Tiếp nhận thơ Thiền Lý-Trần nhìn từ phía nội điển
tiep nhan
Võ
Phước Lộc
Nội
điển, theo truyền thống Văn học Đại thừa, Pāli (Therāvāda) và kể cả văn học Phật
giáo nhìn từ phía thế tục đều có chỗ gặp nhau là: nghĩ cổ (sửa một ít thành phiên bản mới) trong sáng tác;tập chú trong nghiên cứu, chú giải (Tường
giải học); thi cử quy phạm từ chương (Từ chương học); đối với khu vực chịu ảnh
hưởng sâu đậm văn hóa – học thuật Trung Hoa. Với vùng chịu ảnh hưởng văn hóa –
học thuật Ấn Độ cổ thì truyền thống điển phạm văn học gắn với các bản văn gốc
sáng tác bằng ngôn ngữ Sanskrit; truyền thống văn học Phật giáo gắn với bản tụng
thuộc tạng Kinh Therāvāda. Về sau, Luận sư Budhaghosa ghi chép lại bằng ngôn ngữ
Pāli, có sức dung hợp đa dạng về văn hóa ngôn ngữ.
Ở
ta, có hai cách nhìn về nội điển: gốc dân tộc tính được xác lập qua các lời dạy
bảo đạo lý, khuôn mẫu hình tượng, ngôn ý trong các văn bản được xem là khuôn vàng thước ngọc (tính dân tộc phẩm
chất). Và, như Sephen Owen (Hoa Kỳ) khẳng định: Mỗi chỉnh thể(dân tộc, trong thời Tiền Hiện Đại) đều chia sẻ không chỉ một cổ ngữ, mà còn cả
tập hợp các văn bản đến cùng cổ ngữ đó. Những văn bản đó là hiện thân của những
giá trị cần phải thương lượng, dung hòa với truyền thống bản địa [8,33]. Hiện
tượng như ta thấy các sáng tác thơ thiền Lý – Trần đều bằng văn tự Hán – Nôm,
luôn đầy thuật ngữ Phật học phiên âm Hán– Phạn (Thiền-na, Bát-nhã…); hay âm Việt
cổ – Phạn (Bụt).
Như
vậy, vấn đề nội điển gắn bó với tính dân tộc phẩm chất và thuộc tính. Nó được
xét trên hai mặt tương quan nội điển giáo tông (Phật-Thiền) và nền văn học dân
tộc; nghĩa và ý nghĩa giá trị của nội điển và hội điển.
1. Từ nội điển giáo tông đến hội điển
văn chương khu vực
Truyền
thống Phật học, Thiền học hiểu nội điển là những từ ngữ, khái niệm, câu chuyện
điển hình, địa danh chứng tích có trong Tam tạng Phật điển (Kinh, Luận, Luật);
riêng Thiền tông còn có thêm trong Ngữ lục, Công án của các bậcTổ sư, thiền
phái truyền thừa. Việc xác lập nội điển giáo tông (Phật học và Thiền học) dựa
trên hai dấu hiệu hình thức: lời của Tôn giả A-nan
(Ananda) mở đầu các kinh văn: như thị ngã
văn (tôi nghe như vầy), xác tín Tín
thành tựu và Văn thành tựu. Hai
là theo hai bài tụng trong Tính không luận
(Trung quán luận/Mādhyamika)của Bồ-tát
Long Thọ, xiển dương Văn thành tựu ở
chỗhiểu đúng đắn về tính không theo
kinh Phật thuộc Đại thừa Phán giáo.
Bài
tụng mở đầu Tính không luận (Mūlamadhyamakakārikā):
Bất
sinh diệc bất diệt
Con
kính lễ thế tôn
Bất thường diệc bất đoạn Trình
bày phép duyên khởi
Bất nhất diệc bất dị
Diệt
trừ mọi hý luận
Bất lai diệc bất xuất
Xiển
dương trung đạo lý
Năng thuyết thị nhân duyên Không sinh cũng không diệt
Thiện diệt chư hý luận
Không
thường cũng không đoạn
Ngã khế thủ lễ Phật
Không
một cũng không khác
Chư thuyết trung đệ nhất. Không
đến cũng không đi
Bài
tụng Kết thúchồi tranh luận (Vigrahavyāvartanī):
Mọi sự đều thủ thắng
Nơi
đây con đảnh lễ
Cho người nào tính không Đức
Phật, đấng vô song,
Thù thắng nơi người ấy.
Người
dạy thuyết Tính không,
Tất cả không thù thắng Duyên
khởi cùng Trung đạo,
Cho người nào tính không Cả
ba bình đẳng nhau.
Không thắng nơi người ấy.
Tất
cả không ngoài chỗ xác tínlục thành tựu có
từ thời Phật thuyết pháp đến lúc di huấn cho Ananda, theo lời thỉnh cầu của A
Na Luật (Aniruddha). Từ điển Phật học
giải thích hai chữ Như thị chính là
khẳng định Pháp xứng hợp đạo lý (Thắng Man, quyển 1). Đạo lý đó không
ngoài Như như nghĩa và Như như như thuyết. Đại thừa nghĩa chương nói
ấy là khế hợp giữa chính trí và lý thể: Thể của mọi pháp là giống nhau nên gọi
là Như. Đứng về nhất như trung đạo mà nói thì thể có đủ hằng hà sa số Phật pháp
trong Pháp giới, do vậy tùy theo Pháp mà bàn nghĩa của Như, không phải chỉ có một.
