đích thật của những
thứ ấy và cả các đặc tính ảo giác của chúng, thì đấy sẽ là cách mang
lại cho mình một sự giải thoát tối thượng, kể cả đối với cái chết. Đối
với một người nào đó khi cái tôi của mình đã chết, đồng thời cũng nhận
biết được bản thể của tâm thức mình đã vượt thoát khỏi mọi sự biến
động, thì người này nào còn biết sợ hãi một thứ gì khác nữa?
Sự sống vận hành theo từng chu kỳ
Sự
sống theo quan điểm Phật giáo không diễn tiến theo một đường thẳng,
cũng không bắt đầu từ một khởi điểm và sau một hạn kỳ nhất định nào đó
thì sẽ dừng lại bằng cái chết như là một sự chấm dứt vĩnh viễn. Sự sống
mang tính cách chu kỳ: cái chết chỉ là sự kết thúc của sự sinh. Cái
chết sẽ không thể nào xảy ra được nếu không có sự sinh [xảy ra trước
nó], cũng vậy không thể nào có sự sinh mà lại không có cái chết [xảy ra
trước đó], cả hai [sự sinh và cái chết] đều là các điều kiện tối cần
làm hiện ra sự sống, cả hai đều là các thành phần bất khả phân của sự
sống đó.
Sự sinh và cái chết cũng chỉ là các giai đoạn (passage) hay các sự chuyển tiếp (transition) mà Phật giáo Tây Tạng gọi là "bardo" [1] (xem ghi chú của tác giả bên dưới),
nghĩa từ chương của chữ này là "trung gian" hay "chuyển tiếp", có nghĩa
là các giai đoạn tiếp nối nhau trong chu kỳ của sự sống, điều này cũng
cho thấy tất cả chúng ta luôn ở trong tình trạng "tạm thời" (transit),
thường xuyên chuyển đổi từ hết thể dạng tri thức này sang thể dạng tri
thức khác.
Quan điểm trên đây được giải thích trong một trước tác nổi tiếng - Quyển sách Tây Tạng về cái chết/Bardo Theudreul
- mô tả thật tỉ mỉ quá trình của cái chết và sự tái sinh dựa vào các
hình ảnh biểu trưng mang nặng tính cách bí truyền (esoteric). Quá trình
đó nêu lên các thể dạng "biến đổi" hay "hoán chuyển" của tâm thức,
không những [ở cấp bậc thu hẹp] từ khoảnh khắc tri thức này sang khoảnh
khắc tri thức khác, mà còn [ở các cấp bậc rộng lớn hơn] từ thể dạng
hiện hữu này sang thể dạng hiện hữu khác [2] ("Quyển sách Tây Tạng về cái chết" được xem là trước tác của nhà sư Padmasambhava/Liên Hoa Sinh, thế kỷ thứ VIII).
Xin
lưu ý là các sự hoán chuyển đó sẽ đưa đến sự "tái sinh" (renaissance)
mả người ta thuờng gọi sai là "đầu thai" (reincarnation). Sự tái sinh
không dựa vào bất cứ một thực thể hay một "linh hồn" [3] mang tính cách
vững chắc và trường tồn nào làm nền tảng cho sự tái sinh đó (trái
lại "đầu thai" được hiểu như là sự hiển hiện trở lại của một cá thể
mang theo với nó "linh hồn" của chính nó trong kiếp sống trước, Phật
giáo không chủ trương một sự tiếp nối theo mô hình đó, bởi vì tất cả
đều biến đổi trong thế giới hiện tượng, kể cả "linh hồn", chẳng hạn
trong cùng một kiếp sống "linh hồn" của một người lớn tuổi sẽ không còn
giống với "linh hồn" của chính người này lúc ấu thơ). Hơn nữa và cũng thật hết sức quan trọng là các khái niệm này (sự tái sinh) dù không được kiểm chứng cụ thể nhưng không phải vì thế mà bắt buộc tất cả chúng ta đều phải có một niềm tin (để chấp nhận hiện tượng tái sinh),
bởi vì mỗi người tùy khả năng hiểu biết của mình có thể chấp nhận hay
không chấp nhận quan điểm trên đây, và cả các hình thức ứng dụng rút
tỉa từ quan điểm đó (chúng
ta không bắt buộc phải tin hay không tin vào sự tái sinh, bởi vì điều
đó đòi hỏi phải có một khả năng hiểu biết sắc bén, chỉ có các thể dạng
lắng sâu trong thiền định mới có thể giúp mình cảm nhận được các hiện
tượng tái sinh một cách minh bạch. Ở cấp bậc thông thường thì sự kiện
"tin" hay "không tin" vào sự tái sinh sẽ ảnh hưởng đến cung cách hành
xử của mình trong cuộc sống. Chẳng qua vì sự chọn lựa giữa hai quan
điểm đó sẽ có thể hoặc khiến mình trở thành một con người biết hướng
vào đạo đức để vạch ra cho mình một hướng đi hầu chuẩn bị cho mình một
kiếp sống khác tốt đẹp hơn trong tương lai, hoặc trở thành một con
người chỉ biết sống buông thả, vô trách nhiệm đối với mình và kẻ khác,
không cần biết đến các hậu quả do tư duy và hành động của mình sẽ mang
lại cho mình, bởi vì mình cho rằng tất cả sẽ chấm dứt sau khi chết).
Điều quan trọng sau cùng là các sự hiểu biết về quá trình hoán chuyển
từ thể dạng tri thức này sang thể dạng tri thức khác, từ khoảnh khắc
này sang khoảng khắc khác - có nghĩa là các mô hình chuyển tiếp của các
sự cảm nhận sau khi cái chết vật chất xảy ra - rất có thể sẽ vẫn còn
tiếp tục thuộc vào lãnh vực giả thuyết [trong lâu dài]. Thật vậy, chỉ
khi nào quán thấy được bản chất sâu kín của tâm thức mình thì khi đó
mình mới có thể xác nhận dứt khoát được các điều đó (như
đã nói đến trên đây, chỉ có sự suy tư lâu dài và các thể dạng lắng sâu
trong thiền định mới có thể giúp mình quán thấy được các nguyên nhân
nào đã đưa đến sự hiện hữu này của mình, cũng như các yếu tố nào và các
giai đoạn trung gian nào sẽ đưa mình đến một sự tái sinh mới).
