Phật giáo và Âm nhạc
phat giao va am nhac
Hòa thượng Tinh
Vân (Hsing Yun)
Hoang Phong
chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người chuyển ngữ
Dưới đây là
phần chuyển ngữ một quyển sách nhỏ của Phật giáo Đài Loan được phổ biến khá rộng
rãi. Tác giả là Hòa thượng Hsing Yun (星雲/Tinh Vân),
vị đại sư viện chủ ngôi chùa nổi tiếng Fo Guang Shan (佛光山/Phật
Quang Sơn) tại Kaohsung (高雄/Cao Hùng) thành phố lớn thứ hai tại Đài Loan. Theo lời giới thiệu trong
quyển sách này thì Hòa thượng Tinh Vân sinh năm 1927, thụ
phong tỳ kheo năm 1941, là một nhà sư thuộc Thiền Tông, học phái Lâm Tế
(Linji). Sau khi thụ phong, Ngài tham gia tích cực vào các chương trình ấn hành
kinh sách, cộng tác với các tạp chí Phật giáo và đồng thời thành lập các tổ
chức canh tân Phật giáo, chẳng hạn như mở các "Lớp học giảng dạy giáo lý
Phật giáo ngày Chủ nhật" tạo cơ hội cho thành phần thanh thiếu niên Phật
tử gặp gỡ nhau, hoặc tổ chức các buổi tụng niệm tập thể dành cho các Phật tử
tại gia.
"Năm
1967 HT Tinh Vân khởi công xây dựng ngôi chùa Phật Quang Sơn tại thành phố Cao Hùng,
Đài Loan". Ngôi chùa này phát triển rất nhanh trong các
thập niên sau đó và ngày nay gồm hơn hai trăm ngôi chùa chi nhánh khác khắp nơi
trên thế giới, cùng các trường trung học và bệnh viện sinh hoạt trong tinh thần
thế tục.
"HT
Tinh Vân nguyện hiến trọn đời mình cho lý tưởng quảng bá một nền Phật giáo nhân
bản và mang giáo lý của Đức Phật vào đời sống thường nhật của người dân qua
việc viết lách, thuyết giảng cùng các phương tiện truyền thông đại chúng khác. Ngày nay HT Tinh Vân
vẫn còn tiếp tục chu du khắp thế giới để thuyết giảng Đạo Pháp/Dharma".
HT sinh tại tỉnh Jiangsu 江苏/Giang Tô, đông bắc
Thượng Hải, từng sinh hoạt Phật giáo
rất tích cực tại lục địa trước khi đặt chân lên đảo Đài Loan năm 1949. Quyển sách dưới đây là do Ngài viết bằng tiếng
Hán và đã được Trung tâm dịch thuật Quốc tế (International Translation Center) một
tổ chức của chùa Phật Quang Sơn dịch sang tiếng Anh và phát hành khắp nơi trên
thế giới năm 2014. Bản Việt dịch được dựa vào bản tiếng Anh này. Nội dung quyển
sách nhấn mạnh đến vai trò của âm nhạc và việc tụng niệm trong lãnh vực tu tập
cũng như các sinh hoạt khác của Phật giáo.
Sau
khi đạt được Giác Ngộ nơi khu rừng Uruvela cạnh thị trấn Gaya, Đức Phật đã phải
để ra nhiều ngày đi bộ đến khu rừng Sarnath tại thị trấn Varanasi để thuyết giảng
cho năm vị đồng tu của mình trước kia về các khám phá siêu việt mà mình vừa đạt
được. Đấy cũng là bước đầu tiên mở ra một hướng đi mới cho nhân loại. Hướng đi
đó bắt đầu bằng những bước chân trên một con đường đất hơn hai trăm cây số
nhưng dần dần đã trở thành một đại lộ thênh thang, đông đảo và ồn ào, tràn ngập
chùa chiền, cờ xí, chuông mõ, ảnh tượng, âm nhạc, kinh kệ, v.v. Trên đại lộ đó có
những người đi bộ bồng bế giúp đỡ nhau, lại cũng có đủ loại xe cộ, từ thô sơ đến
tối tân. Âm nhạc phải chăng cũng là một trong các phương tiện di chuyển trên đại
lộ đó? Vậy chúng ta hãy xem nhà sư Tinh Vân trình bày về vấn đề này dưới
đây:
HT Hsing Yun/Tinh Vân
(1927 - ...)
Mục
lục
I
. Âm nhạc và Phật giáo
II. Lịch
sử Âm nhạc Phật giáo
III. Các
đóng góp của Âm nhạc Phật giáo
IV. Canh
tân Âm nhạc Phật giáo
I- Âm nhạc và Phật giáo
Âm nhạc là một phương
tiện biểu lộ các xúc cảm sâu xa của mình. Dù đấy là một bài thánh ca thiêng
liêng hay một bài kinh cầu nguyện thì tất cả cũng đều khơi động trong tâm thức chúng
ta những xúc cảm thật tuyệt vời. Vì thế âm nhạc thường giữ một vai trò quan trọng
trong việc quảng bá tín ngưỡng. Trên khắp thế giới âm nhạc được áp dụng rộng rãi
trong nhiều lãnh vực sinh hoạt tôn giáo. Kinh sách Phật giáo cũng thường nói đến
vai trò của âm nhạc. Kinh A-di-đà cho
biết cõi Cực Lạc luôn vang lừng tiếng ca và lời tụng, cùng với muôn cánh hoa mandarava (mandarava là tiếng Phạn, tên khoa học là Erythrina
indica, còn gọi là Indian Coral tree, một loại cây nhiệt đới được xem là mọc ở
cõi Cực Lạc/Sukhavati của Phật A-di-đà) nhẹ rơi từ không trung.
1 2
3
H.1-3: Hoa và cây mandarava
(Erythina indica) một loại cây "vông". E. viregata là Cây vông nem cho lá dùng để gói nem, thường thấy ở
Việt Nam (hình ảnh và ghi chú do người chuyển ngữ ghép thêm)
Nơi cõi Cực Lạc
mọi người đều có thể nghe thấy tiếng hót của chim muông, thánh thót và nhịp nhàng.
Cành lá vàng ngọc ngả nghiêng trong gió thoảng, tạo ra những âm thanh du dương,
quyện vào nhau tạo thành muôn ngàn giai điệu. Bất cứ ai nghe được những điệu nhạc
ấy cũng đều cảm nhận được sự hiện diện của Đức Phật, Đạo Pháp/Dharma và Tăng Đoàn.
Vì thế chư Phật và chư Bồ-tát thường sử dụng âm nhạc để giảng dạy Đạo Pháp/Dharma
giúp chúng sinh đạt được giác ngộ (tác giả là một nhà sư Thiền Tông thuộc học phái Lâm Tế
nhưng lại mô tả cõi Cực Lạc thật tài tình, quả là khó hiểu!).
Trong việc tu tập Phật giáo, tụng kinh và tỏ bày lòng ngưỡng
mộ các phẩm tính của chư Phật là cách giúp tinh khiết hóa tâm thức của vô số Phật
tử. Trong tập kinh Sự hoàn thiện tối thượng
của Trí Tuệ (Great Perfection of
Wisdom Treatise) (có lẽ tác giả muốn nói đến tập kinh Bát nhã Ba-la-mật-da /
Prajnaparamita-sutra) có nêu lên như sau: "Nếu người Bồ-tát muốn tinh khiết hóa đất Phật thì phải tìm mọi cách
làm vang lên từ nơi đó một âm thanh tuyệt vời và cầu mong tất cả chúng sinh đều
nghe thấy, hầu làm rung động con tim của họ giúp họ tự biến cải dễ dàng hơn. Chính
vì thế mà âm nhạc là cả một lễ vật hiến dâng cho Đức Phật". Hơn nữa nhằm
mục đích quảng bá rộng rãi Đạo Pháp/Dharma, âm nhạc cũng từng được sử dụng vào các
dịp cưới hỏi, ma chay và các lễ lạc khác. Đấy là cách mà âm nhạc Phật giáo tạo
cho mình một chỗ đứng trong đời sống văn hóa của quảng đại quần chúng.
Vị Thầy Taixu (太虛/Thái Hư, 1890-1947, là một nhà
sư lãnh đạo phong trào cải tổ Phật giáo tại lục địa Trung Quốc trong một giai đoạn
rất khó khăn) từng cho biết: " Âm nhạc giúp người
dân trong xã hội cùng biểu lộ với nhau tâm trạng và các cảm nghĩ của mình. Chỉ
cần nghe một người nào đó tấu lên một khúc nhạc thì cũng đủ để nhận biết được tâm
trạng của người ấy. Nếu muốn mang lại cho xã hội một sự hài hòa thì nhất thiết
người dân phải cùng cảm thông nhau hầu mang lại một sự đoàn kết. Và đấy cũng
chính là một trong các vai trò quan trọng của âm nhạc". Âm nhạc Phật giáo
có khả năng thu hút và tạo ra những sự xúc động sâu xa đánh động con tim người
nghe, và đấy cũng là một cách biểu lộ cảm tính cao đẹp nhất của con người.
Âm nhạc Phật giáo Trung Quốc sử dụng
rất nhiều thể loại khí cụ để tấu lên trong lúc nguyện cầu và tụng niệm. Các khí
cụ này một khi được sử dụng trong lãnh vực tu tập thì đều được xem là các
"nhạc khí Đạo Pháp/Dharma". Trong số các khí cụ này chỉ có chiếc
chuông để ngược (inverted
bell/chuông có hình một cái bát) là có nguồn gốc Ấn Độ, các khí cụ
khác trong âm nhạc Phật giáo truyền thống Trung Quốc đều được sáng chế tại
Trung Quốc. Các khí cụ như cồng (gong/chiêng), đại hồng chung (鐘/qing/large bell), trống (故/gu/drum), mõ hình cá (wooden fish), chũm choẹ
nhỏ (small cymbals), chũm choẹ lớn (large cymbals/chập chả) và trống lục lạc (chinese
tambourine) thường được sử dụng trong âm nhạc Phật giáo và cả dân gian. Ngày
nay, âm nhạc Phật giáo Trung Quốc thường sử dụng các khí cụ hiện đại, chẳng hạn
như dương cầm hoặc các khí cụ cổ điển khác của người Âu Châu. Lúc đầu còn khiêm
tốn nhưng sau đó âm nhạc Phật giáo đã phát triển rất nhanh và được mang ra trình
diễn nơi chùa chiền và các thính đường (concert halls) trên khắp thế giới. Ngày
nay các buổi trình diễn âm nhạc Phật giáo có thể sánh ngang hàng với các buổi hòa
tấu của các ban nhạc Tây Phương.