Vật này, vật kia đều là Như, nên gọi là Như như. Như là không hư vọng nên trong
kinh gọi là Chân như. Như bao gồm Như
như trí và Như như cảnh vốn không
khác biệt nên gọi là Như như. Còn Như như như thuyết ý nói là không thấy
tướng sinh tử (giải thoát tướng), không thấy tướng Niết-bàn (ly tướng). Thấy
sinh tử, Niết-bàn đều là không (diệt tướng). Theo lý trung đạo chẳng có chẳng không; ba tướng đều bình đẳng
(tr.924 – 925). Nó cũng hoàn toàn khế hợp với ba điểm cốt lõi;xét về nội dung
tư tưởng Phật Thiền, hệ thống kinh điển và ngữ lục luôn xác tín: Chúng sinh là Phật sẽ thành; Các Pháp thế
gian đều là Phật pháp và bởi thế nên tất cả các pháp đều là không. Đó là sự
thấy biết trường nhìn nội kiến; nền tảng
cấp nghĩa và nắm bắt ý nghĩa văn bản của người tiếp nhận văn học Phật Thiền. Nó
cũng giải thích vì sao, ngay đại hội kết tập kinh tạng đầu tiên (khoảng sau 487 tr.TL), Đại Ca Diếp (Māhā Kāsyapa)
tuyên bố để ngỏ cho những luận giải khác biệt; khi Phật học vào Trung Hoa (Thế
kỷ thứ II tr.TL) các dịch giả và luận sư của phong trào Nghĩa học Phật giáo cũng thừa nhận tính hoạt hóa (vận dụng và cắt nghĩa linh hoạt) các thuật ngữ, khái
niệm Phật – Thiền. Nó làm hình thành lớp từ vựng mang sắc thái Phật giáo, rất
phong phú đa dạng; kích thích mạnh mẽ sự phát triển văn học Phật giáo, đặc biệt
là Thiền tông. Có thể nói, sự thống hợp
trường nhìn nội kiến (bên trong việc xác tín giáo điển, truyền giải kinh tạng,
cắt nghĩa thế giới duyên sinh, phương pháp và ấn chứng tu tập) xác lập tính chất
nội điển Phật– Thiền. Và, cũng mở đường
cho việc hình thành hội điển văn chương trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Phật
giáo Ấn Độ và Trung Hoa.
Nghiên
cứu Văn học thế giới, với chủ đề so sánh văn học Đông và Nam Á, các học giả Hoa
Kỳ (Stephen Owen, David Damrosch, Karen Thornber; Viện Haward-Yenching) cũng có
nêu hai luận điểm đáng lưu ý. Thứ nhất: Văn học Tiền Hiện Đại, xét trong mối
quan hệ giữa văn học bản địa và các nền văn học cổ xưa hơn ở Đông và Nam Á, sự
phát triển văn học bị chi phối bởi hai thế lực. Một thế lực là phiên dịch và phóng tác những tác phẩm văn học từ cổ ngữ
sang sinh ngữ bản địa, trong khi thế lực thứ hai là phân biệt một cách triệt để
cái bản địa với cái cổ [8,34].Cả
hai hiện tượng đều xuất hiện trong văn học sử Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến thế
kỷ thứ XIV. Trường hợp bài thơ Nhị bát
giai nhân của Nguyễn Thị Điểm Bích là một ví dụ tiêu biểu. Thứ hai, lịch sử
văn học Tiền Hiện Đại: Nó không phải là lịch
sử các tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ dân tộc, mà là những tác phẩm viết bằng
các cổ ngữ quốc tế– văn ngôn trong
trường hợp của Việt Nam- những bản dịch, những bản cải biên ra tiếng dân tộc và
những nguyên bản bằng tiếng dân tộc [8,30]. Đấy cũng là cội nguồn có ý
nghĩa hội điển. Đa phần sáng tác của các Thiền sư Lý – Trần bằng chữ Hán; Lý
Thường Kiệt, Chu An, Trần Nhân Tông, Huyền Quang cũng thế. Song họ là những
danh nhân văn hóa dân tộc, đại biểu cho tinh thần yêu nước nồng nàn. Nếu chúng
ta xem xét vấn đề như vậy thì bàn chuyện nội điển văn chương dân tộc không có
gì là lấn cấn. Tuy nhiên, như trên đã trình bày, gọi là văn chương Phật giáo
Thiền tông Đại Việt hay một bộ phận cấu thành văn học dân tộc thì mọi luận giải
khoa học về nó, buộc phải dựa vào nền tảng hiểu đúng đắn về tính không. Khước từ
điều đó, trước tiên, Thiền tông không còn là một hệ phái của Phật giáo Đại thừa
và cũng phủ nhận căn cơ khế hợp với cách lý giải của các nhà xác lập lý thuyết
tiếp nhận hiện đại. Cái thế tất định phải có biện giải, mang ý nghĩa phương tiện
là ở chỗ đó. Nói cách khác tính không của vạn hữu là sự tịnh biến của thế giới
hiện tượng. Cái không thể nắm bắt bằng miền
thị kiến (View, Robert H. Shart) mà chỉ có thể lĩnh hội qua miền thấu cảm (Einfuhlung, Sir Herbert
Read). Biểu hiện tính không ở thân tâm người nối kết với tâm bản thể (tính
không của sự sống) là sự ngắt quãng nhịp thở (tuần hoàn động – tĩnh mạch); ở
văn ngôn là sự ngắt nhịp trong lời, khoảng trống giữa các từ trong câu và các
câu; ở thế giới khách thể là các hình thức chuyển động ngó thấy và sự trở lại vắng
lặng sau đó (hiện tượng của nhịp sống thường trực). Những khoảng trống ngắt nhịp,
cách quãng ấy là sự khế hợp giữa luận giải về không tính trong văn khố Phật