Dầu
sao các khảo cứu trong thế giới Tây Phương về vấn đề này cũng đáng quan
tâm. Dù các khảo cứu này được thực hiện trong tinh thần khoa học thế
nhưng kết quả mang lại đều phù hợp với những điều chỉ dạy theo truyền
thống và các kinh nghiệm lâu đời nêu lên trong quyển sách Bardo Theudreul/Quyển sách Tây Tạng về cái chết (trong
Phật giáo Tây Tạng có một phép luyện tập thiền định giúp người hành
thiền theo dõi quá trình của cái chết và cả sự tái sinh xảy ra tiếp
theo sau đó. Các nhà sư cao thâm nhờ phép luyện tập này có thể khởi
động quá trình của một cái chết giả tạo/simulation và sau đó có thể trở
lại sự sống bình thường của mình. Nhờ đó họ có thể biết được những gì
xảy ra sau cái chết vật chất. Dầu sao quá trình của cái chết cũng chỉ
xảy ra một cách tuần tự, "năng lực" hay "khả năng cảm nhận" của ngũ
giác và tâm thức "tan biến"/"suy yếu" dần dần cho đến khi hoàn toàn
ngưng hoạt động. Do đó cái chết diễn tiến - ít nhất là trong các điều
kiện bình thường - theo một quá trình tuần tự, tức không "đột ngột"
theo cách định nghĩa của Y khoa Tây Phương căn cứ vào một số tiêu chuẩn
bên ngoài chẳng hạn như tim ngừng đập và máu huyết ngưng lưu thông, cơ
thể không còn phản ứng, nếu có máy móc đo đạt thì có thể xác định thêm
một yếu tố nữa là sự ngưng hoạt động của não bộ. Dầu sao thì cách định
nghĩa này của Y khoa Tây Phương về cái chết cũng thật hết sức thô
thiển, thiếu hẳn sự tinh tế). Cách nay nhiều năm, các công cuộc khảo cứu của Bác sĩ Moody [4] (Expériences de Mort Imminente/Các cảm nhận cận tử), và của Ian Stevenson [5] (giáo sư Tâm thần học) về các trường hợp nhớ lại các kiếp sống quá khứ đã tạo được nhiều tiếng vang.
Biết
ý thức một cách thành thực về cái chết sẽ mang lại cho mình một sự tự
do trong nội tâm, tức một thái độ biết buông bỏ hầu giúp mình xác định
lại nhưng gì ưu tiên trong cuộc sống dựa vào các tiêu chuẩn thiết thực
hơn. Người ta nhận thấy những người từng tiếp cận với cái chết qua các
thể dạng E.M.I (tức các Cảm nhận cận từ/Experiences de Mort Imminente/Near Death Experience) thường biến cải cuộc sống của mình sau đó theo một chiều hướng tích cực hơn.
Các cảm nhận trong lúc xảy ra chết
Các điều chỉ dẫn trong Quyển sách Tây Tạng về cái Chết [6] nêu lên quá trình diễn tiến của cái chết qua một số dấu hiệu bên ngoải (trên thân xác), bên trong (thuộc tâm thức) và cả các dấu hiệu sâu kín hơn nữa (các thể dạng tinh tế của tri thức và các sự vận chuyển của khí lực), liên quan đến sự hòa tan của các năng lượng nâng đỡ tri thức, hoặc làm cho tri thức tan biến (khi cái chết xảy ra). Nhiều thể dạng cảm nhận cũng như các sự nhận thức liên quan đến các thể dạng trung gian bardo trong lúc quá trình của cái chết đang diễn tiến (nêu lên trong Quyển sách Tây Tạng về cái chết)
khá tương đồng với các câu chuyện do những người từng trải qua giai
đoạn cận tử E.M.I thuật lại, chẳng hạn như cảm giác bị hút sâu vào một
đường hầm chan hòa ánh sáng, v.v., các cảm nhận này có thể xem như
trùng hợp với "thành phần gió (khí, hơi thở...) bị hòa tan" nêu lên trong giai đoạn trung gian bardo
khi quá trình của cái chết đang diễn tiến, bởi vì trong giai đoạn này
sẽ hiện lên một sự cảm nhận trong suốt, rạng rỡ và sáng ngời, và đó
cũng là các cảm nhận đầu tiên trong số các cảm nhận về ánh sáng trong
lúc chết (có
nhiều thứ cảm nhận về các thể loại ánh sáng khác nhau, cảm nhận đầu
tiên trên đây vẫn còn ở giai đoạn cận tử và "người chết" trong giai
đoạn này vẫn còn có thể "hồi tỉnh" lại. Sự "hồi tỉnh" này từng xảy ra
với một số người và các cảm nhận do họ thuật lại khá giống nhau).
Qua
góc nhìn của Phật giáo, các cảm nhận trên đây rất gần với bản chất
[nguyên sinh] của tâm thức, gọi là "ánh sáng trong suốt" (claire
lumière/clear ligths). Các sự "nhận biết trong sáng" đó (trong
nguyên bản là chữ aperception, thế nhưng chữ "a" lại viết rời ra khỏi
chữ "perception" (a-perception). Tiền ngữ "a" trong các ngôn ngữ Tây
Phương mang ý nghĩa phủ định, do đó cách viết trên đây của Lạt-ma Denys
rất có thể là để nói lên một sự cảm nhận (aperception) nhưng cũng vừa
là một sự phi-cảm-nhận (a-perception). Phi-cảm-nhận là một thể dạng
nhận thức vượt lên trên khái niệm, do đó rất "trong sáng" không bị
vướng mắc vào các sự hiểu biết thông thường và quy ước. Chữ aperception
dịch sang tiếng Anh là apperception, do đó nếu viết theo cách của
Lạt-ma Denys thì chữ apperception có thể viết là ap/apo-perception)
mang tính cách rạng ngời và phúc hạnh. Sự tan rã của tri thức cá nhân,
tức cá tính (individuality) của một cá thể, cũng tương tự như là tháo
gỡ một tấm màn che làm lộ ra bản chất tự tại, rạng ngời và phúc hạnh
của tâm thức (dưới
góc nhìn này thì không có gì đáng để phải sợ hãi và khiếp đảm khi cái
chết xảy ra. Kinh hoàng và sợ hãi là do mình tự tạo ra cho mình trong
lúc hấp hối, chẳng qua vì trước cái chết mình quá bám víu vào sự sống,
nhất là thương tiếc những gì mà mình phải bỏ lại phía sau).
Các thể loại cảm nhận trên đây có cùng một mẫu số chung: đó là tính cách xuyên văn hóa (transcultural) của chúng
(có nghĩa là các cảm nhận xảy ra trong quá trình của cái chết không bị
ảnh hưởng gì bởi truyền thống văn hóa, giáo dục và "màu sắc" địa
phương, và do đó đều giống nhau giữa tất cả mọi người)
bởi vì chúng trực tiếp phát sinh từ bản chất [gần như nguyên sinh] của
tâm thức, và cũng có nghĩa là từ cấu trúc [sâu kín] của tri thức, kể cả
các dạng thể hòa tan (liên quan đến các cấp bậc suy thoái của lục giác, trước khi chúng hoàn toàn tan biến và mất hết khả năng). Thật hết sức rõ ràng các cảm nhận này không liên hệ gì đến tín ngưỡng cũng như truyền thống văn hóa của mỗi cá thể (có
nghĩa là đối với một người Á Châu hay một người Tây Phương, một người
bình dị hay là có trình độ học vấn cao, hoặc là nam giới hay nữ giới,
là một đứa bé hay một người trọng tuổi, thì các cảm nhận của họ trong
lúc chết đều giống như nhau).