II. Lịch sử âm nhạc Phật giáo
Dưới triều đại Maurya (317-180 trước Tây Lịch) tại Ấn
Độ (Maurya là triều
đại văn minh đầu tiên trong lịch sử nước Ấn, do ông nội của vua Azoka/A-dục là
Chandragupta thành lập), vị đại vương Azoka/A-dục rất tích cực trong
việc bảo tồn và quảng bá Phật giáo. Dưới triều đại của ông, âm nhạc Phật giáo
phát triển cao độ, nhiều khí cụ âm nhạc được sáng chế chẳng hạn như các loại
chiêng bằng đồng, trống, sáo, tù và bằng sừng, đàn hạc (đàn hạc/harp là một loại đàn nhiều dây. Dầu
sao việc tìm thấy các khí cụ âm nhạc vào thời đại của vua A-dục không có nghĩa
là các khí cụ này được dành riêng để sử dụng trong các dịp lễ lạc của Phật giáo
- sẽ giải thích thêm trong phần ghi chú dưới đây). Khi Phật giáo phát
triển tại Tây Tạng thì ca hát và vũ điệu cũng thường được trình diễn trong một số
các buổi lễ, Trong tăng đoàn [của Phật giáo Tây Tạng] có một ủy ban chuyên đảm
trách âm nhạc và vũ điệu gọi là yueshen
(姿神/"tư
thần", đây là tiếng Hán, không phải là tiếng Tây Tạng, ý nghĩa của hai chữ
này là tư chất hay phong thái thần thánh)
có nghĩa là "âm nhạc thiêng liêng" ("music spirit"), và
cũng được gọi là xiangshen (香神, "hương
thần")
có nghĩa là "hương vị thiêng liêng" (fragrance spirit"). Trong kinh
Mahavairocana Sutra (Kinh Đại Nhật Như
Lai còn gọi là Ma-ha tỳ-lô giá-na, là một trong hai bản kinh quan trọng nhất của
Phật giáo Tan-tra/Kim Cương Thừa) có nêu lên sự kiện: "Mỗi lời hát là một câu man-tra (man-tra có nghĩa các câu chú mang tính cách thiêng liêng và
mầu nhiệm), mỗi vũ điệu đều nói lên một thể dạng của hiện thực".
Những gì trên đây cho thấy Âm nhạc Phật giáo Tây Tạng đã được phát triển cao độ,
mang nhiều sắc thái cá biệt và đặc thù. Trong các buổi lễ quan trọng của Phật
giáo Tây Tạng, các vị Lạt-ma sử dụng các khí cụ thật lạ và độc đáo, chẳng hạn
như kèn, ống loa, tù và bằng vỏ ốc, kèn ống thật dài. Các khí cụ này rất cầu kỳ,
trông thật lạ và đẹp mắt.
Sau khi Phật giáo từ Ấn
Độ được đưa vào Trung Quốc thì công việc dịch thuật lúc đầu phải dựa vào các bản
kinh sutra (tức các kinh Đại Thừa bằng tiếng Phạn),
vì sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ nên các bài tụng niệm bằng tiếng Phạn không
thể dùng nguyên như thế tại Trung Quốc. Vị
Thầy Huijao thời Nam Triều (tức thời kỳ Nam-Bắc Triều, 420-589) cho biết như
sau: "Các giai điệu trong tiếng Phạn
gồm rất nhiều cung bậc khác nhau trong khi giai điệu trong tiếng Hán ít cung bậc
và đơn giản hơn nhiều (tiếng Phạn đa âm, tiếng Hán độc
âm). Nếu mượn các giai điệu trong tiếng Phạn để tụng các bài kinh sau
khi đã được dịch sang tiếng Hán thì sẽ gồm có quá nhiều cung bậc và nhịp điệu
cũng sẽ thật nhanh (âm vận của một chữ trong tiếng Phạn
thường quá dài và phức tạp so với cùng một chữ tương đương nhưng độc âm trong
tiếng Hán). Ngược lại nếu sử dụng giai điệu tiếng Hán để tụng các kinh bằng
tiếng Phạn thì phải tụng thật nhanh bởi vì các câu tiếng Phạn quá dài, thay vì
chỉ cần một vài cung bậc cũng đủ nếu câu này là tiếng Hán (tiếng Phạn líu lo, tiếng Hán ngắn ngủn vì là độc âm, do đó
không thể có một giai điệu chung cho cả hai ngôn ngữ trong việc tụng niệm).
Chính vì lý do này nên chúng ta (tức người Trung Quốc)
bắt buộc phải dịch các kinh sutra sang tiếng Hán, không thể nào sử dụng các giai
điệu trong tiếng Phạn được" (đây chỉ là một trong các khó khăn về vấn đề dịch thuật mà
thôi, bởi vì còn rất nhiều khó khăn khác thuộc các lãnh vực văn phạm, ngữ pháp
và nhất là các từ ghép trong tiếng Phạn. Đối với các danh từ riêng - tên người,
địa danh, v.v. - thì được dịch sang tiếng Hán bằng hai cách: dịch âm hoặc dịch
nghĩa, hoặc đôi khi cả hai, nhưng không thể nào dùng thẳng tiếng Phạn viết theo
lối ngoằn ngoèo. Đấy là chưa nói đến các trường hợp dịch sai, hơn nữa tiếng Hán
tượng hình do đó thường không có các từ tương đương trong tiếng Phạn rất trừu
tượng và triết học. Đây là một trong các nguyên nhân khiến Phật giáo Hán ngữ gặp rất nhiều khó
khăn. Phật giáo Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản thừa hưởng gia tài Phật giáo Trung
Quốc cũng gánh luôn các khó khăn đó của Hán ngữ. Các nước Tích Lan, Miến Điện
và Thái Lan sử dụng thẳng tiếng Pa-li là một lợi điểm rất lớn). Vì
lý do không có truyền thống nào về việc tụng niệm nên chùa chiền [tại Trung Quốc]
đành phải vay mượn giai điệu của các bài hát dân gian (folk song/dân ca) hoặc các
bài hát nơi chốn cung đình [của Trung Quốc] để tụng. Tình trạng này đã tạo ra một
nền âm nhạc Phật giáo mang tính cách đặc thù và cá biệt của Trung Quốc. Các bài
tụng xưa nhất của Phật giáo Trung Quốc được sáng tác dưới triều đại Tào Ngụy (Wei,
220-265). Con trai của hoàng đế nhà Ngụy (tức là Tào Tháo/曹操)
là Cao Zhi (曹丕/Tào Phi, con thứ hai của Tào Tháo) một người nổi tiếng hát hay và sáng tác nhạc rất giỏi.
Theo truyền thuyết một hôm Tào Phi đi ngang vùng núi Thái Sơn (泰山) tỉnh Sơn Đông (山东/Shandong) bỗng nhiên nghe thấy từ không trung vang lên một bài tụng bằng tiếng Phạn.
Tào Phi rất xúc động trước các giai điệu tuyệt vời này bèn ghi lại bài tụng đó
[bằng cách chuyển âm từ tiếng Phạn] và gọi là "Yushan Fanbei" (鱼山梵呗/ "Ngư sơn phạm bái" có nghĩa là "Bài tụng mẫu
bằng tiếng Phạn viết tại núi Ngư Sơn") và đây là bài tụng Phật giáo đầu tiên viết bằng Hán ngữ [nhưng âm vận là tiếng
Phạn]. Bài tụng này sau đó đã trở thành mẫu mực cho toàn bộ âm nhạc Phật giáo
Trung Quốc (hóa
ra Tào Phi là cha đẻ của phép tụng niệm trong Phật giáo Trung Quốc, điều này cũng
cho thấy là các bài tụng bằng tiếng Việt cũng đã được chuyển âm từ các bản tụng
tiếng Hán với âm vận tiếng Phạn gọi là Fanbei/Phạm bái này).
Nhằm giải thích các đặc
tinh của âm nhạc Phật giáo Trung Quốc, tư liệu của các đại tự viện cho biết rằng: "Các bài tụng theo truyền thống Ấn Độ
mang mục đích giảng dạy Đạo Pháp/Dharma được gọi là "bei" (呗/tụng). Các bài tụng các kinh sutra
thì gọi là "zhuandu" (轉讀/chuyển
đọc, có nghĩa là không diễn nghĩa mà chỉ xướng đọc theo
cách dịch âm) tức là chỉ xướng lên âm điệu (chanting). Nếu mang ra để tụng tập thể thì
các bài này sẽ được gọi chung là fanbei" (梵呗/phạm bái, Phạm ở đây có nghĩa lả
tiếng Phạn, bái có nghĩa là tụng. Phạm bái có nghĩa là tụng bằng tiếng Phạn). Nguồn gốc của cách tụng này có thể đã phát sinh từ thời đại Đức Phật (điều này không có
gì là chắc chắn cả. Giáo Huấn nguyên thủy của Đức Phật không phải là một hệ thống
tín ngưỡng mang tính cách cầu xin và tụng niệm như trường hợp của các đạo
Veda/Vệ-đà và Bà-la-môn. Hơn nữa vào thời đại của Đức Phật chỉ có tiếng Phạn cổ
được gọi là tiếng Phạn Vệ-đà dùng để chuyển tải các kinh của đạo Vệ-đà và Bà-la-môn.
Tiếng Phạn cải tiến dùng để ghi chép kinh sách Đại Thừa sau này xuất hiện rất
muộn vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch dưới triều đại của vua Azoka/A-dục).
Ngoài ra vào các thời đại xa xưa của Ấn Độ cũng có các bài tụng rất phổ thông gọi
là các bài kinh Veda (tức là các bài tụng mang tính cách cầu khẩn của đạo Vệ-đà).
Các bài tụng Phật giáo được dựa vào các mẫu mực trong toán học Ấn độ, tức là một
trong "năm ngành khoa học" [của nền văn minh Ấn Độ] (trong đoạn này tác
giả đi quá xa - nếu không thì cũng quá vắn tắt - không đưa ra một chi tiết nào
để chứng minh cả). Các bài tụng niệm Phật giáo theo thể loại này được
gọi chung là "các bài tụng cao quý" (noble chanting).
Nhiều vị hoàng đế thời
Nam-Bắc triều (420-589) từng thay nhau phát huy tích cực âm nhạc Phật giáo. Chẳng
hạn như Hoàng đế Wu (Wudi/梁武帝/ Lương
Vũ Đế, 464-548) thuộc triều đạì Liang (nhà Lương hay Lương triều/梁朝, 502-557) là một Phật tử thuần thành rất say mê âm nhạc Phật giáo, từng viết nhiều bài
nhạc nổi tiếng chẳng hạn như các bài: "Đại
hỷ lạc" (Great Joy), "Con đường đưa đến Cực Lạc" (Heavently Way), "Ngăn chận thảm họa và sai lầm" (Cessation of Evil and Wrongdoing) và "Làm cho bánh xe khổ đau phải dừng lại" (Stopping the Wheel of Suffering). Dù rằng
mục đích của các bài hát này lúc đầu [khi mới được sáng tác] chỉ là để sử dụng vào
việc giáo huấn, thế nhưng nhạc tính rất cao nên sau đó được xem như các sáng tác
nghệ thuật xuất sắc. Ông cũng là người đầu tiên có sáng kiến thành lập các ban
hợp ca thiếu nhi Phật giáo với các bài hát như "Thiếu nhi ca đón mừng Đạo Pháp/Dharma" (Children's joy of the Dharma Song), và
các bài khác chuyển âm từ tiếng Phạn gọi chung là "Các bài tụng Fanbei dành cho Thiếu Nhi" (Children's Fanbei). Ngoài ra Vũ Đế còn
bày ra ngày lễ Wuzhe dahui (無遮大會/Vô
già đại hội) còn gọi là lễ Vu Lan (Ullambana Festival/Vu Lan Bồn Hội, tức là "Lễ cúng cô
hồn" vào ngày rằm tháng bảy. Lễ này do Vũ Đế bày ra năm 538. Ullambana
cũng là tên của một bài kinh Đại Thừa nêu cao lòng hiếu thảo). Chính ông cũng đã mượn lễ này để tự sám hối và ông cũng
là người đầu tiên đưa các bài tụng Phật giáo vào các nghi thức của lễ Vu Lan. Công
trình quan trọng hơn cả mà ông đã thực hiện được là đưa âm nhạc truyền thống của
Trung Quốc vào âm nhạc Phật giáo.