giáo, tính không của sự sống và lý giải về hiệu lực hân thưởng văn chương của
lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Có thể hiểu trong từng khoảnh khắc (Sát-na,
Ksana) ấy, con người dừng lại để ngẫm nghĩ (theo duyên khởi từ tính không), để
cấp nghĩa cho ngôn từ, văn bản kí hiệu-hình tượng và văn bản sự sống người. Phạm
Công Thiện khi so sánh triết học (Triết học tỷ giáo) về hiện tượng luận của E.Husserl, làm
cho thế giới có ý nghĩa của S.Kierkegaard và triết học ngôn ngữ của M.Heidegger đã cho đấy là khoảng không con người trở về, để từ đó tiếp tục lập nghĩa trong sự
tập nghĩa uyên nguyên[6,310]. Bởi lẽ thế giới ngàn trùng duyên khởi vận
hành theo hình thức liên tục trở về tính không, để rồi lại theo duyên sinh mà
trình bày hiện hữu; một lộ trình đồng nhất tính với thời – không vô thủy vô
chung; trong thế cô lập với thời gian vật lý của người đo đếm. Gặp gỡ trong
cách kiến giải như vậy, nhìn từ phía trải nghiệm thế gian với sáng tạo thế giới
thi ca; qua công trình Thực tại và ngôn từ:
Một vài phương diện của quá trình sáng tạo, Sitakan Mahapatra (Ấn Độ) nói: Thi
nhân để khởi sự một quá trình sáng tạo là
nắm bắt được thực tại và tìm ra được những cấu trúc thích hợp, ngôn từ và hình ảnh
sẽ là thước đo sự thành công của anh ta như một nhà thơ [7]. Từ đó, tầm nhìn thực tại (Như như thị và Như
như như thuyết) trở thành hai đường song
song (một với bản chất đích thực của thời gian và một trong thời gian vật
lý của con người) đưa đến nhận thức của
thái tử Tất Đạt Đa(Phật Thích Ca). Bởi vì: Công việc sáng tạo không đòi hỏi một sự xáo trộn cảm giác nhưng nó rất
muốn củng cố những quyền lực cổ xưa của ngôn từ đã được viết ra để hủy diệt
cũng như để an ủi [7]. Thật ra, Sitakan Mahapatra tổng kết và khái quát nên
vấn đề từ sự tập nghĩa thi học Ấn Độ
cổ đại; và ông lập nghĩa hội điển mới bằng
cách vận dụng, phát triển thêm bởi triết học ngôn ngữ (phương Tây, TK.XX). Cũng
theo Sitakan, sự sáng tạo thế giới qua ngôn từ, vừa khám phá tinh tế thực tại, vừa tinh giản mối quan hệ phức tạp giữa
bản ngã của thi nhân với bộ ba khách thể, hình tượng và ngôn từ. Cái cách vừa
triển khai vừa tích hợp, trong cảm giác về
sự thống nhất và sự phức tạp tổng hợp, làm cho bản ngã có vị trí trong tìm
khách thể, tạm tách qua một bên ngôn từ và hình tượng; thời gian thực hữu
và thời gian hiện hữu. Nói cách khác là khuếch trương tưởng tượng thông qua
kinh nghiệm cảm xúc, trực giác, hiểu biết; xuyên qua khoảng cách thẩm mỹ; hòa
nhập hoàn toàn vào tính không của sự
sống (ngôn hành sự sống luôn liên diễn, mãi chuyển sinh, liên tục sáng tạo). Sự
liên tục khuếch trương đó làm bùng vỡ thế giới nhận thức duy lý, phá bỏ đường
biên của thế giới ngôn ngữ vốn được xác định
tên gọi theo lịch sử, thời gian, cách dùng… Các yếu tố cũng vốn phụ thuộc
vào điều kiện giao lưu – tiếp biến văn hóa mà trước tiên là sự kiến lập văn hóa trên thực tế như một phần
bản tính sinh học của loài người. Những điều đề cập trên, thi học cổ điển Ấn
bàn rất sâu rộng. Trong khi đó triết học ngôn ngữ danh lý của Lão – Trang lại rất
cô đúc, khó có thể thiết lập tiêu chí nhận diện và so sánh tương quan được.
Như
vậy, có thể nói từ việc xác lập nội điển giáo tông Phật – Thiền, qua phong trào
nghĩa học Phật giáo ở Trung Quốc và các nước Đông – Nam Á mà hình thành hội điển
sáng tác văn chương. Rồi từ đó theo môi trường sinh thái nhân văn của từng đất
nước mà đâm chồi nảy lộc, cái được gọi là nội
điển văn học dân tộc. Văn học Phật giáo Lý – Trần hội đủ điều kiện tập
thành địa vị đó. Bởi lẽ như Ưu Thiên Bùi Kỷ viết: Phàm trong một bài văn mà dùng cả lối ta và lối Tàu thì gọi là Hán- Việt
hợp dụng thể (Quốc văn cụ thể).
Thể hợp dụng này là phong cách ngôn ngữ văn chương Việt Nam Trung đại. Sự lai
ghép Hán – Nôm ấy có ý nghĩa cải biên ra
tiếng dân tộc. Trên bình diện Thiền học và Thi học; từ vô tự thiền đến hữu
tự thiền, từ mỹ học sáng tác sang mỹ học tiếp nhận; có sự gặp gỡ giữa học thuyết Duyên khởi– Tính không và tiếp biến Ngoạn vị thuyếtẤn– Trung cùng lý thuyết tiếp nhận hiện đại.
Từ
thế kỷ X- XIV, văn học Phật giáo Lý – Trần đều được viết bằng chữ Hán và Nôm.
Song, trên thực tế không có văn bản nào là thuần nhất Hán hoặc Nôm. Như trên đã
trình bày, thời Trung đại ở Đông – Nam Á hiện tượng dùng song ngữ là phổ biến;
một như là ngôn ngữ giao lưu khu vực (Hán – Phạn); một còn lại là tiếng dân tộc.