Tuy nhiên cũng thật đáng lưu ý là hầu hết các câu chuyện do những người
từng trải qua giai đoạn cận tử thuật lại đều đã bị khái niệm hóa bởi
"vốn liếng" (background) văn hóa và tín ngưỡng có sẵn của họ. Chính vì
thế nên các kinh nghiệm cảm nhận này, dù chỉ là quá trình tự nhiên [của
cái chết], nhưng đã bị choàng lên thêm các sự diễn đạt xuyên qua một
mạng lưới khái niệm và phóng tưởng, liên quan đến văn hóa và tín ngưỡng
của mỗi người (các
câu câu chuyện cận tử khó tránh khỏi sự chủ quan, điều này cũng dễ hiểu
bởi vì "cận tử" chỉ là giai đoạn mới khởi đầu của quá trình cái chết,
sự vận hành của nghiệp có thể bất thần làm cho quá trình này đổi hướng,
hoặc vận hành khác hơn khiến người "cận tử" có thể "hồi sinh" trở lại.
Trong giai đoạn này, dù những người "cận tử" được xem như đã chết theo
tiêu chuẩn y khoa, nhưng các khả năng tâm thức và ngũ giác của họ chỉ
mới bắt đầu tan biến, năng lượng chưa bị "hòa tan" hết, do đó họ còn
tiếp tục cảm nhận, và các cảm nhận này vẫn còn chịu ảnh hưởng từ các sự
hiểu biết quy ước mang tính cách khái niệm có sẵn từ trước của họ).
Các
điểm trùng hợp [giữa các câu chuyện cận tử trên đây] từng làm chủ đề
cho một số luận án Y khoa, có một khảo luận tóm lược các các luận án
này có thể giúp quý vị nào muốn tìm hiểu thêm [7].
Các lời khuyên theo truyền thống trong khi tiếp cận với cái chết
Trong khi cái chết xảy ra, ngoài các cảm nhận xảy ra trong lúc hấp hối (tức chưa chết hẳn)
như đã được mô tả trên đây và các sự đau đớn trên thân xác do bệnh tật
gây ra, người hấp hối còn phải đối đầu với đủ mọi thứ ảo tưởng (fantasies/tưởng tượng, ảo ảnh, ảo giác).
Người này cảm thấy các nỗi niềm cay đắng của cuộc sống nói chung cũng
như trong kiếp người của mình nói riêng, vụt hiện lên trở lại. Trước
đây các nỗi khổ đau này thường bị che lấp bởi các mối quan tâm trong
cuộc sống thường nhật, thế nhưng trong lúc hấp hối, dù thân xác yếu
đuối nhưng tâm thức vẫn mạnh, các ảo tưởng (fantasies/các sự bám víu, tức giận, tiếc nuối, hối hận, đau buồn, hy vọng, v.v.) theo đó cũng trở nên gay gắt hơn.
Điều căn bản và chủ yếu nhất (trong nguyên bản là chữ leitmotiv) được nhắc đi nhắc lại trong Quyển sách Tây Tạng về cái chết là: "Hãy
xem tất cả những gì hiện lên với mình chỉ là các phóng tưởng của tâm
thức mình, hãy nhận diện chúng chỉ toàn là ảo giác, tương tự như một
giác mơ" (xin mạn phép tô đậm câu này, vì đây cũng là chủ đích/leimotiv của toàn bộ "Quyển sách Tây Tạng về cái chết").
Thật
vậy, nếu biết chấp nhận những gì mà mình trông thấy trong một giấc
chiêm bao - dù là những điều đáng để mà tiếc nuối đi nữa - cũng chỉ là
ảo mộng (onérique/oneiric), hoặc chấp nhận những gì hiện lên với mình
trong lúc hấp hối và cả trong giai đoạn trung gian bardo cũng
toàn là các thứ phóng tưởng tâm thần, thì đấy chính là cách tự che chở
mình trước tình trạng điên loạn, sợ hãi và khổ đau do chúng gây ra.
Nhận
biết được bản chất không thật của các ảo tưởng (fantasies) ấy chính là
cách giúp mình phát huy một thái độ chấp nhận, buông bỏ với tất cả sự
nhẹ nhàng, và đấy cũng là cách giúp mình thoát ra khỏi chúng (bất
cứ một sự bám víu nào trong lúc hấp hối cũng sẽ khiến mình quay lại với
thế giới hiện tượng này. Hãy buông bỏ tất cả, từ oán hận đến cả thương
yêu, tất cả những gì chung quanh và cả thế giới. Hãy ra đi với hai tay
không, nhẹ nhàng và thư thái).
Đối
với con người ngày nay đã đánh mất các truyền thống lâu đời của mình,
thì thật hết sức quan trọng là phải gợi lên với họ một mô hình giáo dục
nhân bản hơn, nhưng không nhất thiết là phải dựa vào các ý niệm tín
ngưỡng, mà chỉ cần nêu lên với họ một sự ý thức cốt lõi hơn về những gì
thiết thực và quan trọng nhất trong cuộc sống nói chung, trong đó kể cả
cái chết.
Kết luận: hướng đến một cái chết an bình, bảo toàn được nhân phẩm và sự sáng suốt
Chấp
nhận cái chết và hòa nhập nó vào sự sống chính là cách mang lại cho
mình một cuộc sống ý nghĩa hơn trong hiện tại. Nếu biết chuẩn bị [cái
chết] một cách đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh của mình hầu tạo ra cho
mình một thái độ êm thắm và sáng suốt, thi cái chết cũng chỉ là một sự
kết thúc tự nhiên của sự sống và cũng sẽ trở thành một dịp lễ hội cuối
cùng mà mình được thừa hưởng với tất cả sự thanh thản, trong sáng, bảo
toàn được nhân phẩm, tương tự như được hòa nhập vào một khung cảnh
thiêng liêng.
Sư chăm
lo của những người chung quanh tất nhiên là quan trọng, thế nhưng đấy
cũng chỉ là giữa tình người với nhau, bởi vì ngoài những thứ ấy ra còn
một chiều sâu khác nữa thật hết sức thiêng liêng (chiều sâu đó chỉ có mình mới tạo được cho mình từ bên trong chính mình mà thôi).
Chú thích của tác giả
[1] Trong chữ bardo, tiền ngữ "bar" có nghĩa là "ở giữa" và hậu ngữ "do" có nghĩa là "hai", chữ bardo do đó có nghĩa là "một thứ gì ở giữa hai thứ khác".
Điều này cho thấy tâm thức chúng ta - tức là những gì đang là chính
mình - cũng chỉ là một sự chuyển tiếp liên tục. Tâm thức không phải là
một thực thể cố định mà là một quá trình năng động, liên tục biến đổi.
Dưới góc nhìn đó, qua từng khoảnh khắc một chúng ta luôn ở trong tình
trạnh "trung gian" và đang chuẩn bị để "chuyển sang" một thể dạng khác.