Một số các công trình cải
tiến quan trọng nhất về lời hát và âm nhạc Phật giáo đã được thực hiện vào thời
kỳ Nam Bắc triều và giai đoạn đầu của triều đại nhà Đường. Chùa chiền thuộc tông
phái Tịnh Độ từng sáng tác nhiều bài tụng và nguyện cầu có giá trị cao có thể
ghép chung với các Tạng kinh Phật giáo (điều này dường như đi quá xa, phải chăng là một xu hướng muốn
biến Giáo Huấn của Đức Phật trở thành tín ngưỡng của Trung Quốc?). Cũng
trong khoảng thời gian này vị Thầy Huiyuan (慧遠/Huệ Viễn,
334-416) tại núi Lu (廬山/Lư
Sơn, tỉnh Giang Tây) cũng từng là người đầu tiên sử dụng âm nhạc để giảng dạy Đạo Pháp và quảng
bá Phật giáo.
Gần đây hơn, một tập nhạc
đồ sộ sáng tác dưới triều đại nhà Đường đã được khám phá trong động Đôn Hoàng tại
Trung Quốc. Các bài tụng này lúc đầu được dùng để diễn giải các kinh sutra (tức các kinh Đại Thừa bằng tiếng Phạn),
nhưng sau đó được chuyển sang các "ngôn ngữ địa phương" và được xem
như các bài tụng Phật giáo đầu tiên vay mượn các giai điệu của các bài hát dân
gian Trung Quốc. Các sáng tác này tạo ra các giai điệu hoàn toàn mới mẻ cho các
bài nguyện cầu và các bài tụng. Ngoài ra các bản ghi chép các bài hát tìm thấy
trong động Đôn Hoàng trên đây còn cho thấy một cách viết nhạc dựa vào một hệ thống
ký hiệu mới mẻ mà trước đó chưa hề thấy (rất tiếc tác giả không cho biết thêm một vài chi tiết về
các ký hiệu này). Trước khi triều đại nhà Đường chấm dứt, âm nhạc Phật
giáo đã hoàn toàn mang các đường nét Trung Quốc và đạt được một mức độ phát triển
chưa từng thấy.
Sau đó, dưới triều đại nhà
Nguyên (1279-1368),
các nhạc sĩ Phật giáo có khuynh hướng vay mượn các giai điệu trong một tập nhạc
nổi tiếng mang tựa "Các bản nhạc trước
tác dưới thời kỳ Nam Bắc triều" (thế kỷ thứ V và VI). Sau đó dưới triều đại nhà
Minh (thế kỷ
XIV-XVII) chùa chiền đã chọn được khoảng hơn 300 giai điệu dân gian
và chép vào 50 cuộn giấy (thời bấy giờ các văn bản và kinh sách thường được ghi chép
trên các tờ giấy thật dài và cuộn lại, nhưng không đóng thành sách như ngày
nay) và gọi chung là "Các
Bài hát tôn vinh hồng danh của tất cả chư Phật và chư Bồ-tát" (Songs proclaming of Titles of All the
Honorable Buddhas and Bodhisattvas). Một số các giai điệu dân gian hay nhất thời bấy
giờ đã được vay mượn để chuyển thành âm nhạc Phật giáo. Chẳng hạn như dưới thời
nhà Tống (960-1270)
bài hát Phật giáo "Tiếng hát tâm
linh" (A Spiritual Song) đã được
sáng tác bằng cách vay mượn giai điệu của bài hát "Bướm Hoa" (A
Butterfly Falls in Love with a Flower). Ngoài ra các điệu hát dân gian cũng
thường được sử dụng để quảng bá Phật giáo, nhờ đó âm nhạc Phật giáo đã trở nên
phổ biến trong quảng đại quần chúng. Dầu sao thì âm nhạc Phật giáo dường như vẫn
chưa tạo được cho mình các đường nét đặc thù và sáng tạo, vẫn tiếp tục bám chặt
vào các khuôn mẫu bảo thủ.
Sau khi nước Cộng Hòa
Trung Quốc được thành lập năm 1912 (cách mạng lật đổ nhà Thanh, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ
quân chủ Trung Quốc), âm nhạc Phật giáo dần dần mất hết ảnh hưởng trong
quảng đại quần chúng. Chỉ thấy một vài tu viện hiếm hoi tiếp tục sáng tác thêm các
bài hát mới. Tuy thế năm 1930 tại Trường Phật giáo Minnan (Minnan Buddhist Seminary, được thành lập năm
1935 do sáng kiến của nhà sư Thái Hư) hai nhà sư Taixu (tức nhà Thái Hư, đã nói đến trên đây) và Hongyi (弘一/Hoằng Nhất,1880-1942)
cũng đã sáng tác
được một bài nổi tiếng là "Bài hát
ngợi ca Tam Bảo" và kêu gọi tất cả Phật tử hãy ra sức bảo toàn và lưu
truyền gia tài âm nhạc Phật giáo. Vị Thầy Taixu/Thái Hư nghiệm thấy âm nhạc Phật
giáo là một phương tiện hữu hiệu để xiển dương Đạo Pháp, và quả quyết rằng nếu biết
sử dụng nó để quảng bá Đạo Pháp/Dharma thì nhất định nó sẽ góp phần mang lại nhiều
phong phú và đa dạng cho việc giảng dạy. Vị Thầy hợp tác với ông là Hongyi/Hoằng
Nhất trước khi xuất gia từng là một nhạc sĩ lão luyện được nhiều người mến mộ. Mười
trong số các bài hát Phật giáo mang tính cách dân gian của ông đã được chọn để thực
hiện một đĩa nhạc (album) mang tựa là "Qingliang
Collection" (Qingliang/清涼/Thanh
Lương, có nghĩa là sự Trong Lành). Tuy thế thời bấy giờ không mấy người may mắn được biết đến âm nhạc Phật
giáo, tình trạng [xã hội] này đã bóp ngạt cả một nền âm nhạc đại chúng.
Trong các năm gần đây hơn,
các bài hát và bài tụng fanbei (phiên âm từ tiếng
Phạn) tương dối được phép phổ biến rộng rãi hơn, nhờ đó đã làm bùng
lên cả một phong trào âm nhạc Phật giáo. Quả là một dấu hiệu khích lệ sau nhiều
thế kỷ im lìm (phải
chăng tác giả muốn nói là "nhiều thập niên" thay vì là "nhiều thế
kỷ"?). Trong khoảng thập niên 1950, với sự góp sức của các nhạc
sĩ như Yang Yonpu, Li Zhonghe và Wu Juche, nhiều chùa chiền tỏ ra tích cực hơn trong
việc sáng tác các bài hát mới. Một tập nhạc gộp chung một số các bài hát này
mang tựa Phật Quang Ca (Fo Guang Hymns) đã được tổ chức Phật
Quang Sơn (Fo Guang Shan) phát hành và phổ biến. Các cố gắng trên đây đã thúc đẩy
nhiều người tham gia vào lãnh vực này.
Năm 1957 dưới sự chỉ đạo
của tôi, "Ban Hợp Ca Thiếu Nhi Phật giáo Ilan" (Ilan
Buddhist Chanting Association's Youth Choir) đã thực hiện thêm được nhiều tập
nhạc khác. Chúng tôi phát hành được sáu tập, gồm chung hơn hai mươi bài. Đây là
lần đầu tiên một công trình như thế đã được thực hiện trong vòng sinh hoạt của
các Phật tử, và đã mở ra một kỷ nguyên mới trên dòng lịch sử phát triển của âm
nhạc Phật giáo. Tuy nhiên cũng có nhiều chức sắc Phật giáo không đồng tình với
các nỗ lực này. Dù bị chỉ trích nhưng tôi vẫn tin rằng các công trình trên đây
thật quan trọng đối với việc phổ biến Phật giáo, do đó tôi không hề nao núng
trước những sự chỉ trích đó. Sự kiên trì đã mang lại cho tôi một phần thưởng xứng
đáng, năm 1979, 1990, 1992 và 1995, ban hợp ca của chúng tôi được mời trình diễn
tại Giảng đường Tôn Dật Tiên (Sun Yat-Sen Memorial Hall) và Thính đường Quốc gia
tại Đài Bắc (Taipei's National Concert Hall). Các buổi trình diễn này được kèm
thêm vũ điệu, các bài nhạc cổ truyền và các bài hát ngợi ca Đạo Pháp/Dharma, đã
đánh dấu lần đầu tiên các bài tụng Phật giáo được trình diễn tại các nơi công cộng
tại Đài Loan. Ngoài ra một buổi trình diễn mang chủ đề: "Các bài hát và vũ điệu tôn vinh chư Phật Mười Phương" (Paying Homage to the Buddhas of the ten
Directions: Buddhist Song and Dance) đã được thực hiện trong một dịp lễ hội
về nghệ thuật cổ truyền tại Đài Bắc. Đây cũng là lần đầu tiên các bài tụng Phật
giáo fanbei (tức các bài tụng dịch âm từ tiếng Phạn) được
trình diễn chung với âm nhạc hiện đại Tây Phương, và cả âm nhạc cổ truyền Trung
Quốc, cùng các vũ điệu. Các cố gắng này đã mang lại cho âm nhạc Phật giáo một chỗ
đứng trong xã hội, và cũng đã được tất cả các tông phái và học phái Phật giáo tán
đồng và khen thưởng.