Huống chi thứ chữ Hán mà ông cha ta dùng lúc đó lại là thứ chữ đã được bảo lưu
và Việt hóa ngót 4 – 5 thế kỷ trước, tính từ lúc nhà Đường đem chữ của họ sang
dạy ở Giao Châu. Do vậy, Trần Thái Tông (1218 – 1277) đối đáp (Ngữ lục vấn đáp môn hạ) về nội điển giáo
tông và nội điển văn học dân tộc:
Tăng
vấn:
Cổ
kim không khác lối,
Thông đạt cùng một
đường.
Bệ hạ cho rằng riêng mình Thế
Tôn đắc đạo hay sao?
Vua
đáp:
Mưa
xuân không cao thấp,
Nhành hoa có ngắn dài.
TrongNiêm tụng kệ, Thái Tông giảng rộng ra hội
điển văn chương Phật – Thiền:
Thánh chủ đương thiên cổ hóa phong,
Bản đồ văn phạm tận tương
đồng.
Do khai viễn cận phân
cương lý,
An đắc lâm dân tế thế
công.
Thánh chúa trị vì lo giáo hóa,
Dư đồ, văn phạm đã cùng
chung.
Còn chia cương giới xa gần
khắp,
Cứu thế an dân sao có
công.
Tuy
nhiên, để kiến giải được như vậy, hẳn Thái Tông phải dựa trên các tiêu chí bàn
về ngôn đạo ngữ đoạn trong Tham đồ hiển quyết của Viên Chiếu (999 – 1091,
Lý). Bắt đầu từ mọi người ta gặp đều là Bồ
Đề(Như như nghĩa, Như như như thuyết). Vậy nên theo người khác là hỗn tạp. Tham đồ đưa ra ba luận đề lập thức về lý chẳng khẳng định mà cũng không thể phủ định:
1.
Một câu rõ ràng hơn trăm ức câu (nhất cú liễu nhiên siêu bách ức): Lời của
chân như (thực hữu) là như vậy, như vậy (chân
giá trị của thế giới hiện tượng). Nó giống với quan niệm: Thế giới là cái tương đồng của ngôn ngữ và ngôn ngữ là cái tương đồng của
thế giới[10]. Thế nên thấy biết chứ không nói hết được chân như – ý chỉ (Phật,
Tổ sư, thế giới duyên sinh).
2.
Câu tuyệt diệu (tối diệu chi cú): Ấy là lời thinh lặng muốn nói của vô vàn hiện tượng
chuyển biến, của chính ta hòa cùng nhịp sống thực tại. Bởi lẽ sự dung hợp và kết
nối tầm nhìn thực tại – lịch sử biến lời trở thành sản phẩm của sự chuyển dịch của chúng ta vào thế giới, vào tình huống
giao tiếp và quán sát thực tại. Ấy là sự thống hợp tâm – ngữ – ý là một. Lời
không biểu đạt cái gì cả mà chỉ soi sáng cho ta nắm bắt nhiều ý lắm nghĩa.
3.
Ngôn
đạo ngữ đoạn: Lời giáo thuyết của chư Phật (và cả
chúng ta – Phật sẽ thành) là lời thẳng
đương hành của thế giới duyên sinh. Tự nó có bản ý giáo hóa mọi vật, là bất khả tư nghị giải thoát pháp môn. Vì đạo của Lời là liên tục lập nghĩa từ sự tập
nghĩa uyên nguyên (Phạm Công Thiện).
Trên nên tảng đó Tuệ Trung Thương Sĩ (1230 – 1291)
vốn sành triết lý Lão – Trang, phát triển thêm: Có có, không không, rốt cuộc chung(Vạn sự quy như). Do vậy mà hành giả được quán tưởng mặt trời lên tận Tân La (Tự đề). Đó cũng là chỗ diệu của không có thương lượng về nghĩa, bởi
khó suy lường ấy diệu suy lường (Nan thương lượng để, diệu thương lường; Họa
Huyện Lệnh); phần khác với quan niệm về nghĩa của triết học ngôn ngữ và lý
thuyết tiếp nhận hiện đại. Vấn đề cũng đã cho thấy Thiền học Lý – Trần, không
chỉ bảo đảm hiểu đúng đắn tính không như một căn xứ đồng nhất mà còn chủ ý vận dụng trong hữu tự thiền, để thực chứng pháp không và tuệ giác của nó
(Gen Lamrimpa). Tinh thần đạo học thời Trần dung hợp nhiều tông phái Phật giáo;
Nho – Lão – Trang được Ngữ lục vay mượn để biện giải nhận diện tính không rất lớn.
Ngay trong Thiền tông cũng có vấn đề tranh biện giữa Đốn và Tiệm, Quán và Chỉ…
Tinh thần thời đại như vậy đã dẫn đến hiện tượng mắc kẹt giữa các pháp môn với hai biểu hiện. Một là chấp không, nhận
diện tính không như quan niệm hư vô khôn cùng của Lão – Trang. Hai, dựa vào Bát-nhã tâm kinh (Prajnaparamitahridaya
Sutra) luận giải mọi hiện tượng không có
thể tánh cố hữu (chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh cố hữu), tất không có cái gì là dân tộc tính. Mặt khác, bám chặt
vào thế giới quy ước của ngôn ngữ, không dứt ra khỏi dư ba âm thanh, nhãn tự thần
cú như các học sĩ quy thiền thường bận bịu. Về liên quan dân tộc tính, ta có thể
tham khảo lời thượng tọa Gen Lamrimpa: Dù
cho mọi thứ đều là hư vô thì các tạo tác có liên quan của chúng vẫn hiện hữu (tồn
tại theo phép duyên sinh). Và rằng: Tất cả
hiện tượng của luân hồi và Niết-bàn được bao gồm trong chân lý căn bản (chân
đế) và chân lý theo quy ước (tục đế).