[2]
Quá trình hoán chuyển mang tính cách chu kỳ này, theo truyền thống được
biểu trưng bởi một biểu đồ gọi là "Bánh xe của sự sống", nêu lên các
thành phần cấu tạo ra tri thức với các đặc tính của cái ngã cùng với
các giai đoạn chuyển đổi của nó, tương quan với các thể dạng hiện hữu
khác nhau.
Bánh xe của sự sống
Biểu đồ này bắt nguồn từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế, nhằm giải thích về "12 mối dây trói buộc" (thập nhị nhân duyên).
Vào thời bấy giờ chưa có chữ viết trong thung lũng sông Hằng, các hình
ảnh tượng trưng trong biểu đồ có thể giúp bất cứ ai cũng có thể hiểu
được, (biểu đồ trên đây và các lời giải thích này là do người chuyển
ngữ thêm vào)
[3]
Giáo lý Phật giáo không dựa vào khái niệm về linh hồn với tư cách là
một thực thể hàm chứa một sự hiện hữu vững chắc, trường tồn và bất
diệt. Qua góc nhìn của nguyên lý tương liên và hiện tượng vô thường,
linh hồn dưới hình thức một thực thể toàn vẹn (integrate, nhất thể, đồng nhất, độc lập)
chỉ là một ảo giác: các cảm tính hay cảm nhận liên quan đến sự trường
tồn làm nền tảng cho khái niệm linh hồn đó thật ra cũng chỉ là "cái
ngã", có nghĩa là "cái tôi" mang tính cách cá nhân.
[4] R.Moody, La vie après la vie (Sự sống phía sau sự sống), Robert Laffon, Paris, 1977. Và quyển Lumières nouvelle sur la vie après la vie (Các khám phá mới về sự sống phía sau sự sống), Robert Laffon, Paris, 1978 (hai quyển sách này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng).
[5] L/ Stevenson, Twenty cases suggestive of reincarnation (Hai mươi trường hợp cho thấy có có sự tái sinh), 2nd Ed. Rev. and enlarged (tái bản lần thứ hai, sửa chữa và khai triển thêm). University Press of Virginia. Charlottesville. U.S.A. 1974.
[6] Bardo Thodrol (Quyển sách Tây Tạng về cái chết), traduction par F. Fremantle et Chögyam Trungpa Rinpoché (bản dịch của F. Fremantle và Chögyam Trungpa Rinpoché), Courrier du Livre, Paris, 1980 (có
nhiều bản dịch khác nhau của quyển sách này sang các ngôn ngữ Tây
Phương, trong số này bản dịch trực tiếp từ tiếng Tây Tạng sang tiếng
Pháp của Philippe Cornu là đầy đủ và được giải thích rõ ràng nhất, gồm
1054 trang trong ấn bản pocket, Meta-Editions, 2009; 780 trang với khổ
lớn. Bản dịch này được trích từ luận án tiến sĩ triết học của ông).
[7] - Elizabeth Schnetzler et Frédéric Schmitt, Expériences de l'imminence de la mort (Các kinh nghiệm cận tử), Thèse présentée à l'Université scientifique de Grenoble (Luận án trình bày tại Đại học Khoa học tỉnh Grenoble), 1983.
- Pierre Dayot, Expériences de l'imminence de la mort - Approche traditionnel ("Các kinh nghiệm cận tử" - qua góc nhìn của các truyền thống tín ngưỡng) Thèse présentée à l'Université scientifique de Grenoble (Luận án trình bày tại Đại học Khoa học tỉnh Grenoble), 1984.
- Résumé des deux thèses: in Jean-Pierre Schnetzler et Isabeth Eysserie, Le voyage dans l'au-delà et les expériences de la mort imminente (E.M.I) "Itinéraires Imaginaire" (Tham
luận tóm lược hai luận án trên đây, mang tựa "Cuộc hành trình trong thế
giới bên kia và các kinh nghiệm cận tử" của hai tác giả Jean-Pierre
Schnetzler và Isabeth Eysserie, đăng trong tập san "Itinéraires
Imaginaires"/Những cuộc hành trình giả tưởng"), ELLG (Editions des Langues et des Lettres de Grenoble), 1986.
Vài lời ghi chú của người chuyển ngữ
Phàm
những gì mà mình không hiểu đều có thể khiến mình sợ hải, chẳng hạn như
sợ ma. Khi nào hiểu được ma chỉ là các phóng tưởng tâm thần của chính
mình thì mình sẽ hết hoặc "bớt" sợ hơn. Bước vào một gian nhà lạ, tối
om, không biết chỗ bật đèn ở đâu, tất nhiên mình cũng cảm thấy sờ sợ,
tìm được chỗ bật đèn thì mình sẽ vững tâm và "bớt" sợ hơn
Cũng
vậy cái chết và những gì phía sau nó là cả một sự bí mật to lớn mà con
người đành phải bó tay. Ngoài các việc cầu xin và lễ bái, Y khoa là
phương tiện cụ thể và tương đối hiệu quả hơn cả có thể giúp con người
tạm thời đương đầu với cái chết. Thế nhưng khi đã hết thuốc chữa thì Y
khoa cũng phải chịu thua, bác sĩ ký giấy chứng nhận để làm thủ tục khai
tử. Sau đó là bổn phận của những người tu hành, nếu thân nhân muốn biết
người quá cố có được siêu thoát hay không và đi về đâu thì cứ hỏi họ.
Nếu là một nhà sư Tịnh Độ thì sẽ trả lời rằng người quá cố đi về hướng
Tây, nếu là giáo sĩ của một tín ngưỡng Độc Thần thì sẽ trả lời rằng
linh hồn người chết lên Trời. Tuy trả lời như thế nhưng đôi khi chính
những người tu hành cũng không thể quả quyết là có đúng thật như thế
hay không, bởi vì họ chỉ làm tròn bổn phận của mình do tôn giáo của
mình chỉ dạy và giao phó. Chỉ vì không ai hiểu được những gì xảy ra sau
cái chết nên tất cả mọi người đều sợ hãi, đôi khi kể cả những người tu
hành. Bài giảng ngắn trên đây của Lạt-ma Denys là nhắm vào chủ đích
giúp chúng ta "bớt" sợ.
Tất
cả các vị sáng lập tôn giáo đều lớn lên nhờ dòng sữa mẹ và thức ăn do
con người làm ra. Từ thuở ấu thơ cho đến lúc khôn lớn họ được hưởng sự
giáo dục của cha mẹ và con người, nhưng sau đó thì lại tự xem mình khác
với con người, giữ những vị thế cao hơn con người, nhận lãnh những sứ
mạng thiêng liêng. Thế nhưng sau khi chết thì tuyệt nhiên không thấy
một vị nào quay về với con người trên địa cầu này - dù chỉ là một lần -
để chứng mình với họ những điều mà mình từng thuyết giảng cho họ trước
đây, hay ít ra cũng để thuật lại với họ những gì chính mình trông thấy
tận mắt trong các cõi mà mình từng hứa hẹn với họ khi mình còn là con
người, cùng sống chung với con người trên hành tinh này.