III. Các đóng
góp của âm nhạc Phật giáo
Các
bài hát thường mang mục đích nói lên giáo lý, trái lại các bài tụng fanbei (Phạm bái, tức các bài tụng dịch âm từ tiếng
Phạn) chỉ nhằm tạo ra những âm hưởng thanh thoát và nhịp nhàng, ngợi
ca các vị Phật và Bồ-tát quan trọng. Người Phật tử xem các bài tụng này là một
phương tiện biểu lộ nhiệt tâm của mình bằng các âm điệu nhịp nhàng. Chẳng hạn
như các bài tụng "Bhaisajyaguru
Gatha" (Bài
tụng Dược Sư Phật, chữ gatha trong tiếng Phạn có nghĩa là "bài tụng"
hay "bài hát mang tính cách thiêng liêng"/Hymn), "Avalokitesvara Gatha" (Bài tụng Quán Thế Âm Bồ-tát) nhằm nói lên
những lời nguyện của mình, cùng với các bài ngợi ca khác cùng thể loại, tất cả đã
góp phần tô điểm thêm cho gia tài kinh điển Phật giáo Trung Quốc. Các bài tụng
và bài hát thiêng liêng này được xướng lên vào các dịp lễ lạc và xem đấy như là
các lễ vật hiến dâng chư Phật và chư Bồ-tát, hoặc là để cầu khẩn họ hiện về với
mình. Chẳng hạn như các bài tụng "Dâng
Hương" (Incence Offering Prayer),
bài tụng "Giữ giới" (Incene Prayer for Upholding the Precepts)
và bài tụng "Hiến dâng lễ vật cho chư
vị thánh thần nơi cõi thiên" (Prayer
for Offerings Made to Heavenly Beings) là các cách thể hiện và nói lên phẩm
hạnh và lòng thành kính của mình.
Các bài tụng fanbei là một phát minh thật độc đáo trong lãnh vực âm nhạc cổ truyền,
mang lại cho người nghe sự thư giãn, thanh thoát và nhịp nhàng nhưng không kém phần
trang nghiêm và long trọng. Các bài tụng thuộc thể loại fanbei hàm chứa năm phẩm tính đạo đức là: sự thành thực, thanh lịch,
minh bạch, sâu sắc và bình thản. Bài tụng
về Mười Giới Luật (Ten Recitations Vinaya) cho biết nếu thường
xuyên lắng nghe các bài tụng fanbei thì
sẽ đạt được năm điều lợi ích: giảm bớt mỏi mệt trên thân thể, giảm bớt hoang
mang và đãng trí, giảm bớt sự đờ đẫn tâm thần, giúp tiếng nói thanh tao và ăn nói
lưu loát (các phẩm
tính này chỉ mang tính cách thứ yếu và phụ thuộc trên con đường giải thoát, người
tu tập chân chính phải nhìn vào những mục đích xa hơn). Trong tập lược
kê Các học phái Phật giáo tại Ấn Độ và Nam Á (Record of the Buddhist Schools in India
and Southern Asia) có cho biết việc xướng đọc các bài tụng fanbei sẽ có thể mang lại sáu phẩm hạnh sau
đây: quán thấy được các phẩm tính đạo đức thật phong phú và sâu sắc của Đức Phật,
hiểu biết được Đạo Pháp/Dharma bằng trực giác, làm giảm bớt cách ăn nói tiêu cực
và tệ hại, giúp sự hô hấp được tinh khiết và trong lành, mang lại một tâm thức
không lo âu và sợ hãi, giúp gia tăng sức khỏe.
Các bài tụng fanbei của Phật giáo giữ một vai trò
quan trọng trong cuộc sống thường nhật, trong các buổi lễ sám hối cũng như khi
thuyết giảng Đạo Pháp/Dharma. Người Phật tử thuần thành cũng nên xướng đọc các
bài tụng fanbei, chẳng hạn như các câu
Man-tra khi Cúng
Cơm (Meal Offering Mantra) và Dọn Mâm xuống (Meal Completion Mantra) hoặc hồi hướng Công Đức của mình cho chư Phật
và tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi. Trong các buổi lễ sám hối các bài
tụng sẽ được xướng lên để hướng dẫn các Phật tử tham dự đọc theo. Trong các buổi
giảng kinh thì trước hết phải tụng niệm cầu xin chư Phật và chư Bồ-tát hãy hiện
về để chứng giám, đó là cách tạo ra sự long trọng và làm gia tăng thêm sự trang
nghiêm và tôn kính cho buổi giảng. Trước khi buổi lễ hay buổi giảng chấm dứt thì
phải xướng đọc bài tụng "Hồi Hướng
Công Đức" để hiến dâng cho tất cả chúng sinh những gì xứng đáng mà mình
vừa thực hiện được. Qua bài tụng đó người tham dự cũng phải xướng lên những lời
cầu xin mong sao cho tất cả chúng sinh loại bỏ được khổ đau hầu mang lại hạnh
phúc cho mình.
Các bài tụng fanbei của Phật giáo không đòi hỏi người
nghe hay người tụng phải phát lộ hay gợi lên những xúc cảm cao siêu. Mục đích
hoàn toàn trái hẳn, đấy chỉ là cách bảo toàn năng lượng của xúc cảm được toàn vẹn
hơn, giúp tư duy lắng xuống, làm giảm bớt các sự thèm muốn, mang lại sự sáng suốt
cho tâm thức, giúp nó trông thấy bản chất đích thật của chính nó. Bài kinh Vòng Hoa Trang Sức (Flower Adornment Sutra. Phải chăng tác giả muốn
nói đến kinh Avatamsaka Sutra tức là Kinh Hoa Nghiêm?) và Kinh Hoa Sen (Lotus Sutra / Saddharmapuṇḍarīkasūtra) cho biết rằng nếu muốn thực thi nghi lễ hoặc
giảng dạy Đạo Pháp/Dharma thì phải sử dụng "âm
nhạc" hoặc "hát lên các bài
ngợi ca Đạo Pháp/Dharma với con tim hân hoan". Vì thế các bài tụng fanbei luôn giữ một vai trò quan trọng
trong việc giảng dạy Đạo Pháp/Dharma.
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng
Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc
qua nhiều đế quốc và triều đại (nước Trung Hoa có lúc "thống nhất", có lúc chia
thành nhiều "nước" hay "đế quốc" khác nhau").
Trước thời nhà Đường không mấy khi thấy các nhạc sĩ của hoàng triều sáng tác,
phát hành hay phổ biến các bài nhạc mang tính cách dân gian. Dầu sao giữa hai
triều đại là nhà Tùy (Sui dynasty, 581-618) và nhà Đường (Tang dynasty, 619-907)
việc giao thương giữa hai miền Tây và Đông Trung Quốc được mở mang, nhờ đó âm
nhạc của các vùng viễn Tây và cả phía Bắc được đưa vào các vùng phía Đông với dân
cư đông đúc hơn. Ngoài ra chiến tranh cũng đã làm mất mát rất nhiều gia tài âm
nhạc cổ truyền của Trung Quôc. Tình trạng trên đây đã đưa đến một giai đoạn sáng
tạo mới với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau.
Sau khi triều đại Bắc Tống
(960-1127)
suy tàn, các nghệ sĩ trong mỗi địa phương tự phát triển một nền âm nhạc riêng. Người
dân trong xã hội tự do thành lập các hội âm nhạc, kể cả việc thiết lập các trụ
sở và thính đường làm nơi trình diễn. Kết quả là dưới các triều đại nhà Đường,
nhà Tống và nhà Nguyên (1277-1367), Phật giáo dần dần được phát triển và đã phổ
biến một phương pháp mới trong việc giảng dạy Đạo Pháp/Dharma, các bài tụng fanbei được kèm thêm vào chương trình thuyết
giảng. Cách giảng dạy này gọi là "phương pháp giảng dạy bằng cách tụng niệm"
("singing lecture technique"). Các buổi thuyết giảng như thế rất linh
động, thu hút được nhiều người. Các tư liệu tìm thấy trong động Đôn Hoàng từng nêu
lên thành quả của phong trào giảng dạy bằng cách trên đây. Trong các tư liệu này
cũng thấy ghi chép một hệ thống ký hiệu do những người tu hành thiết lập từ hàng
bao thế kỷ trước, nhằm chỉ dẫn các Phật tử cách thức tụng niệm. Trong các tư liệu
này cũng thấy nói đến các buổi lễ trang trọng gồm vũ điệu, hòa tấu, nghi thức hiến
dâng lễ vật, và diễn tấu âm nhạc của chốn thiên đình (xin lưu ý các sinh hoạt Phật sự trên đây cho
thấy hết sức rõ ràng một sự "mở rộng" mang tính cách tôn giáo, nếu không
muốn nói là đưa Giáo Huấn của Đức Phật vào một cuộc "phiêu lưu" rất
xa. Dầu sao các hình thức "tu tập" đó cũng có thể xem như là các phương
tiện thiện xảo nhằm tạm thời xoa dịu khổ đau, mang con người đến gần với nhau
hơn. Động Đôn Huàng được thiết kế liên tục từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIV, cao
điểm vào giữa các thế kỷ thứ VII và IX tức dưới triều đại nhà Đường. Thế nhưng
ngày nay Đôn Huàng chỉ còn là một điểm du lịch. Nêu lên sự kiện trên đây là để
giúp chúng ta nhìn lại vị trí và hướng đi của mình trên đường tu tập xem có đúng
với Giáo Huấn của Đức Phật hay không? Bước theo bất cứ một sự chuyển động nào
trong thế giới hiện tượng đều đưa chúng ta vào một cuộc phiêu lưu bất tận. Ý thức
được điều đó sẽ giúp chúng ta biết nhìn thật sâu vào Giáo Huấn của Đức Phật và
thật sâu trong tâm thức của chính mình, bởi vì chỉ có hai nơi đó chúng ta mới
có thể tìm thấy một sự "yên lặng" tuyệt đối, một sự "dừng lại"
đích thật mà thôi). Ngày nay các tư liệu trên đây [trong hang động Đôn
Hoàng] được xem là các di tích lịch sử vô giá của nền văn học Trung Quốc, và cũng
là các bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy sự đóng góp của Phật giáo vào nền văn
hóa đó.
Nhìn qua sự kết hợp chặt
chẽ giữa âm nhạc truyền thống Trung Quốc và âm nhạc Phật giáo chúng ta sẽ nhận
thấy chùa chiền chính là các trung tâm bảo tồn và phổ biến các bài hát cổ truyền
của dân tộc (ballads). Dưới triều đại nhà Tống (Song dynaty, 960-1279), một vị đại
quan trong triều là Cheng Mingdao (成明到/Thành
Minh Đáo) một học giả nổi
tiếng, trong khi tham dự một buổi lễ tại ngôi chùa Guan Yunmen (管雲門/Quản
Vân Môn) và đang lắng nghe
ban nhạc hòa tấu với nhiều thể loại khí cụ cổ điển, chuông trống vang lên thật
mạnh, bỗng cảm thấy mình bị khích động lạ thường, bèn thét to lên: "À! Thế ra âm nhạc của cả ba triều đại
cũng chính là đây" ("cả ba triều đại" ở đây có nghĩa là toàn bộ quá
khứ của xứ sở. Ồn ào và tự phụ cũng là một nét đặc thù của nền văn hóa Trung Quốc,
trong khi đó Phật giáo lúc nào cũng chỉ là một sự yên lặng thật sâu mà thôi. Tham
lam, biển lận, ồn ào và ngạo mạn không hề phản ảnh những đóng góp của Phật giáo
vào bất cứ một nền văn hóa hay xã hội nào cả).