Về phương tiện ngôn ngữ: Ít có sự khác biệt trong việc trình bày thực tại theo
quy ước danh xưng bằng lời, theo khái niệm và trình bày bằng phép duyên sinh với
sự tích lũy kiến thức. Do: Trí pháp thân
phát khởi như là một vị Phật, và bằng phép duyên sinh với sự tích lũy công đức,
sắc thân phát khởi[1]. Tuy nhiên, đưa ra ví dụ loài vật hoang dã có khả
năng định danh các hiện tượng qua ảo ảnh; cũng giống như những đứa trẻ lập ra
các danh xưng mang tính khái niệm; Thượng tọa chỉ ra người ta có thể thiết lập
mọi thứ mà không cần liên tưởng tới các đối tượng bằng định danh. Chính điều
này cho thấy căn bệnh thổi phồng chữ nghĩa kinh điển, quên đi ý nghĩa của ngôn
từ như hành động của chúng ta chuyển dịch vào thế giới, tình huống giao tiếp
khi quán sát thực tại. Điều mà Trần Thái Tông luôn khuyến cáo nhìn lên công án chẳng thiên lệch (Tụng cổ); Tuệ Trung bảo: Học giả phân phân bất nại hà (Thị học). Do vậy Trần Nhân Tông (1258 –
1308) phải bác bỏ căn bệnh thời đại bằng luận đề Hữu cú vô cú:
Là thế là thế
Câu hữu câu vô = chẳng vô chẳng hữu = tác động lại
qua Þ
Tám
chữ mở ra
Rõ
là Phật hoàng mở lối khế cơ:
BÁT TỰ Þ Như thị như thị + như như nghĩa + như như như thuyết = NHẤT NHƯ (vạn sự quy
như)
Kệ hữu cú vô cúdùng nhiều hình ảnh, biểu tượng rất năng động tạo nên cảm
giác hỗn độn nhằm loại bỏ mọi ảo ảnh cho đến khi hành giả trở lại nắm bắt thực
tại bằng trực quan nguyên sơ của các biểu tượng, thẳng vào lời đương hành của
thế giới duyên sinh. Nghĩa là hành giả đã hòa vào tâm hồn của thế giới hiện tượng;
cái vốn bị ngôn từ cướp đi khi hệ thống đó kịp trưởng thành. Cống hiến xuất sắc
của Thiền học Yên Tử và Trần Nhân Tông là ở chỗ đó. Nếu như hình ảnh Nhạn quá trường không của Thiên Y Nghĩa
Hoài (989-1060) là phiên bản chuyện Minh kính
đài của Huệ Năng và Thần Tú thì lối thông diễn của Nhân Tông đã đi xa hơn,
trong kết nối tầm nhìn thực tại – lịch sử, để thiết lập cái tương đồng giữa
ngôn ngữ và thế giới, ngang qua tính không. Thêm một cơ sở để chúng ta hiểu rõ
hơn ý nghĩa giá trị của vấn đề nội điển giáo tông và hội điển văn chương. Câu
thơ: Trăm tiếng đàn ca: chim sánh giọng/
Nghìn hàng tôi tớ: quất nhô đầu (Trần
Thánh Tông, Hạnh Thiên Trường Hành
Cung) không đơn thuần tập nghĩa chuyện Lý Hành ở sách Tương Dương ký mà nó lập nghĩa mới thuộc Trăng vô sự chiếu người vô sự. Vậy nên: Kim niên du thắng tích niên du. Văn khố Phật giáo có nhiều điển xác
tín vấn đề ngôn đạo ngữ đoạn; hữu cú vô
cú. Song nối kết nghĩa của nó với tầm nhìn thực tại – lịch sử là chuyện ý
nghĩa từ điều kiện thông diễn, công phu hành trì. Kiến giải như Trần Nhân Tông
là điều cực khó. Việc ngài thành Phật, không chỉ riêng do dân ta sùng Phật mà
tôn Phật dân tộc. Đời hành động của người đã nói cho dân tộc ta, nhận ra người
là hiện thân của một vị Phật có ý nghĩa lịch sử bồi đắp.
Như vậy, lý giải
vấn đề nội điển Phật – Thiền, hội điển văn chương, nội điển văn học dân tộc
không chỉ có việc tập chú ngôn từ, minh định nguồn gốc văn bản mà còn ở khía cạnh
thông diễn và Tường giải học
(Hermeneutics). Có nhiều chứng minh qua việc lặp lại ngôn từ và cách diễn đạt ở
các thời đại văn học sau đó, cơ sở khái quát nên các hình thức truyền dẫn nội
điển.
2. Ba hình thức
truyền dẫn thơ thiền Lý – Trần như nội điển văn học dân tộc
Sáng tác và tiếp nhận văn chương Phật-Thiền,
truyền dẫn nội điển nhằm mục tiêu tập nghĩa và lập nghĩa. Khảo sát Văn học Việt
Nam (TK.X – TK.XVIII) thấy có ba hình thức khá phổ biến: trò chơi giả hợp ngôn từ – hình ảnh,chịu ảnh hưởng khá sâu đậm văn
học Phật giáo Thiền tông và thi học cổ điển Ấn; tập cổ và nghĩ cổ lại chịu
sự quy định của truyền thống quy phạm khoa cử, gốc từ Nho học lan sang Phật học
Trung Hoa. Nhìn vấn đề trên phương diện này, Thích Phước Đạt đã xác định 3
nguyên tắc: ngôn từ là hiện tượng giả hợp và được trình bày trong kinh điển bằng
cách không thoát ly tính chất thiền định [8,246];
cùng quán sát hiện hữu đồng như thị như
thị (ta đang như hiện hữu đang là, như
lý tác ý); huân tập con đườngtư duy
theo phương tiện trình bày của Chân đế (văn-tư-tu).