Thật
vậy hầu hết những điều mà các vị sáng lập tôn giáo thuyết giảng cũng
chỉ là những lời khuyến dụ, dọa nạt và hứa hẹn, nói cách khác thì đấy
cũng chỉ là các phóng tưởng tâm thần rất con người để nói lên với con
người, có nghĩa là những gì liên quan đến sự bám víu của con người vào
sự sống thế thôi. Nay thì các vị ấy an nhiên trong các cõi hạnh phúc ở
những nơi thật xa với hành tinh này, vì thế thiết nghĩ tốt hơn hết con
người nên lo cho con người, thương yêu nhau và đùm bọc lấy nhau, bởi vì
chiến tranh tôn giáo mà các vị ấy để lại cho con người thật hết sức
khủng khiếp!
Bài giảng của Lạt-ma Denys trên đây nêu lên một tầm nhìn rất thực tế và
vô cùng giản dị, không khuyên chúng ta trực chỉ hướng Tây, cũng không
tìm đường lên Trời, mà chỉ đơn giản nhìn thẳng vào cái chết để tìm hiểu
nó, bởi vì khi đã hiểu được nó thì mình sẽ không còn sợ hãi nó nữa.
Thế
nhưng tìm hiểu nó thì lại là cách tìm hiểu chính mình, bởi vì cái chết
là của mình, ẩn nấp và chờ đợi mình từ bên trong chính mình. Khi nhìn
thật sâu vào chính mình và hiểu được mình là gì thì mình cũng sẽ hiểu
được những gì sẽ chết: đó là "cái tôi" hay "cái ngã" và các thứ cấu hợp
mà nó ẩn nấp phía sau để điều khiển mình. Khi nào "cái tôi" hay "cái
ngã" ấy chết thì sẽ không còn một "chủ nhân ông" nào mượn tay các thứ
cấu hợp để chỉ huy và sai khiến mình, các thứ cấu hợp tạo ra thân xác
mình cũng sẽ không còn đủ sức để mê hoặc mình nữa, và vào một ngày đẹp
trời nào đó chúng cũng sẽ đi theo cái tôi của chúng trước đây.
Khi
nào ý thức được điều đó thật sâu xa tức là phải làm thế nào để "cái
tôi" phải chết, thì khi đó mình mới có thể sống thanh thản và yên vui
trong hiện tại được. Khi "cái tôi" bên trong chính mình đã chết và các
thứ "cấu hợp" chuyển tải nó cũng sẽ ra đi một ngày nào đó khi chúng
muốn, thì sẽ không còn một "chủ nhân ông" nào sai khiến mình, không còn
một thứ gì khác có thể khiến mình phải bận tâm, lo lắng và sợ hãi, cũng
không còn một thứ ảo giác nào có thể lừa phỉnh mình nữa. Đạt được sự
hiểu biết đó cũng chẳng khác gì như hiểu được ma là gì hay tìm thấy chỗ
bật đèn trong một gian nhà tối.
Thế
nhưng thông thường thì người ta lại không chọn cách tiếp cận trên đây
mà chỉ bám víu vào thân xác mình cùng các thứ ảo giác và lừa phỉnh hiện
lên bên trong tâm thức mình và tìm mọi cách để bảo vệ chúng, để rồi một
lúc nào đó bất chợt chạm trán với một bức tường kín mít hiện ra sừng
sững trước mặt mình. Đó là bức tường thật kiên cố của cái chết mà tất
cả mọi người đều mong muốn vượt qua, thế nhưng suốt trên dòng lịch sử
nhân loại chưa có một người nào thành công, kể cả các vị sáng lập tôn
giáo. Lối thoát duy nhất là viễn ảnh của thiên đường hay cõi cực lạc mà
con người tạo dựng ra để che bớt bức tường và đánh lừa chính mình.
Người
ta nghĩ rằng thiên đường ở trên đầu tường, nếu muốn trèo lên thì phải
bắc thang, thế nhưng thay vì giữ thang cho chặt để thay nhau trèo
thì lại nhìn trước, ngó sau..., xô thang của nhau, khiến gây ra hận thù
và ẩu đả suốt hàng ngàn năm nay từ các thời kỳ thời Trung cổ, và dường
như ngày nay vẫn chưa có một dấu hiệu nào cho thấy một sự dàn xếp ổn
thỏa. Cõi cực lạc trái lại không ở trên đầu tường mà ở vào hướng Tây,
thế nhưng khi giáp mặt với bức tường thì lại không biết hướng Tây ở vào
phía tay phải hay tay trái, do đó chỉ biết tụng niệm để chờ người khác
đến "tiếp dẫn" mình. Cũng lạ, không có một tôn giáo nào đề nghị đào hầm
chui qua phía bên kia bức tường, có thể là vì các vị sáng lập tôn giáo
nghĩ rằng bên trong đường hầm thì tối đen, nóng bức và nhất là rất
"nguy hiểm". Thật hết sức rõ ràng tất cả những gì trên đây chỉ là các
phóng tưởng tâm thần, phản ảnh từ sự sợ hãi và các uớc mơ rất "thật
thà" và "dễ thương" của con người mà thôi.
Giáo
Huấn của Đức Phật không phải là một tôn giáo, chính chúng ta đã mượn
Giáo Huấn của Ngài để sáng chế ra tôn giáo. Ngài chỉ là một con người
vạch ra một hướng đi giúp con người loại bỏ khổ đau của mình, từ các
thứ khổ đau lộ liễu do vô thường gây ra cho đến các thứ khổ đau thật
sâu kín ẩn chứa bên trong tâm thức mình. Vậy nếu loại bỏ tất cả các màu
mè tôn giáo và các hình thức tín ngưỡng ra thì cốt lõi của Giáo Huấn
Phật giáo là gì?
Kinh Cula-Malunkya Sutta (Bài kinh về về các câu hỏi vô ích của Malunkya,
Trung Bộ Kinh, MN 63) [8] là một bài kinh rất quan trọng, nêu lên quan
điểm của Đức Phật về các vấn đề triết học siêu hình. Đức Phật thuyết
giảng bài kinh này khi Ngài đang tạm trú tại tịnh xá của vị
Anathapindika/Cấp Cô Độc trong khu vườn Jatavana/Kỳ Viên, gần thị trấn
Savatthi/Xá Vệ. Lúc đó có một đệ tử hay thắc mắc về đủ mọi thứ đã tìm
đến Đức Phật để bày tỏ cả một lô các thắc mắc của mình, chẳng hạn như:
- "Vũ
trụ có trường-tồn bất-diệt hay không?
- Vũ trụ không trường-tồn bất-diệt?
- Vũ trụ đồng thời vừa trường-tồn bất-diệt, vừa không trường-tồn-bất-diệt?
- Vũ trụ không-trường-tồn-bất-diệt nhưng cũng không phải là không-trường-tồn-bất-diệt?"
- "Con người (être/being/sinh linh) có-hiện-hữu sau khi chết hay không?
- Con người không-hiện-hữu sau khi chết?
- Con người vừa hiện-hữu nhưng cũng không-hiện-hữu sau khi chết?