Trong giai đoạn tiền-hiện-đại
(trong nguyên bản
là chữ pre-modern) của Trung Quốc (không biết rõ là tác giả muốn nói đến giai đoạn
nào trong lịch sử Trung Quốc?) các vị quan chức trong chính quyền
ngoài việc quản lý hành chánh còn phải học hỏi thêm về các lãnh vực khác, trong
số này có cả âm nhạc cổ truyền Trung Quốc. Điều này cho thấy những lời thốt lên
trên đây của Cheng Mingdao/Thành Minh Đáo mang thật nhiều ý nghĩa (Thiết nghĩ lương
thiện và đạo đức khẩn thiết và bổ ích hơn nhiều so với sự am tường về âm nhạc cổ
truyền đối với một quan chức nhà nước, dù là dưới một thể chế nào hay một chính
quyền nào cũng vậy).
Có thể hình dung các đóng
góp của âm nhạc Phật giáo qua truyền thuyết sau đây về một nhạc sĩ Phật giáo nổi
tiếng. Vào thời đại của Đức Phật có một vị tỳ-kheo tên là Pathaka có một giọng
hát thật hay có thể cảm hóa được cả thú rừng. Một hôm vua Prasenajit (kinh sách Hán ngữ
gọi là vua Ba-tư-nặc, một trong các vị vua của xứ Kosala/Kiều-tát-la vào thời đại
của Đức Phật) thống lãnh một đạo quân chinh phạt xứ Anga (một quốc
gia nhỏ bé của nước Ấn thời xưa) (Anga là một trong số 16 vương quốc vào thời đại của Đức Phật,
nằm vào mạn nam của thung lũng sông Hằng, giáp ranh với đế quốc Magadha/Ma-kiệt-đà).
Khi đoàn quân đi ngang tu viện Jetavana (Kỳ Viên, Đức Phật thường dừng chân và thuyết giảng tại tu
viện này trong suốt 20 năm sau cùng trong kiếp nhân sinh này của Ngài. Tu viện Jetavana
thường được nhắc đến trong nhiều bài kinh, nằm gần thị trấn Shravasti/Xá-vệ, thuộc
lãnh thổ xứ Kosala, ngày nay thuộc tiểu bang Utar Pradesh) và trong
lúc đó thì [trong tu viện] người tỳ kheo Pathaka cũng đang cất tiếng hát, các
con ngựa [trong đạo quân] bị mê hoặc bởi giọng hát bèn dừng lại không chịu tiến
lên nữa. Vua Prasenajit cũng rất xúc động trước âm điệu tuyệt vời trong tiếng hát
[của Pathaka] bèn quyết định ngưng tiến quân và ra lệnh quay trở lại kinh đô.
IV. Canh tân
âm nhạc Phật giáo
Sau khi đến Đài Loan năm
1949, tôi nghĩ rằng công việc khẩn thiết nhất mà tôi nên làm là cải tiến các bài
hát dùng để giảng dạy Đạo Pháp/Dharma. Do đó một mặt tôi cố gắng nêu cao vai trò
của âm nhạc Phật giáo, một mặt chủ trương phải đơn giản hóa các bài hát hầu mọi
người có thể hiểu được, và đồng thời cũng nên vay mượn các giai điệu trong âm
nhạc dân gian và cả tân tiến ngày nay. Niềm ước mơ của tôi là làm thế nào để có
thật nhiều bài hát Phật giáo có thể làm rung động con tim người nghe, nhưng cũng
phải dễ đàn và dễ hát. Theo chiều hướng đó, tôi đã viết lời cho nhiều bài hát
Phật giáo và hướng dẫn Ban hợp ca Thiếu nhi Phật giáo Ilan lần đầu tiên được mời trình diễn trên đài phát thanh Minben năm
1954. Ngoài ra tôi vẫn tiếp tục cải tiến các bài tụng Dharma/Đạo Pháp nhằm mang
lại một vị thế vững chắc hơn cho các bài tụng này trong mọi sinh hoạt của người
Phật tử.
Lúc đầu quan điểm của tôi
bị chỉ trích nặng nề, đến độ nhiều người cho rằng công việc đó có thể đưa đến tình
trạng hủy diệt cả Phật giáo. Thế nhưng sau cùng thì các chủ trương trên đây đã
mang lại kết quả. Sự quyến rũ của âm nhạc có khả năng kết hợp được nhiều người qua
các đoàn thể Phật giáo, đó là cách tạo dịp
để mọi người có thể tham dự thường xuyên hơn các buổi thuyết giảng hầu cải thiện
cuộc sống tâm linh của mình. Hơn nữa các cố gắng trên đây cũng đã khích lệ các tài
năng trẻ tham gia tích cực hơn vào các sinh hoạt Phật giáo. Trong số này có thể
kể ra trường hợp của hai nhà sư Tzu Hui và Tzu Jung, cả hai nguyện xả thân vì
Phật giáo và họ đã thực hiện được nhiều đóng góp quan trọng. Dù vẫn còn nhiều
khó khăn và trở ngại thế nhưng tôi nhất quyết canh tân âm nhạc Phật giáo.
Sở dĩ tôi ước mong canh
tân âm nhạc Phật giáo là để biến cải xã hội và quảng bá một phương pháp có thể tinh
khiết hóa con tim và tâm thức con người trong thế hệ ngày nay. Cuộc sống trong các
xã hội tân tiến thật hết sức mệt mỏi và căng thẳng. Nhiều người không sao tìm
được một nơi an trú tâm linh và họ đã đánh mất chính mình. Thế nhưng các âm hưởng
tinh khiết của âm nhạc Phật giáo cũng có thể tạo ra một thể dạng siêu thoát thật
cao độ từng được nêu lên trong kinh sách, giúp cho tâm thức trở nên phong phú và
cường lực hơn.
Âm hưởng trong âm nhạc
Phật giáo rất mạnh nhưng không sôi sục, êm dịu nhưng không yếu hèn, tinh khiết
nhưng không khô cằn, tĩnh lặng nhưng không nhu nhược, có thể tinh khiết hóa tâm
thức người nghe. Sử dụng âm nhạc để giảng dạy Đạo Pháp và giải thoát chúng sinh
là một phương tiện giúp chúng ta vượt thoát khỏi thời gian và không gian (âm nhạc chỉ có thể
gợi lên những xúc cảm tín ngưỡng nhưng không mang lại trí tuệ và sự giải thoát
được. Các cảm tính "vượt thoát thời gian và không gian" cũng chỉ là
những rung động cực mạnh thuộc thể loại "thích thú" tạo ra bởi "cảm
giác" phát sinh trong tâm thức thông qua cơ quan cảm giác là tai, khi cơ
quan này tiếp xúc với các làn sóng âm thanh từ môi trường bên ngoài. Nếu có những
âm thanh "thích thú" thì cũng có những âm thanh "khó chịu"
hoặc "trung hòa" hay hoàn toàn "vô cảm", chẳng hạn như trường
hợp "đàn gẩy tai trâu", hoặc trong trường hợp một người câm điếc bẩm
sinh thì thế giới là một sự yên lặng mênh mông, người này không có một ý niệm
hay cảm giác nào về âm thanh cả. Tất cả các thể loại cảm giác và phi cảm giác về
âm thanh trên đây tùy thuộc vào nghiệp của mỗi cá thể), và vượt lên
trên mọi bất đồng về văn hóa và quốc gia (điều này cũng không hoàn toàn đúng, chẳng hạn như cùng một
dân tộc trong cùng một quốc gia nhưng người miền Nam thì thích nghe vọng cổ,
người miền Bắc thích nghe chèo và quan họ, người miền Trung dễ xúc động hơn khi
nghe những câu hò mái nhì - mái đẩy, đấy là chưa nói đến các yếu tố tuổi tác,
nam nữ, giáo dục, văn hóa, sắc tộc... cũng ảnh hưởng đến các cảm giác "thích
thú", "khó chịu" hay "trung hòa" phát sinh trong tâm
thức. Nói một cách tổng quát hơn thì âm thanh chỉ là cơ duyên (conditions) thuộc
môi trường bên ngoài, xúc động liên hệ đến nghiệp tức là nguyên nhân nằm thật
sâu bên trong tâm thức của mỗi cá thể). Âm nhạc có thể góp phần quảng
bá Phật giáo, trải rộng trí tuệ và lòng từ bi của chư Phật và chư Bồ-tát khắp ngõ
ngách trên hành tinh này.
Âm nhạc Phật giáo hiện đại
có thể mang lại sự hài hòa trong cuộc sống thường nhật, tinh khiết hóa, biến đổi
và cải thiện tâm thức giúp cho các xúc cảm thích nghi hơn với Đạo Pháp/Dharma. Báo
chí và kỹ thuật truyền thông ngày nay luôn được cải tiến, do đó chúng ta cũng nên
lợi dụng các phương tiện hữu hiệu này để mang âm nhạc Phật giáo đến với mọi người,
các đông càng tốt. Chúng ta nên mượn âm nhạc để xóa bỏ các ranh giới văn hóa, tập
quán và ngôn ngữ. Các khí cụ cổ truyền, các phương tiện video, đàn organ điện tử,
dương cầm và các khí cụ khác có thể giúp chúng ta tạo ra các giai điệu phù hợp
với tất cả mọi người trên thế giới (điều này có thể chỉ là một sự "ước mơ" phản ảnh sự
nhiệt tâm của tác giả. Như đã được nói đến trên đây cảm giác "thích
thú" tùy thuộc vào bản chất, tánh khí, giáo dục, lứa tuổi của mỗi cá thể, bao
quát hơn là văn hóa, chủng tộc, truyền thống..., do đó âm nhạc có thể thu hút
được một số người đông đảo nhưng không thể nào có thể chinh phục được tất cả mọi
người).
Sau đây là năm nguyên tắc
chỉ đạo nhằm mục đích canh tân hóa và đại chúng hóa âm nhạc Phật giáo trong tương
lai:
- Không nên giới hạn Âm
nhạc Phật giáo trong khuôn khổ sinh hoạt của chùa chiền mà phải mang ra trình
diễn trước công chúng.
- Âm nhạc Phật giáo phải
vượt xa hơn các việc tụng niệm và nguyện cầu. Người nghệ sĩ phải thường xuyên sáng
tác các bài hát mới.
- Phải tận dụng âm nhạc
để phổ biến Phật giáo, bởi vì âm nhạc là một phương tiện có thể mang thật nhiều
chúng sinh đến gần với Phật giáo (hầu hết các tôn giáo khác cũng đều tận dụng phương tiện thiện
xảo này).
- Người Phật giáo phải thành
lập các ban nhạc, các ban hợp ca, hợp tấu, các ban nhạc truyền thống, cũng như
các đoàn thể khác góp phần vào việc quảng bá và giảng dạy Đạo Pháp/Dharma bằng âm
nhạc.