Cũng cần phải thừa nhận rằng: chúng ta nhấn mạnh bất kỳ cực nào, trong bộ ba
bình đẳng giá trị Tính không-Duyên khởi-Trung
đạo đều có nguy cơ xa rời nguyên lý chẳng
khẳng định mà cũng không thể phủ định. Kể cả việc ta đặc biệt nhấn mạnh bất lập văn tự, xả bỏ trần ai cấu nhiễm,
phân biệt chính tư duy và giả hợp. Bởi vì, chấp chỉ có pháp hiện hữu còn xa
hơn chấp không. Nếu vậy, Phật chẳng tốn công lập bày phương tiện giảng giải về
bình đẳng ba tướng.
Đầu thế kỷ XX,
giới học thuật chịu ảnh hưởng khá sâu đậm Thiền
luận của Daisetz T.Suzuki, vốn trình bày vấn đề soi chiếu từ phía phương tiện
diễn đạt của Chân đế (phép duyên sinh với sự tích hợp trí huệ). Trong khi đó,
văn khố Phật giáo đã cho thấy Phật chỉ ra dạng
tồn tại hiện thực của Trung đạo (khả tính của Chân đế) như là tính không của sự sống.Chính triết học ngôn
ngữ đã góp phần kiến giải khoa học cho vấn đề đã nêu, có tính phổ quát. Chừng
nào sắc thân người còn theo phép duyên sinh mà trình bày mình trong thế giới hiện
tượng, thì chính chúng ta không thể loại trừ dứt khoát phương tiện ngôn ngữ; cùng
hình thức tư duy thông qua trung gian ký hiệu ngôn từ và hình tượng. Lời giảng
của chư Phật và chư Tổ đều nói rõ hoát
nhiên đại ngộ là quả của quá trình tích hợp tuệ giác như chân lý tính không của đời sống (bao hàm Chân đế và Tục
đế). Bằng cách đó, đưa chúng ta vượt qua
giới hạn giác ngộ y lời Phật dạy cho chúng sinh,theo giáo pháp của người. Do
vậy, kiểu tư duy trực giác không phải là cái gì kỳ bí; tạo nghĩa và cấp nghĩa
cho thơ thiền có diệu ngộ nhưng chẳng
phải bí hiểm. Trực giác có được cũng do quá trình rèn luyện thân tâm trong sạch
(trừng tâm) và phóng chiếu sự sáng
trong đó hợp cùng nhịp sống sáng lành của thực tại. Nửa sau thế kỷ XX, Kenneth
Kraft cùng các cộng sự, chủ biên công trình Thiền
dưới cái nhìn của thiền giả thời nay, đã chú trọng hơn mặt trình bày thực tại,
theo quy ước danh xưng bằng lời và khái niệm (hữu tự thiền, trình bày theo Tục
đế). Cùng cái nhìn như vậy, Ibuki Atsushi (Y Xuy Đôn, 2001) viết Lịch sử Thiền học,khẳng định hai đặc điểm:
thể hiện tính tùy duyên bất biến của Phật
giáo, theo đà chuyển biến của xã hội, thiền cũng mang sắc thái độc đáo của mỗi
quốc độ; với tính năng động, nó giao lưu tích cực với xã hội, các ngành khoa học
hiện đại; vượt qua khuôn khổ của giáo đoàn [4,8]. Soi chiếu với quan niệm
hiện đại như vậy, chúng ta rõ hơn cống hiến của Thiền học Lý-Trần, có mặt đi
trước thời đại. Trả lời rốt ráo câu hỏi vì sao Trần Nhân Tông và phái Yên Tử đã
giải quyết toàn triệt vấn đề hữu cú vô cú;
song vẫn giữ thái độ không lấy gì quan trọng lắm. Trong khi đó, Thiền học
Trung Hoa không ngớt nêu công án, biện giải; mãi đến thời Minh mới thừa nhận ít
có ý nghĩa. Nguyên do là về cơ bản, kiến giải hữu tự thiền của Thiền học Lý- Trần,
gần với nền tảng thi học Ấn cổ điển; vốn có thế mạnh bàn về trò chơi ngôn từ
trong tu sức âm thanh và tạo nghĩa; cho
đó là con đường đi đến sự an lạc tuyệt đối. Ít nhiều nó được quy định bởi
thứ ngôn ngữ-văn tự biểu âm, khác với văn tự biểu hình, biểu ý của Trung Hoa.
Và, ngay ở góc độ này, tham chiếu với học thuyết Tính không, xét cho cùng, hình
thức tập chú và nghĩ cổ cũng là dạng trò chơi ngôn từ. Tuy nhiên, trong bối cảnh
quên mất văn tự dân tộc trước đó, thời Lý-Trần các thiền sư truyền giảng đạo bằng
tiếng Việt Nôm Na, gốc văn tự biểu âm; song khi làm thơ Thiền, viết Ngữ lục,
chú giải kinh tạng lại bằng chữ Hán-Nôm vốn gần với văn tự biểu hình- ý, đã gặp
không ít khó khăn trong nhận diện tính
không của sự sống (chỉ ra trạng thái tâm giác ngộ). Do đó, cô đúc lại hình
thức trò chơi ngôn từ và hình ảnh là nhu cầu cấp thiết, để giải đáp vấn đề làm
thế nào mọi người nắm bắt một đối tượng như nó là không thực hiện hữu (miền thấu cảm), vượt lên trên (thực chứng) ba quá trình phổ biến của tâm thức: thờ
ơ, chủ động hiểu sai và một ít hoài nghi.