- Con người không-hiện-hữu nhưng cũng không-phải-là-không-hiện-hữu sau khi chết?"
Chữ con người hay sinh linh trong các câu trên đây được dịch từ chữ tathagatha trong bản kinh gốc bằng tiếng Pa-li, kinh sách Hán ngữ gọi là Như Lai. Chữ tathagata có nghĩa "chỉ là như thế", "đến đây là như thế" (suchness/ainsité), Đức Phật thường tự xưng mình là Như Lai với ý nghĩa đó, tức chỉ là "một con người đơn giản là như thế, không từ đâu đến và cũng sẽ chẳng đi về đâu cả", Ngài chỉ là một con người như tất cả mọi con người khác, khiêm tốn và giản dị. Trong trường hợp của bài kinh Cula Malunkya Sutta trên đây thì chữ tathagata mang ý nghĩa bao quát hơn là một "sinh linh " hay "con người" nói chung.
Trước
các câu hỏi trên đây của người đệ tử Malunkyaputta, Đức Phật chỉ giữ sự
yên lặng. Các câu hỏi đó đối với Ngài là vô ích và đặt sai: vô ích vì
không giúp được gì cho con người trước những khổ đau đang đày đọa họ;
đặt sai vì chỉ là các cạm bẫy của sự hiểu biết nhị nguyên và quy ước,
phản ảnh từ các sự lo sợ sâu kín của con người mà thôi. Một câu hỏi đặt
sai sẽ tạo ra các thắc mắc khác, và sau đó là các cuộc tranh cãi bất
tận, có thể đưa đến các hậu quả khôn lường. Một sự cố chấp đưa đến ẩu
đả, một sự bám víu ngây thơ đưa đến những sự ước mơ thật thà: chẳng hạn
như tin rằng phương Tây có cõi cực lạc và trên trời có cõi thiên
đường.
Sở
dĩ Đức Phật không khẳng định về sự hiện hữu hay không hiện hữu của con
người sau khi chết, ấy là để bảo vệ con người mà thôi. Chẳng phải chỉ
vì tin vào các điều viễn vông đó mà ngày nay con người vẫn còn tiếp tục
ẩu đả nhau hay sao? Phía sau sự yên lặng của Đức Phật dường như che dấu
một sự quán thấy thật xa.
Sự
yên lặng đó của Đức Phật là cách không những tránh cho người đệ tử của
mình mà cho cả chúng ta hôm nay, không rơi vào cạm bẫy của các sự biện
luận và tranh cãi, phản ảnh sự thúc dục của các thứ bám víu sâu kín và
dai dẳng của bản năng. Sự yên lặng đó không có nghĩa là một sự ngăn cấm
độc đoán, cũng không phải là một cách lấp liếm những gì mà mình không
hiểu, mà đúng hơn là chỉ vì khả năng hiểu biết hạn hẹp còn vướng mắc
bởi khái niệm và quy ước của con người. Giáo Huấn của Đức Phật là
phi-tín-ngưỡng, thế nhưng con người thì lại cứ khăng khăng khoác lên
Giáo Huấn của Ngài chiếc áo của tôn giáo. Vậy bên trong chiếc áo khoác
đó, Giáo Huấn của Đức Phật là gì?
Bài
kinh nêu lên các thắc mắc của người đệ tử Malunkyaputta dưới bốn hình
thức đối nghịch: "có", "không", "vừa có cũng vừa không", "không hẳn là
có nhưng cũng không phải là không có", đưa chúng ta vào một tình trạng
bất định hướng của sự lý luận, không có một hệ thống quy chiếu hay
lô-gic nào hầu có thể dựa vào đó để suy luận. Sự bất định hướng đó phản
ảnh thể dạng Trống Không của sự hiểu biết quy ước dựa vào khái niệm, và
đấy cũng chính là nền tảng của học thuyết Trung Đạo do Long Thụ nêu lên
bảy thế kỷ sau đó, tức là vào thế kỷ thứ II sau Tây lịch. Trung Đạo có
nghĩa là không phải có cũng không phải không, không phải bên này cũng
không phải bên kia, không vướng mắc vào một sự khẳng định nào cả. Vị
thế "ở giữa" và "không vướng mắc" đó cũng chính là Tánh Không hay sự
Trống Không của mọi hiện tượng, một vị thế "đứng ra bên ngoài" tất cả
mọi hiện tượng. Tánh Không hay sự Trống không đó không có nghĩa là một
sự trống rỗng, một hình thức phủ nhận hay khước từ sự hiểu biết, mà
đúng hơn là một thể dạng đầy ắp, tinh khiết và trọn vẹn của sự hiểu
biết đích thật. Sự hiểu biết đó vượt lên trên các khái niệm nhị nguyên,
phiến diện và đối nghịch. Qua học thuyết Trung Đạo trên đây, lần đầu
tiên người ta đã khoác lên cho Giáo Huấn của Đức Phật một chiếc áo rộng
"thùng thình" của triết học siêu hình (metaphysic), trước khi thêu thùa
và nhuộm thêm các màu sặc sỡ khác để biến nó trở thành chiếc áo của Đại
Thừa.
Sáu thế kỷ sau đó tức là vào thế kỷ thứ VIII, Quyển sách Tây Tạng về cái chết
do đại sư Padmasambhava trước tác đã "chọc thủng" bức tường ngăn cách
giữa sự sống và cái chết. Phật giáo Tây Tạng nói chung nhờ vào các phép
thiền định đã "thâm nhập" vào quá trình của một cái chết giả tạo
(simulation) và cả sau đó là quá trình của sự hình thành hay tái sinh.
Ngày nay các khoa học gia thuộc các ngành Tâm lý học và Y khoa cũng
đang phân tích và tìm hiểu các cảm nhận xảy ra trong lúc cận tử. Nếu
Lạt-ma Denys cho rằng các câu chuyện cận từ này đều bị ảnh hưởng bởi
vốn liếng văn hóa và tín ngưỡng của người cận tử, thì những gì nêu lên
trong Quyển Sách Tây Tạng về cái chết cũng vậy, cũng có thể đã bị ảnh hưởng ít nhiều bởi các kinh nghiệm riêng của chính người hành thiền hay chăng?