- Chúng ta cầu mong sao
quan điểm trên đây sẽ làm xuất hiện trên dòng phát triển của Phật giáo ngày càng
nhiều các nhạc sĩ Phật giáo với tầm cỡ của vị Bồ-tát Asvaghosa (Asvaghosa/Mã Minh,
thế kỷ thứ II, là thi sĩ, văn hào, nhạc sĩ, kịch gia, triết gia, luận sư, và cũng
là một nhà hùng biện lừng danh thắng tất cả các luận sư khác trong các buổi
tranh biện thời bấy giờ. Do đó không nhất thiết ông chỉ là một vị Bồ-tát nhạc sĩ
như đã được tác giả nêu lên trên đây) và vị Thầy Hongyi (Hoằng Nhất là một
nhà sư cận đại, 1880-1942, cộng tác viên của nhà sư Thái Hư, cả hai đã được nói
đến trên đây. Do đó thiết nghĩ xếp chung Hoằng Nhất với Mã Minh quả không được
thích nghi lắm, bởi vì sự chênh lệch giữa hai người quá lớn)
Ngoài việc quy định các
tiêu chuẩn kỹ thuật và các giai điệu cho âm nhạc Phật giáo sử dụng trong các dịp
lễ lạc, chúng ta còn phải dung hòa giữa tính cách trang trọng của các bài tụng
thiêng liêng của Phật giáo với một số giai điệu của âm nhạc tân tiến ngày nay hầu
canh tân và nâng âm nhạc Phật giáo lên một cấp bậc cao hơn.
Vài lời ghi chú của người chuyển ngữ
Trong đêm khi rời bỏ
gia đình và cung điện, vị hoàng tử Siddhartha/Tất-đạt-đa rón rén bước ngang nơi
các nhạc công và vũ nữ đang nằm ngủ la liệt, mệt nhoài trong các tư thế thật
khiếm nhã, nước bọt chảy ra từ miệng, kèn sáo ngổn ngang. Sau khi trở thành một
vị Phật, vị hoàng tử trước kia đã đưa ra một số giới luật quy định sự sinh hoạt
của các đệ tử của mình, trong đó giới luật thứ bảy như sau:
"Nacca gīta vādita visukadassanā mālā gandha vilepana dhārana mandana
vibhūsanaṭṭhānā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādhiyāmi",
"Tôi không được
mê thích âm nhạc, đàn ca, nhảy múa, hoa thơm, nữ trang và các loại trang sức
khác".
Thế nhưng trong bài viết trên đây nhà sư Hsing Yun/Tinh
Vân đã nêu cao vai trò của âm nhạc trong việc tu tập, quảng bá và "giảng dạy"
Dharma/Đạo Pháp. Vậy phải hiểu vấn đề này như thế nào? Âm nhạc có được nói đến
trong Giáo Huấn của Đức Phật hay không? Vai trò và vị trí của nó là gì trong bối
cảnh của Phật giáo ngày nay?
Trong Tam Tạng Kinh
không hề thấy nói đến âm nhạc, ca múa, tụng niệm, mà chỉ nhất thiết nêu lên bản
chất khổ đau của thế giới hiện tượng và đưa ra Con Đường giúp chúng sinh thoát
ra khỏi thế giới đó. Con Đường ấy rất thiết thực, trực tiếp và cụ thể, thế nhưng
dưới một góc nhìn nào đó thì nó cũng rất giản dị, tương tự như một con đường đất
với những dấu chân trần trụi của một vị Phật in sâu trên lớp bụi đường. Thế
nhưng đôi khi chúng ta không nhìn thấy những vết chân ấy để bước theo mà chi loanh
quanh tô điểm và chăm sóc cho Con Đường, nào là hoa thơm, cỏ lạ, trống kèn, chuông
mõ, ca hát, tụng niệm, khiến nó ngày càng trở nên ồn ào và phức tạp.
Con người rất đa dạng,
tạo ra cho mình một cuộc sống với thật nhiều đòi hỏi và một xã hôi vô cùng biến
động. Chúng ta cứ nghĩ rằng luật pháp, sự tiến bộ, các thể chế chính trị, tôn
giáo có thể an bài cuộc sống và quy củ hóa xã hội, thế nhưng thật ra những thứ ấy
ngày càng tạo ra thêm rắc rối cho con người và xã hội mà thôi. Theo Giáo Huấn của
Đức Phật thì sự rắc rối ấy của thế giới và của cả sự sống nói chung không bắt
nguồn từ bên ngoài mà là hậu quả phát sinh từ những sự rắc rối bên trong tâm thức
con người.
Cái tâm thức rắc rối ấy
ẩn nấp bên trong một thân xác và phía sau năm cơ quan cảm giác. Tâm thức xuyên
qua năm giác quan đòi hỏi quá nhiều, đấy chính là nguyên nhân sâu xa làm cho thế
giới trở nên bấn loạn vì không đáp ứng được những sự đòi hỏi của tâm thức con
người. Âm nhạc hay các âm thanh thích thú nói chung chỉ là một trong số các đòi
hỏi đó của thính giác và tâm thức. Chúng ta thích nghe tiếng đàn hơn là tiếng
súng, thích nghe lời ngọt ngào hơn là lời chửi mắng, v.v. Mở rộng thêm lãnh vực
thính giác thì sẽ thấy rằng thế giới này thật vô cùng ồn ào: báo chí, truyền
hình, điện thoại, những lời hô hào, tuyên truyền, v.v. Nếu nhìn vào các giác
quan khác thì cũng thế, càng mở rộng thì càng nhận thấy thế giới này vô cùng phức
tạp. Trở lại với bài viết trên đây thì âm nhạc gây ra xúc cảm trong tâm thức, có
nghĩa là thuộc vào lãnh vực tâm lý. Do đó nếu muốn tìm hiểu và xác định vị trí
và vai trò của âm nhạc trong Giáo Huấn của Đức Phật thì phải đặt nó và phân
tích nó trong lãnh vực tâm lý học Phật giáo.
Sự hiểu biết theo Phật
giáo gồm có sáu thể loại: năm thể loại phát sinh từ ngũ giác và một thể loại từ
tâm thức. Xin nhắc lại là nếu muốn tìm hiểu Phật giáo, nhất là tâm lý học Phật
giáo, thì phải luôn lưu ý đến một khái niệm thật quan trọng là tâm thức cũng là
một giác quan tương tự như các giác quan khác. Đối tượng cảm nhận của mắt là
màu sắc, hình tướng,sự chuyển động..., đối tượng cảm nhận của tai là âm thanh,
tiếng động, v.v., đối tượng cảm nhận của tâm thức là các cảm tính "thích
thú", "khó chịu" hay "trung hòa" thông qua trung gian
của ngũ giác cũng như những gì hiện ra bên trong tâm thức, tức là bên trong chính
nó. Tất cả các sự cảm nhận trên đây của ngũ giác và tâm thức kinh sách gọi là "vedana".
Chữ vedana
là tiếng Pa-li và tiếng Phạn, kinh sách Hán ngữ gọi là "thọ" hay "thụ",
tiếng Anh là "feeling" hay "sensation",
có thể dịch sang tiếng Việt là "cảm giác" hay sự "cảm
nhận". Dầu sao thì tất cả các từ này đều là tạm dịch vì không phản
ảnh trung thực được ý nghĩa của chữ "vedana"
trong kinh sách Phật giáo.
"Vedana" là một
khái niệm mang ý nghĩa rất rộng, có thể hiểu như là một sự nhận biết hay cảm biết
thông qua toàn bộ sáu giác quan là ngũ giác và tâm thức. Các đối tượng cảm nhận
của ngũ giác là gì thì chúng ta đều biết, riêng đối với tâm thức thì ngoài các
cảm nhận "thích thú", "khó chịu" hay "trung hòa" hiện
lên qua trung gian của ngũ giác, nó còn cảm nhận được các "hiện tượng"
hay các "sự tạo tác tâm thần" hiện ra từ bên trong nó, nói một cách dễ
hiểu hơn là tâm thức có thể cảm nhận được tâm thức tức là chính nó, tương tự
như nhìn vào một tấm gương thì mắt nhìn thấy chính nó trong gương. Trong trường
hợp đang bàn thảo là sự "cảm nhận âm thanh" thông qua cơ quan thính
giác là tai. Các âm thanh đó có thể là âm nhạc Phật giáo, tiếng tụng niệm, tiếng
cười, tiếng khóc, tiếng súng, tiếng bom, v.v. Đến đây chúng ta có thể xác định
được âm nhạc hay âm thanh nói chung là gì: đó là sự hiểu biết của tâm thức thông
qua cơ quan thính giác, sự hiểu biết này là một trong số sáu sự hiểu biết hiện
ra từ sáu giác quan.
Nếu muốn hiểu được cảm giác hay vedana hay sự hiểu biết của sáu giác quan là gì thì phải đặt khái
niệm này vào vị trí của nó bên trong một khái niệm khác bao quát hơn là Panca-Khandha tức là khái niệm về "Năm thứ Cấu hợp" - kinh sách Hán
ngữ gọi là "Ngũ uẩn" - tạo ra một cá thể. Nguyên nghĩa của chữ khandha trong tiếng Pa-li là một khối, một
đống hay một bó. chữ uẩn (蘊)trong
tiếng Hán có nghĩa cất chứa, gom góp. Các ngôn ngữ Tây Phương dịch chữ khanda là aggregate, có nghĩa là một sự gộp
chung hay cấu hợp. Tóm lại một cá thể con người theo Phật giáo là một sự nối kết
giữa năm thứ "cấu hợp", mỗi "cấu hợp" tự nó cũng lại gồm có
nhiều thứ khác kết hợp lại với nhau để tạo ra nó. Vedana/cảm giác là cấu hợp thứ hai trong số năm thứ cấu hợp. Toàn bộ
năm thứ cấu hợp là:
1- Cấu hợp thứ nhất là "Hình
tướng" tức là "Thân xác"/"Rupa",
đó là các thành phần vật chất của một cá thể, kinh sách Hán ngữ gọi là "Sắc".
2- Cấu hợp thứ hai là "Cảm
giác" tức là các sự cảm
nhận đã nói đến trên đây, đó là các sự nhận
biết hay cảm biết của ngũ giác
khi tiếp xúc với các đối tượng của chúng trong môi trường bên ngoài: hình ảnh,
màu sắc đối với mắt, âm thanh đối với tai, v.v., đặc biệt đối với giác quan thứ
sáu là tâm thức thì nó nhận biết hay cảm biết về các tín hiệu do ngũ giác đưa
vào não bộ, chẳng hạn như các tín hiệu về màu sắc, hình dạng, âm thanh, v.v., các
sự cảm nhận này gây ra ba thể dạng "thích thú", "khó chịu" hay
"trung hòa" bên trong tâm thức. Đối với tâm thức thì nó vừa cảm nhận
được các tín hiệu phát sinh từ ngũ giác truyền vào bên trong nó và đồng thời nó
cũng cảm nhận được các hiện tượng hay các sự tạo tác tâm thần hiện ra bên trong
chính nó, và các sự cảm nhận này cũng sẽ tạo ra ba thể dạng "thích thú",
"khó chịu" hay "trung hòa" trên đây, chẳng hạn như tâm thức
"nhớ lại" một chuyện vui nào đó thì nó cảm nhận được sự "thích
thú", hoặc ngược lại nếu là một chuyện buồn thì nó cảm nhận được sự
"khó chịu". Tóm lại vai trò của cấu hợp thứ hai là sự cảm nhận của
tâm thức một cá thể thông qua lục giác. Cấu hợp này tương đối giản dị vì vai
trò của nó chấm dứt sau sự phát sinh ra ba thể dạng "thích thú", khó
chịu" và "trung hòa". Mọi sự sẽ trở nên rắc rối hơn nhiều bắt đầu
từ cấu hợp thứ ba.