Thời Lý, Đáp Thái Tông hỏi về tâm nguyện, Huệ Sinh xem sự khế cơ và khế hợp
giữa âm thanh-hình ảnh thuyền vượt sóng bể như câu tuyệt diệulàm phát sinh trí tuệ thông suốt:
Tịch
tịch Lăng Già nguyệt,
Tịch tịch trăng Lăng
Già,
Không
không độ hải chu.
Thấp thoáng thuyền ngoài xa.
Tri
không, không giác hữu,
Biết không, không thành có,
Tam
muội nhậm thông chu.
Tam muội thông suốt ra.
Có thể biểu diễn cú pháp ấy qua mặt
cắt thời-không hiện hữu và thực hữu (thiết lập cái nhìn nắm bắt đối tượng như
nó không thực hiện hữu):
Lớp sóng biển
Từ cách thông diễn này, về sau Trần
Thánh Tông khuếch đại thành lưỡng cú đối lập, tạo nên phức hợp âm thanh, hình ảnh
để dắt chúng ta nắm bắt nhịp sống rộn ràng, an lạc của cảnh Hành cung Thiên Trường. Theo dấu vua
cha, Trần Nhân Tông trong bài Đại Lãm Thần
Quang tự khái quát mở rộng, vận dụng lý thuyết nghệ thuật Viên lâm, minh giải
cái nhìn thiền cảnh: một giọt nước như cả
đại dương và ngược lại.
Thập
nhị lâu đài khai họa trục,
Tam
thiên thế giới nhập thi mâu.
Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ,
Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ.
Ở Trung Quốc, thời Minh (1368-
1644) lý luận nghệ thuật Viên lâm hoàn thiện, Điền Nhữ Thành sáng tác Tây Hồ du lãm chí tả cảnh tựa như hai
câu trên của Nhân Tông:
Nhất
sắc lâu đài tam thập lý,
Bất
tri hà xứ mịch Cô Sơn.
Lâu đài một dãy ba mươi dặm,
Mịt mờ đâu thấy núi Cô Sơn.
Có cơ sở để chúng ta cho rằng, về
sau Phạm Nhân Khanh tổng kết Viên lâm thiền của phái Yên Tử, trên nền tảng quan
hệ giữa nghệ thuật vườn cảnh, trà đạo và thi ca; thống nhất tương hợp ba yếu tố
thiền sinh học, thiền tôn giáo và thiền học
nghệ thuật. Thơ Nhạn tự của họ Phạm
vận dụng nhuần nhuyễn quan niệm hữu cú vô
cú, phát triển tứ thơ Nhạn quá trường
không, quy vào ý nghĩa thể nhập ngôn
hành sự sống. Tự nhiên và toàn bộ thế giới hiện tượng là văn bản không lời (vô tự thiên thư). Ở đó, trăm tiếng chim hót,
mỗi hàng quất, đàn nhạn bay thẳng đều là đơn vị cú pháp, để chúng ta đọc văn bản
tự nhiên một cách trực cảm. Nắm bắt biểu hiện của tính không như sự tịnh biến của
vạn hữu. Chính điều này minh định cơ sở tương hợp mà cũng chỉ rõ khía cạnh khác
biệt giữa ba cách chiếm lĩnh tâm hồn tự
nhiên: tự nhiên thiên thành (Nho), tự nhiên như nhiên (Lão-Trang) và tự nhiên như thị (Phật-Thiền).
Thế kỷ XIV trở đi, thơ các học sĩ
quy thiền, đậm vị thiền trong Nho. Họ phát triển cách trình bày như trên khá
nhiều. Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) nới rộng tứ thơ, kế thừa cách trình bày của
Trần Nhân Tông (Đại Lãm Thần Quang tự)
trong thơ Chùa Long Động núi Yên Tử. Nguyễn
Trãi (1380-1442): qua các bài thơ Trận nhạn,
Trận bướm, Mạn thuật 3, Ngôn chí 18, Làm trong thuyền hộ giá tiết thượng nguyên
cũng như vậy.
Hình thức tập chú (chú giải) là
hình thức phổ biến trong văn học Việt Nam Trung đại. Nhà Nho Việt Nam đa số về
hưu ở ẩn, dạy học đều có thiên hướng quy Phật Thiền. Sáng tác thơ của họ dẫn
nhiều từ ngữ Phật học, Thiền học; phần nhiều là từ ngữ trong các kinh Bát-nhã, Kim cương, Pháp hoa, Lăng nghiêm…Đối
với người tiếp nhận, để hiểu rõ ý thơ phải tra cứu chú giải như là cách tập
nghĩa. Nghiên cứu thơ Thiền Lý- Trần, Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Công Lý, Lê Thị
Thanh Tâm đều có thống kê để minh chứng. Đặc biệt là Hiểu Đông trong công trình
Điển cố Phật giáo trong một số tác phẩm
Văn học Thiền tông đời Trần; Thích Phước Đạt trong Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm đã thống kê,
trích lược nội dung phân loại hình thức, cách dùng điển cố rất công phu.Ngày
nay, các nhà nghiên cứu còn vận dụng thành tựu của ngành Ngôn ngữ học khối liệu (Corpus Linguistics) để đánh giá mức độ sáng
tạo của các tác gia khi sử dụng nội điển; so sánh tỉ lệ ngôn từ lặp lại của các
phiên bản và bản gốc để phân biệt tập cổ
và nghĩ cổ.