Trong giai
đoạn cận tử người chết chỉ mới "hấp hối" tức chưa "chết hẳn" do đó tâm
thức và các giác quan của người này tuy đã suy giảm nhưng vẫn còn hoạt
động, nhờ đó tâm thức vẫn còn tiếp tục ghi nhận các ảo giác và các
phóng tưởng tâm thần để thuật lại sau khi "hồi tỉnh". Chẳng hạn như
trường hợp một người ngủ chập chờn hay nửa thức nửa ngủ, tâm thức và
các cơ quan cảm giác vẫn tiếp tục hoạt động, dù chỉ ở một cấp bậc nào
đó, vì thế khi thức giấc người này vẫn nhớ lại được những gì hiện lên
trong khi ngủ, thậm chí đôi khi còn có cảm giác dường như những thứ ấy
là thật. Trái lại, trong một giấc ngủ thật sâu, tâm thức và các giác
quan đều lắng vào trong tình trạng nghỉ ngơi, vì thế dù các ảo giác
phát sinh từ nghiệp tồn lưu trên dòng tri thức vẫn tiếp tục hiện lên,
nhưng tâm thức không ghi nhận được chúng, do đó dù nằm mơ "thấy" rất
nhiều chuyện nhưng khi thức giấc thì không nhớ gì cả, hoặc chỉ nhớ
thoang thoáng một vài chuyện thế thôi. Ngoại trừ trường hợp "trông
thấy" những cảnh tượng kinh khiếp hay "ác mộng", thì các cảnh tượng này
sẽ có thể "đánh thức" đột ngột các các cơ quan cảm giác của người ngủ
mê, khiến người này hoảng sợ và thức giấc.
Tóm
lại quá trình lắng sâu vào giấc ngủ say và quá trình thức giấc cũng khá
tương tự với quá trình của cái chết và quá trình của sự tái sinh, sự
khác biệt căn bản nhất là giữa quá trình của cái chết và của sự tái
sinh là một khoảng trống bardo
hoàn toàn "im bặt", bởi vì trong giai đoạn này tâm thức và năng lượng
của ngũ giác đã hoàn toàn tan biến hết không còn khả năng ghi nhận bất
cứ những gì xảy ra. Sự khác biệt thứ hai là quá trình lắng sâu vào giấc
ngủ và quá trình thức giấc xảy ra quá nhanh, không tuần tự như các quá
trình của cái chết và sự tái sinh, do đó chúng ta có cảm giác là các
quá trình này xảy ra đột ngột, thế nhưng thật ra khá phức tạp, dường
như chỉ có các nhà sư Tây Tạng cao thâm mới có thể phân tích và nhận
biết được các thể dạng bardo
trong lúc lắng vào giấc ngủ và trong khi tỉnh giấc, các thể dạng này
dường như cũng tương tự như các thể dạng hiện lên trong các quá trình
của cái chết và sự tái sinh. Một cách tổng quát, quá trình của cái chết
hay của giấc ngủ cũng vậy, gồm hai giai đoạn: trước hết là giai đoạn
"hoà tan" hay "tan biến" của các khả năng cảm giác (ngũ giác và tâm
thần), tiếp theo sau đó là giai đoạn của sự hình thành hay là sự tỉnh
giấc. Đối với trường hợp của cái chết thì trong giai đoạn thứ nhất, sau
khi các khả năng của các cơ quan cảm giác tan biến hết thì sẽ không còn
bất cứ một sự cảm nhận nào có thể xảy ra được, chỉ có dòng tri thức
mang các vết hằn của nghiệp là tiếp tục luân lưu. Khi dòng tri thức này
và các vết hằn của nghiệp mà nó chuyển tải gặp được các điều kiện thích
nghi và phù hợp, chẳng hạn như sự kết hợp giữa một tinh trùng và một
noãn cầu, thì một sự tương kết có thể xảy ra đưa đến sự hình thành của
một bào thai, đánh dấu giai đoạn thứ hai là sự tái sinh. Đối với giấc
ngủ thì giản dị hơn, các cơ quan cảm giác và tâm thức chỉ tạm thời lắng
xuống và nghỉ ngơi.
Sau
một giấc ngủ say tâm thức hoạt động trở lại và chúng ta có thể nhớ lại
được những gì từ trước. Trái lại trong quá trình của cái chết, trong
giai đoạn bắt đầu từ lúc tâm thức và các cơ quan giác cảm đã hoàn toàn
tan biến đến lúc não bộ và các giác quan của bào thai được hình thành
và bắt đầu hoạt động, là một "khoảng trống", không có một sự cảm nhận
nào được ghi nhận, "Khoảng trống" này đánh dấu một sự "đứt đoạn" hay
"im bặt" giữa hai chu kỳ của sự sống. Trong một vài trường hợp thật
hiếm hoi, một số nguời có thể nhớ lại một vài sự kiện trong kiếp sống
trước của mình. Sự nhớ lại này có thể là đã đưọc dựa vào các vết hằn
của nghiệp do dòng tri thức chuyển tải, nhưng dường như chưa có ai ghi
nhận được những gì xảy ra trong giai đoạn "trống không" và "im bặt"
giữa hai giai đoạn "tan biến" và "hình thành" của quá trình của cái
chết, bởi vì lục giác đã hoàn toàn tan biến hết trong giai đoạn này,
ngoại trừ trường hợp các nhà sư Tây Tạng thật cao thâm mượn phép thiền
định về cái chết mới có thể cảm nhận được những gì xảy ra trong giai
đoạn này.
Dầu
sao những điều trình bày trên đây, dù được dựa vào một số hiểu biết
trong Phật giáo Tây Tạng, cũng chỉ là giả thuyết với mục đích duy nhất
là giúp một số người thường hay quá thắc mắc về cái chết của mình có
thể đã khiến mình quên đi một điều quan trọng hơn rất nhiều là phải
sống trọn vẹn và xứng đáng hơn kiếp nhân sinh này của mình. Lạt-ma
Denys qua bài giảng trên đây cũng chỉ nhằm vào mục đích đó. Trở lại với
bài kinh Cula-Malunkya Sutta thì Đức Phật đã nêu lên quan điểm của mình như thế nào?
Malunkyaputta
yêu cầu Đức Phật chỉ cần trả lời các câu hỏi của mình là "có" hay là
"không" là cũng đủ, nếu không thì mình sẽ quay lại cuộc sống thế tục,
không tu tập theo Đức Phật nữa. Vậy trước những lời van nài, thách đố
và mặc cả đó, Đức Phật đã trả lời người đệ tử của mình như thế nào?
"Này
Malunkyaputta, mặc dù có một quan điểm theo đó con người hiện hữu sau
khi chết và có một quan điểm [khác] theo đó con người không hiện hữu
sau khi chết [...], thế nhưng trước nhất phải hiểu rằng có sinh, có
già, có chết, có khổ đau, có than khóc, có đớn đau, xót xa và tuyệt
vọng. [Đối với] Ta, Ta [chỉ] giảng về sự chấm dứt những thứ ấy trong thế giới này, trong chính sự sống này.
Vì thế, này Malunkuyaputta, hãy giữ lấy trong tâm những gì Ta giảng,
đúng như Ta đã giảng, và những gì Ta không giảng, đúng như Ta không
giảng…"
Trên đây là quan điểm của Đức Phật: những gì cấp bách nhất là phải giải quyết các khổ đau của mình ngay trong kiếp sống này, trong thế giới này, bởi
vì khổ đau này sẽ đưa đến đến khổ đau khác, tạo ra một sự xoay vần bất
tận. Khi nào cắt đứt được sự lôi kéo và xoay vần đó thì tất chúng ta sẽ
hiểu được những gì phía bên kia cái chết. Ngoài ra Đức Phật cũng dặn dò
người đệ tử rất hay thắc mắc của mình là "chỉ nên giữ trong tâm những gì Ngài giảng, đúng như Ngài đã giảng, và những gì Ngài không giảng, đúng như Ngài không giảng".