3- Cấu hợp thứ ba là các
"Biển
hiệu tâm thần" tức là khả năng "Nhận thức"/ "Sanna",
các ngôn ngữ Tây Phương dịch chữ này là Perception,
Notion, Conception, Cognition..., kinh sách Hán ngữ gọi là Tưởng. Đó là khả năng nhận diện hay xác định của tâm thức về một sự vật hay một sự kiện nào đó dựa vào
những gì mà nó đã từng trải nghiệm
hay học hỏi được trước đó, chẳng hạn
như mắt cảm nhận hay trông thấy một nhân dạng thì xuyên qua sự
cảm nhận ấy tâm thức nhận diện hay xác định được đây là một người "phụ
nữ", một "nam giới" hay một "đứa bé"..., hoặc tai cảm nhận hay nghe thấy một âm thanh thì sau đó
tâm thức xác định hay
nhận biết được đây là "tiếng chuông", "tiếng mõ", "tiếng
đàn", "tiếng súng" hay "tiếng cười" của một người nào
đó, v.v.
4- Cấu hợp thứ tư là các
"Yếu
tố hay nhân tố tạo nghiệp" tức là các "Tác
ý"/"Samkhara", kinh sách Hán ngữ gọi là Hành, các yếu tố hay nhân tố tạo nghiệp còn được gọi là các "sự tạo tác tâm thần" (mental
formations, impulses, volitions), do đó chữ "tác
ý" trong tiếng Việt khá chính xác để chỉ cấu hợp thứ tư này, đó là các
ý định hiện ra trong tâm thức phát sinh từ sự diễn đạt của tâm thức dựa vào hay căn cứ vào sự nhận
thức của cấu hợp thứ ba trên đây. Các sự diễn đạt này đưa đến các ý định hay tác ý có thể là "thuận lợi",
"bất thuận lợi" hay "trung hòa". Chẳng hạn như nghe thấy tiếng
cười của một người nào đó thì xác định ngay đây là tiếng cười "nhạo báng"
của một người mà mình "thù ghét" từ lâu, khiến mình "tức tối"
muốn tìm cách "trả thù", hoặc trong trường hợp khác khi nghe thấy tiếng
chuông, tiếng mõ tiếng tụng niệm thì cảm thấy "an tâm", "thanh
thản", cả hai trường hợp đều là các yếu
tố hay nhân tố tạo nghiệp, đưa đến
các xúc cảm và các tác ý khác, các tác ý này có thể phát lộ ra trên thân xác bằng
ngôn từ hay hành động. Tất cả các tác ý, ngôn từ và hành động nây đều là nguyên
nhân tạo ra nghiệp mới.
Cấu hợp thứ tư trên đây
vô cùng phức tạp, bởi vì các hình thức diễn
đạt là kết quả mang lại từ sự liên kết và tương tác giữa những gì mà tâm thức
tiếp nhận được từ ngũ giác và các nghiệp quá khứ tồn lưu bên trong chính nó. Kết
quả mang lại từ sự diễn đạt hay liên kết đó là các "tư duy", "xúc
cảm" và "tác ý" hiện ra trong tâm thức, nói chung là các thứ "tạo tác tâm thần". Dưới một
góc nhìn khác đơn giản hơn thì đấy là các phản ứng theo thói quen của một cá thể
dưới hình thức tư duy, xúc cảm hay tác ý đối với những gì mà cá thể ấy cảm
nhận được qua cấu hợp thứ hai, nhận thức được qua cấu hợp thứ ba và
diễn
đạt được qua cấu hợp thứ tư. Các phản ứng đó thường là mang tính cách tự
động, gần như là vô thức đối với một người bình dị, chỉ có người hành thiền thành
thạo mới nhận biết và phân tích được diễn tiến tuần tự của quá trình vận hành của
tâm thức đưa đến các phản ứng trên đây.
Hãy mượn câu chuyện về
một người bị trúng tên trong kinh Sallatha
Sutta (Bài Kinh về Mũi Tên, Tương Ưng Bộ Kinh, SN 36.6) để giải thích thêm
về bốn thứ cấu hợp trên đây. Người này cảm thấy có một vật gì đó phập sâu vào da thịt
mình (cấu hợp thứ nhất rupa/thân xác);
sự tiếp xúc đó đưa đến sự cảm nhận đau đớn/khó chịu bên trong tâm thức (cấu
hợp thứ hai vedana/cảm giác); người
này nhận
biết được vật cắm vào da thịt mình là một mũi tên (cấu hợp thứ ba sanna/sự nhận thức), người này thắc
mắc, bực tức, thù hận... (cấu hợp
thứ tư samkhara/yếu tố tạo nghiệp)
5- Cấu hợp thứ năm là "Tâm
thức"/"Vinnana", là cấu hợp thu góp, kết nạp và cất chứa
tất cả những gì phát sinh từ bốn cấu hợp trên đây, đồng thời giữ vai trò của một
"chủ thể" đứng ra "hiểu biết" những thứ ấy dựa vào một sự
phân biệt gọi là "nhị nguyên" (dualism) gồm có hai thể dạng đối nghịch
nhau: một đằng là "chủ thể" hiểu biết và và một đằng là "đối tượng"
được hiểu biết. Sự hiểu biết này gồm có sáu thể dạng: hiểu biết thị giác, thính
giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và tâm thần (đã được nói đến trên đây). Tổng
hợp của sáu thể dạng hiểu biết này gọi là vinnana/tâm
thức và sự vận hành mang tính cách nhị nguyên của nó thường được nhận diện
là "cái tôi" hay "cái ngã", theo các tôn giáo độc thần thì sự
vận hành đó là một thứ "linh hồn" trường tồn và bất biến. Sự tưởng tượng
và nhận định sai lầm này - tức cho rằng "cái tôi", "cái
ngã" hay "cái linh hồn" hàm chứa một sự hiện hữu trường tồn, bất
biền và rất thật - là nguồn gốc sâu xa nhất mang lại khổ đau cho từng mỗi cá thể,
mở rộng ra là tất cả nhân loại.
Hãy trở lại với câu
chuyện người bị trúng tên trên đây. Người này sau khi ý thức được sự đau đớn do
mũi tên gây ra thì "tìm cách cưỡng lại
sự đau đớn đó và bị ám ảnh bởi thái độ kháng cự bướng bỉnh ấy của mình, người
này có thể sẽ tức giận, ta thán, oán trách, đau buồn, đấm ngực, hoảng sợ, tương
tự như bị thêm một mũi tên thứ hai bắn vào nội tâm mình, hoặc người này cũng có
thể nghĩ rằng sự đau đớn đó chỉ là trên thân xác, không có sự đau đớn nào xảy
ra trong tâm thức cả" (trích từ
bài kinh Sallatha Sutta trên đây). Mũi
tên thứ hai phát sinh từ cấu hợp thứ năm là tâm
thức/vinnana.
Sau đây là một hình ảnh
cụ thể tóm lược khái niệm về sự vận hành của năm thứ cấu hợp tạo ra một cá thể.
Chúng ta hãy hình dung ra một gian nhà với năm cửa sổ, gian nhà gồm các bức tường,
mái nhà, kèo cột biểu trưng cho thân xác/rupa,
năm cửa sổ là năm giác quan giúp gian nhà tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Những
gì lọt qua năm cửa sổ có thể mang lại sự "thích thú", "khó chịu"
hay "trung hòa", chẳng hạn như tiếng chim hót ngoài sân lọt qua cửa sổ
mang lại sự thích thú trong gian nhà, tiếng cãi vã hay đánh nhau ngoài đường
mang lại sự khó chịu, tiếng xào xạc của cành lá trong vườn không gây ra thích
thú cũng như khó chịu. Ba thể loại cảm nhận này tạo ra cấu hợp cảm giác /vedana, nói lên sự sinh động
bên trong gian nhà. Các sự nhận định:
đây là tiếng chim, đây là tiếng cãi vã, đây là tiếng xào xạc của cành lá là các biểu hiện tâm thần, tức là cấu hợp
thứ ba là sự nhận thức/sanna. Tiếng
chim tạo ra bầu không khí vui tươi trong nhà, tiếng cãi vã tạo ra sự căng thẳng
và bực bội, cứ muốn thò đầu ra cửa sổ để la rầy những người ngoài đường, là cấu
hợp thứ tư samkhara/tác ý. Mùi hôi thối
bay vào nhà khiến phải khép cánh cửa sổ khứu giác lại, hoặc hừng đông ló dạng,
mở toang cửa sổ thị giác để ánh sáng chan hòa trong nhà, v.v., là các phản ứng phát
sinh từ sự vận hành của tâm thức/vinnana
tức là cấu hợp thứ năm.
Đến đây thiết nghĩ
chúng ta cũng đã nhận định được vị trí và vai trò của âm nhạc hay âm thanh nói
chung đối với một cá thể: đó là các làn sóng âm thanh lọt qua cửa sổ thính giác.
mang lại sự thích thú (vedana), các
âm thanh ấy có thể là âm nhạc Phật giáo (sanna),
tạo ra các xúc cảm thiêng liêng (samkhara),
các xúc cảm thiêng liêng đó thúc đẩy mình đồng hóa các âm thanh ấy với một sự mầu
nhiệm nào đó, chẳng hạn như sự giải thoát (vinnana),
Thế nhưng thật ra đấy không phải là sự Giải Thoát đích thật mà chỉ là tác động
mang lại từ sự vận hành của tâm thức đối với các âm thanh "thiêng
liêng" lọt vào "cửa sổ" thính giác mà thôi.
Qua góc nhìn trên đây thì
âm nhạc Phật giáo cũng chỉ là một phương tiện thiện xảo với tất cả những sự lợi
ích cũng như các giới hạn của nó, có nghĩa là những yếu tố tạo nghiệp dù là mang
tính cách tích cực tạo ra nghiệp tốt lành cũng vậy. Âm nhạc Phật giáo là cơ
duyên (conditions) thuộc bên ngoài tâm thức, có thể tạo ra các yếu tố tích cực
bên trong tâm thức, nhưng không phải là tâm thức. Bất cứ một hình thức tu tập
nào hướng ra bên ngoài tâm thức đều không đi đúng với Giáo Huấn của Đức Phật.