Trong văn học Phật giáo Lý- Trần,
hình thức nghĩ cổ như trường hợp bài Nhị
bát giai nhân của Nguyễn Thị Điểm Bích không phải là trường hợp cá biệt. Gần
đây, các nhà nghiên cứu còn thấy các trường hợp: thơ Không Lộ là bản sao của
Hàn Ốc, thơ Pháp Thuận tựa như một mô phỏng của Lạc Tân Vương. Về vấn đề văn bản,
sau công bố phát hiện của nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát (Tạp chí Văn học 1/1984)
đã có nhiều báo cáo khoa học để tâm khảo dị, đối chiếu văn bản như Viên Như,
Đoàn Lê Giang; phẩm bình nhìn từ phía tiếp nhận (Nguyễn Công Lý); lý giải và
đánh giá vấn đề từ phía Tường giải học (Nguyễn Hữu Sơn) [5]. Những nỗ lực này
đã cung cấp cho chúng ta, cách tiếp cận và nhận diện rõ hơn hình thức nghĩ cổ,
trong truyền dẫn nội điển văn học Phật- Thiền, cụ thể là thơ thiền Lý-Trần; gắn
với đặc điểm sáng tác và tiếp nhận văn học Tiền Hiện Đại. Theo thiển ý, ý nghĩa
nội điển của bài thơ được minh định bởi hai lẽ: không phải bất kỳ một hiện tượng
thế tục nào, có liên hệ với chư Tổ, đều được ghi lại trong Ngữ lục, Truyền
Đăng, Thực lục. Thơ của Điểm Bích cho thấy người đề thơ am hiểu sâu rộng văn
chương, thiền sử, hình thức công án. Ở đây, chúng ta cần lưu ý đến trường hợp
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết Giải trào; đặc
biệt là ý kiến của Ngô Thì Sĩ (1726- 1780): Cái
khí tượng núi rừng, mây sáng đã thể hiện ra lời thơ, con người thanh đạm, giản
dị cũng có thể hình dung mà thấy được, đâu có chuyện thêu dệt không căn cứ như
sự ngoa truyền của người đời (bài
Hành giải, dẫn theo Thích Phước Đạt, tr.89). Ngẫm nghĩ Ngô Thì Sĩ cố gắng
nhìn khách quan, từ hai phía: Huyền Quang (1254-1334) và Điểm Bích. Ngoài ra,
Truyền Đăng Trung Hoa còn ghi lại Thiền phái Pháp Diễn (1024-1104) lấy đề tàiThiếu diễm thi làm công án truyền pháp
gia phong; cũng giống như phái Lâm Tế lấy sở trường hét và đánh gậy vậy.
Bài thơ của Điểm Bích gần như xác
lập lại toàn bộ bài thơ Xuân nữ oán của
Chu Giáng,Ảo Đường Trung Nhân (Bắc Tống) sửa một ít. Song, từ ngữ, ngôn ý viện
dẫn nhiều điển tích, công án Thiền gia. Vì vậy, bài thơ vừa là nghĩ cổvừa hàm chứa tập cổ.
Khi sưu tập, bình chú thơ Thiền
Lý-Trần, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Ngô Thì Nhậm đều thừa nhận thơ thời kỳ này
trong sáng, có khí cốt không thua thơ Đường-Tống; xứng đáng địa vị mở đầu văn học
viết nước ta. Điều đó khẳng định thơ thiền Lý-Trần có tính chất nội điển văn học
dân tộc. Nho học thời Lý và nửa đầu thời Trần, có gốc từ trường học nhà chùa,
nhà Nho Việt Nam có truyền thống quy Phật-Thiền khi về già cũng bởi lẽ đó. Đáng
tiếc là trước nay, chú giải thơ ca Việt Nam Trung đại, chúng ta thường dẫn xuất
nguồn từ thư tịch cổ Trung Hoa và kinh tạng, chưa chú ý nguồn nội điển dân tộc, tinh túy mà cha ông ta
dày công tu chính và rèn luyện. Cũng có thể do nguồn tư liệu còn lại quá ít.
Tuy nhiên, tồn tại được qua hàng nghìn năm, những sáng tác đó đã chịu thử thách
và sàng lọc của người đọc hết sức khắc nghiệt. Điều đáng quý là bộ phận sáng
tác văn chương Phật-Thiền Lý- Trần đã cùng chung số phận lịch sử của dân tộc mà
thêm giá trị nhân văn phổ quát.
Mỹ
Tho, 18.4.2017
Tài liệu tham
khảo
1. B.Alan
Wallace chủ biên (2006), Tìm về thực tại,
Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội.
2. Giáo
hội Phật giáo Việt Nam- Phân Viện nghiên cứu Phật học (2004), Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
3. Hiểu
Đông (2009), Điển cố Phật giáo trong một
số tác phẩm Văn học Thiền tông đời Trần, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội.
4. Ibuki
Atsushi (2007), Lịch sử Thiền học, Nxb.
Phương Đông, Tp. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn
Công Lý- Đoàn Lê Giang (2016), Văn học Phật giáo Việt Nam: thành tựu và định hướng
nghiên cứu mới, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Phạm
Công Thiện (1970), Ý thức bùng vỡ, Nxb.
Đồng Nai- Phạm Hoàng, Sài Gòn.
7. Sitakan
Mahapatra, Thực tại và ngôn từ: Một vài
phương diện của quá trình sáng tạo, Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, số 1/2005
(6.1.2005).
8. Stephen
Owen, David Damrosch, Karen Thornber (2016), Lý thuyết và ứng dụng lý thuyết trong nghiên cứu văn học, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
9. Thích
Phước Đạt (2013), Giá trị văn học trong
tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
10. Trương
Đăng Dung (2013), Tác phẩm văn học nhìn từ
lý thuyết tiếp nhận, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.