Thật vậy, có nhiều điều mà Đức Phật không giảng cho Malunkyataputta bởi
vì những thứ ấy cũng chỉ là các cạm bẫy đánh lừa người đệ tử của mình
vẫn còn vướng mắc trong các sự hiểu biết thô thiển, mang nặng tính cách
quy ước và khái niệm mà thôi. Nhìn vào thế giới ngày nay thì chúng ta
sẽ hiểu ngay tại sao các sự hiểu biết ngây thơ, nông cạn và thật thà
lại có thể gây ra gây ra những cảnh bạo lực thật kinh hoàng.
Thật
ra sự sống và cái chết kể cả niết-bàn đều ở phía bên này bức tường. Thế
giới hiện tượng chỉ là một, không có bức tường ngăn cách nào trong thế
giới đó cả. Mọi hiện tượng đều chuyển động xuyên qua không gian và thời
gian, các sự phân chia và ngăn cách chỉ là các khái niệm, các phóng
tưởng tâm thần. Trong thế giới hiện tượng chỉ có hiện tượng, toàn là
hiện tượng. các hiện tượng có thể hữu hình hay vô hình, tất cả đểu tùy
thuộc vào khả năng cảm nhận của con người và của mỗi cá thể. Đối với
năm thứ cấu hợp tạo ra con người của chính mình cũng vậy, trong số này
chỉ có một thứ cấu hợp là hữu hình tức là thân xác, bốn thứ kia là vô
hình: cảm giác, sự nhận thức, sự tạo nghiệp và tri thức, nói chung là
các tư duy, xúc cảm và tác ý. Sở dĩ chúng ta cảm nhận được các thứ thứ
vô hình này -, tư duy, xúc cảm, tác ý - tương đối dễ dàng là vì chúng
trực tiếp hiện lên bên bên trong tâm thức mình. Trái lại đối với các
hiện tượng vô hình thuộc thế giới bên ngoài thì thật hết sức khó cho
chúng ta nhận biết được chúng, bởi vì não bộ và tâm thức chỉ có thể
tiếp xúc với với các hiện tượng vô hình thuộc môi trường bên ngoài qua
trung gian của ngũ giác mang khả năng rất giới hạn. Do đó dù trong thế
giới các hiện tượng vô hình cũng hết sức phong phú và đa dạng thế nhưng
chúng ta không cảm nhận được hết, vì vậy các hiện tượng này cũng có thể
xem là "siêu-vô-hình" hay "siêu-cảm-nhận", tức là vượt khỏi khả năng
nhận thức của mình. Sự mù tịt đó có thể khiến chúng ta tưởng tượng ra
mọi thứ dị đoan đủ loại.
Điều
này cho thấy nếu muốn đi xa trong việc tu tập thì phải mượn phép thiền
định để hướng thật sâu vào bên trong tâm thức mình, bởi vì nếu chỉ biết
nhìn vào thế giới bên ngoài để tìm hiểu các hiện tượng vô hình mà mình
mù tịt, thì đấy chỉ là các phóng tưởng tâm thần xuyên qua các sự bám
víu bản năng của mình, chẳng hạn như tưởng tượng ra thiên đường ở trên
Trời hay cõi cực lạc ở hướng Tây. Bám víu vào chúng cũng chẳng khác gì
như rơi vào một mê hồn trận không lối thoát. Hãy nhìn vào hiện trạng bế
tắc trong lãnh vực tín ngưỡng ngày nay trên thế giới sẽ hiểu được điều
đó.
Đức
Phật không thuyết giảng những chuyện trên trời và những gì bên kia cái
chết, mà chỉ giảng cho chúng cách làm cho các thứ khổ đau của mình phải
chấm dứt. Ý thức được điều đó một cách nghiêm chỉnh sẽ khiến chúng ta
phải thận trọng, phải phân biệt thật rõ ràng những gì Đức Phật giảng và
những gì Ngài không giảng. Lạt-ma Denys cũng vậy, cũng chỉ khuyên chúng
ta tìm hiểu cái chết để chấp nhận nó và sống với nó, điều đó không có
nghĩa là mình đã chết trong khi còn đang sống, mà chỉ là cách khiến cho
"cái tôi" của mình chết, hầu giúp mình được sống thảnh thơi, trọn vẹn
và xứng đáng trong thế giới này, ngay trong kiếp sống này.
Chú thích
[8] Bản
kinh này nêu lên tính cách thực dụng trong toàn bộ Giáo Huấn của Đức
Phật, đặt sang một bên các vấn đề triết học siêu hình và thuần lý. Độc
giả có thể tham khảo các bản dịch khác nhau của bài kinh này trong
nhiều sách và trang mạng. Sau đây là một vài bản dịch tiêu biểu:
Tiếng Pháp:
- Cula-Malunkyovada Sutta: Les courtes instructions à Malunkyata
http://www.canonpali.org/tipitaka/suttapitaka/majjhima/mn063.html
- Môhan Wijayaratna: Sermon du Bouddha: Malunkyata Sutta, Les questions inutiles, tr.113-117, nhà xuát bản Cerf, 1988.
Tiếng Anh:
- Cula-Malunkyovada Sutta: The Shorter Instructions to Malunkya
(translated from the Pali by Thanissaro Bhikkhu, 1998)
https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.063.than.html
- Cula-Malunkyovada Sutta. The Questions Of Malunkyaputta
(translated from the Pali by E. J. Thomas, M.A. Originally Published by John Murray, lbermarle Street, W. London, 1913)
http://obo.genaud.net/dhamma-vinaya/thom/mn/mn.063.thom.htm
- Cula Malunkya-putta Sutta. The Shorter Discourse to Malunkya-putta (trang 49-65)
(translated by Pia Tan, 2003)
http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2009/12/5.8-Cula-Malunkyaputta-S-m63-piya.pdf
(bản dịch này của
Pia Tan rất chi tiết, chính xác và dễ hiểu, nhất là được tra cứu rất
cẩn thận. Chữ Pa-li tathagatha trong bài kinh được giải thích rất rõ
[xem phân đoạn 3 (tr.51-53) và các chú thích cuối trang/footnotes số 9
(tr.50), số 22 (tr. 51), số 30 (tr.52). Có thể xem bản dịch này như là
một trong các bản dịnh mẫu dùng vào việc dịch thuật kinh điển Pa-li].
Tiếng Việt:
- Tiểu kinh Màlunkyà (Cula Malunkyà Sutta)
(Hòa thượng Thích Minh Châu Việt dịch, Bình Anson hiệu đính, 2004)
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung63.htm
(bản Việt dịch trên đây còn quá nhiều thuật ngữ tiếng Hán; ngoài ra văn phạm, cú pháp và cả cách hành văn rất gần với Hán ngữ, có thể khó hiểu cho một số người đọc).
Bures-Sur-Yvette, 04.12.17
Hoang Phong chuyển ngữ