Tu tập Phật giáo là hướng vào bên trong cấu hợp tâm thức hay vinnana để
phân tích, tìm hiểu và biến cải nó.
Trở lại với bài viết của
nhà sư Tinh Vân trên đây thì thật hết sức rõ ràng Âm nhạc Phật giáo kể cả việc
tụng niệm cũng chỉ là các phương tiện thiện xảo mà thôi, và nhà sư Tinh Vân dường
như cũng đã khẳng định điều này, bởi vì nội dung của bài viết cũng chỉ xoay
quanh việc sử dụng âm nhạc để quảng bá và "giảng dạy" Đạo Pháp.
Hầu hết các tín ngưỡng
khác cũng sử dụng âm nhạc như là một phương tiện thiện xảo để phổ biến tín ngưỡng
của mình. Giữa nghệ thuật và tín ngưỡng nói chung có một số đường nét giống
nhau, gợi lên các xúc cảm bén nhạy, sâu sắc và tinh tế. Các xúc cảm hay rung động
đó hiện lên với các nghệ sĩ, triết gia,
thi hào, văn sĩ... tạo ra các cảm hứng giúp họ sáng tác. Nếu các cảm hứng ấy
mang tính thiêng liêng thì các sáng tác của họ sẽ hướng vào lãnh vực tín ngưỡng.
Ngược lại nếu các cảm hứng ấy hiện lên với một người tu hành thì sẽ biến họ trở
thành một người nghệ sĩ và các sáng tác của họ cũng sẽ nghiêng nhiều về các khía
cách nghệ thuật. Nếu có nhiều nghệ sĩ xuất gia thì cũng có nhiều nhà sư làm
công việc của người nghệ sĩ, điển hình là nhà sư nhạc sĩ Tinh Vân, tác giả bài
viết trên đây.
Văn chương, thi phú, âm
nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, vũ điệu, kịch nghệ, v.v. đã đạt được các
thành quả thật cao trong lãnh vực tín ngưỡng. Các bản nhạc giao hưởng mang tính
cách thiêng liêng của Mozart, Beethoven, Schubert, các pho tượng và tranh vẽ của
Michel Ange, các giáo đường đồ sộ với các tháp chuông cao vút chỉa thẳng lên trời,
hoặc tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng tụng niệm dưới các mái chùa rêu phong thâm
thấp, ẩn mình trong cảnh thâm u..., đều nói lên một sự tương tác và giao thoa
nào đó giữa hai thứ xúc cảm là tín ngưỡng và nghệ thuật bên trong tâm thức của người
tu hành cũng như người nghệ sĩ. Phải chăng cả hai cùng yêu thương "cái đẹp"
của thế giới và bên trong chính mình? Dầu sao thì sự yêu thương đó cũng chỉ hướng
vào sự "hoàn hảo" trong lãnh vực của xúc cảm nghệ thuật, mang người
nghệ sĩ đến gấn với tín ngưỡng và người tu hành đến gần với nghệ thuật. Bảy nốt
nhạc - Ut, Re, Mi, Fa, Sol, La và Si - là do một linh mục Ki-tô giáo người Ý
thiết lập vào thế kỷ XI để ghi chép cung bậc của các bài thánh ca trong giáo đường,
trước khi được áp dụng vào âm nhạc đại chúng. Tóm lại người tu tập Phật giáo phải
trông thấy khía cạnh tinh tế đó trong cả hai lãnh vực nghệ thuật và tín ngưỡng.
Nghệ thuật chỉ là một phương tiện, không phải là sự giải thoát. Người tu hành
có thể viết thư pháp, làm thơ, vẽ tranh, đàn hát, tụng niệm, tham dự các buổi
trà đạo với các nghi thức cầu kỳ, nhưng phải hiểu rằng sự giải thoát không ở
trong các thứ ấy mà là ở cuối Con Đường.
Sau đây là một vài ghi
chú thứ yếu hơn liên quan đến một vài chi tiết trong bài viết của nhà sư Tinh
Vân. Trước khi nói đến vai trò của âm nhạc Phật giáo trong bối cảnh ngày nay, nhà
sư này cho biết trong cõi Cực Lạc vang lừng tiếng ca, lời tụng, tiếng hót của
chim muông, cùng với muôn ngàn cánh hoa mandarava - hoa vông màu đó rực - rơi
xuống từ không trung, các cành lá bằng vàng và ngọc ngả nghiêng trong gió tạo ra
các âm thanh quyện vào nhau tạo thành những giai điệu tuyệt vời.
Cách mô tả cõi Cực Lạc
trên đây cho thấy nhiều điều "phi lý" nếu không muốn nói là quá
"thật thà" và "ngây thơ". Nếu đã được tiếp dẫn vào cõi Cực
Lạc thì còn cần gì phải lắng nghe những lời tụng niệm nữa, âm nhạc và tiếng hát
nếu chỉ có một thứ thì dù có du dương cách mấy thì cũng sẽ trở nên nhàm chán
vào một lúc nào đó. Hoa vông mandarava nhẹ rơi liên tục thì thật là thơ mộng,
thế nhưng nếu tràn ngập khắp nơi thì lấy ai mà quét dọn, bởi vì mọi người nơi
cõi Cực Lạc đều được hưởng sự sung sướng, không còn phải làm các công việc khổ
nhọc nữa. Cây có toàn bằng vàng và ngọc thì làm thế nào ngã nghiêng trong gió để
làm vang lên những âm thanh huyền diệu. Hơn nữa nếu cành lá và cảnh vật toàn là
châu báu, ngọc ngà thì nào có gì là quý giá nữa đâu? Ngày nào cũng như như ngày
ấy, hoa lá cứ trơ trơ một thứ không một chút đổi thay thì còn gì để mà mê thích.
Trái lại trong thế giới
vô thường, ngắm nhìn một búp hoa sắp nở, một con sâu trên lá hay một cánh hoa
tàn, biết đâu cũng có thể mang lại cho mình một chút rung động và bâng khuâng nào
đó. Thật vậy vô thường cũng có những khía cạnh "hấp dẫn" của nó, chẳng
hạn như gương mặt ngây thơ của một đứa bé, vẻ duyên dáng của một thiếu nữ, đôi
mắt trầm tư của một cụ già, tiếng gọi con ơi ới của một người mẹ, hoặc một câu vọng
cổ hay một khúc tình ca... cũng có thể là những "nét đẹp" trong thế
gian này. Chẳng phải vì thế mà tất cả mọi người đều sợ chết hay sao, dù là mình
theo tôn giáo nào cũng vậy?
Dưới một góc nhìn sâu sắc
hơn thì Cực Lạc hay Thiên Đường cũng chỉ là các "tạo tác tâm thần",
phản ảnh những sự thúc đẩy sâu kín của bản năng mà thôi. Chúng ta tìm đủ mọi
cách để tin rằng Cực Lạc và Thiên Đường là những nơi hạnh phúc nhất, thế nhưng từ
nơi sâu kín của thâm tâm mình thì mình lại cứ muốn được sống lâu hơn trong thế
giới này. Sự nghịch lý đó khiến một mặt thì mình tụng niệm liên tục để củng cố
lòng tin rồi đây mình sẽ được cứu rỗi, một mặt thì lo sợ và hốt hoảng mỗi khi cảm
thấy trong người không được khỏe, cứ sợ lâm bệnh ngặt nghèo thì khốn. Giáo Huấn
của Đức Phật không đặt chúng ta trước một sự nghịch lý nào đại loại như thế, cũng
không nêu lên một sự hứa hẹn hay khuyến dụ nào cả, mà nhất thiết chỉ đưa ra các
phương pháp giúp chúng ta nhận định về bản chất của chính mình và thế giới, hầu
tự tìm ra cho mình một lối thoát.
Ngoài ra trong bài viết
trên đây nhà sư Tinh Vân cũng cho biết là có nhiều loại khí cụ âm nhạc đã được sáng
chế vào thời đại của vua Azoka/A-dục tức là vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch.
Thế nhưng điều đó không có nghĩa là các khí cụ ấy riêng được sử dụng vào việc
thực thi các nghi lễ Phật giáo. Giáo Huấn của Đức Phật dưới hình thức tôn giáo
chỉ xuất hiện nhiều thế kỷ sau thời đại của vua A-dục. Hơn nữa các tôn giáo lớn
và chính yếu nhất suốt trong lịch sử xã hội Ấn là các đạo Vệ-đà và Bà-la-môn
trước khi trở thành Ấn giáo. Trên dòng lịch sử đó Giáo Huấn của Đức Phật từng
trải qua nhiều thời kỳ phát triển cao độ nhưng không thể sánh kịp với các tôn
giáo mang tính cách đại chúng trên đây.
Dưới triều đại của vua
A-dục - khoảng hai thế kỷ sau khi Đức Phật tịch diệt - Giáo Huấn của Đức Phật vẫn còn giữ được một sự
trung thực nào đó. Đại hội kết tập Đạo Pháp lần thứ ba do vị vua này tổ chức không
nhằm mục đích quy định các việc lễ bái, tụng niệm. Trong các bản đúc kết các buổi
hội thảo chỉ thấy nêu lên các vấn đề giáo lý. Âm nhạc và việc tụng niệm chỉ xuất
hiện rất muộn nhiều thế kỷ sau đó như là các phương tiện thiện xảo khi Giáo Huấn
của Đức Phật biến thành một tôn giáo.
Trở lại với thực tế trong
bối cảnh ngày nay thì chúng ta tất sẽ nhận thấy một số chùa chiền thường tổ chức
những bữa cơm từ thiện và các buổi trình diễn âm nhạc - với những bài hát với
nhịp điệu "sôi động" không có gì là Phật giáo lắm - nhằm gây quỹ cho chùa.
Vậy chúng ta nghĩ gì về các sinh hoạt này? Lúc rời bỏ cung điện, thái tử Tất-đạt-đa
đã phải rón rén để khỏi đánh thức các nhạc công và vũ nữ đang nằm ngủ la liệt.
Thế nhưng ngày nay với tinh thần mở rộng của Đại Thừa chúng ta cũng phải và
cũng nên hân hoan đến chùa để cùng với các Phật tử khác nghe hát và vỗ tay, đấy
là cách giúp những người Phật tử đến gần với nhau và cũng là một phương tiện giúp
cho chùa sinh hoạt hầu bảo tồn Đạo Pháp, dù chỉ là dưới các hình thức đại chúng.
Điều quan trọng hơn cả là phía sau các hình thức màu mè đó người tu hành cũng
như kẻ thế tục phải khéo léo giúp nhau cùng tu học hầu bước theo vết chân của Đức
Phật một cách nghiêm túc, đấy mới chính là cách bảo tồn Đạo Pháp lâu dài hơn, bởi
vì các phương tiện dù thiện xảo đến đâu thì sớm muộn cũng sẽ mai một mà thôi.
Bures-Sur
Yvette, 12.09.17
Hoang
Phong chuyển ngữ