Hữu hà sai biệt
huu ha
Tản văn
Chúng
ta chắc hẳn không ai là không từng đôi lần trong đời, khi ngồi trong một bàn tiệc
hay một cuộc họp mặt, bị “tra tấn” bởi những
người luôncố
tìm mọi cách để phô trương Cái Tôi của họ, trước mắt bàn dân thiên hạ, màkhông
cần biết “món hàng”được show offđó gây
phiền toái ra sao cho mọi người.Thiên tài Pascal từng nói “Cái Tôi thật đáng ghét” (le moi est haïssable). Còn Phật giáo thì
xem ngã mạn là một trong những chướng
ngại trên con đường tu tập.
Ngẫm
ra trong đời chỉ có hai loại Cái Tôi thích phô trương. Loại thứ nhất, tôi tạm gọi
là Cái Tôi vật chất, loại thứ haitạm gọi
là Cái Tôitinh thần.
Về Cái Tôi vật chất, ta dễ nhận ra. Phô
phang nhà cửa, sản nghiệp, địa vị, mối quan hệ xã hội v.v... để khẳng định cái
sự hơn người. Quen thân anh X., chơi với chị Y., đại khái toàn là những nhân vật
tầm cỡ, có tên tuổi ngoài xã hộiđể cố nâng mình lên ngang tầm với họ (?). Giống
như anh chàng nghèo kiết khi ngồinhậu với một tay tỷ phú lại có cảm giác mình
cũng thuộc loại... đại gia!“Có biết
tôi làai không?”, câu nói này ta vẫn thườnghay nghe trong đời sống. Với những
người sâu sắc thì đây là dấu hiệu của người mắc bệnh tâm thần,nhưng nó lại là
thẻ căn cước để những “ngườitâm thần”kia
khẳng định mình, và là tấm giấy thông hành để họ đi qua nhiều ngóc ngách củacuộc
sống.
Về Cái Tôitinh thầnthì thích chứng tỏ mình
thông minh, hiểu biết hơn người, tài năng xuất chúng, v.v... Nhưng có lẽ không đâu
ta lại dễ nhận ra Cái Tôi tinh thần
đó cho bằng trong lĩnh vực văn học. Dường như văn chương luôn có một ma lực hấp
dẫn lạ lùng đối với những người muốn tìm đến để khẳng định mình. Một người khi có một bài thơ hay bài
viết đăng báo, nhất là khi có một tác phẩm nào đó ra đời, liền cảm thấy “giá trị”mình đột nhiên tăng lên cao
vút, đứng cao hơn “cõi nhân
quần” phàm
tục, vì mình là quelqu'un, là someonegì đó ghê gớm lắm!
Ngoại
trừ những tác phẩm được viết bằng huyết lệ để gởi tấc lòng vào thiên cổ, văn
chương vốn là thứ dễ gây “hoang tưởng thiên tài” nhất cho người viết lách, ở
chỗ rất đỗi tế vi.Chỉ những người đủ thông tuệ và tâm lực, như Bùi Giáng,mới có
thể xem văn chương chữ nghĩa là một cuộc chơi, như mọi cuộc chơi khác trong cõiTa-bà.
Tôi
có người bạn, nay đã mất,là tay câu cá lóc loại thượng thừa. Tôikhông bao giờ
câu cá, và dù biết anh ta đang phạm tội sát sanh, nhưng mỗi lần nhìn anh ta đứng
im như pho tượng giữa trưa nắng hè, dầm chân nơi bàu nướcđể câu cá, hoàn toàn
chútâm vào chiếc cần câu mà không quan tâm gì đến ngoại cảnh, tôi thường liên tưởng
đến hình ảnh một nhà sư nhập định hay một người đang đắm mình hoàn toàn vào thế
giới văn chương.Tôi thấy“cảnh giới”của anh bạn
tôi khi câu cá có khácgì“cảnh giới”khi chúng
ta viết sách, hay hành giả tọa thiền?Khi anh ta tập trung toàn bộ tư tưởng vào
việc câu cá thì có khác gì nhà vănhoàn toàn tập trung vào ngòi bút? Khi anh ta
− bằng tất cả sự kiên nhẫn và điêu luyện trong tay nghề, một điều mà không phải
ai cũng có được − câu được con cá mà anh ta theo dõi hàng tuần, có khi hàng
tháng, thử hỏi niềm vui đó đối với anh ta có khác gì của một nghiên cứu kiên
trì với ý tưởng để hoàn thành tác phẩm? Khi anh ta mời bạn bè về cùng nhậu lai
rai “tác phẩm” của mình,dù có hơi ác
một chút, nhưng mọi người ai nấy cũng đều hân hoanđánhchén, hát ca, thử hỏiniềm
vui của họ khi ấy có khác gì với người viết sáchkhi ký sách tặng bạn bè? Tôi
luôn có cảm tưởng kỳ quặc là nếu ta cứ chorằng người cầm bút phải“cao siêu”hơn anh bạn câu cá kia thì
điều đó quả thật buồn cười.Chúng ta viết sách vì không thể không viết, anh bạn
tôi câu cá vì không thể không câu. Có gì khác nhau đâu?
Nếu
cảm nhận được điều đó, và hiểu được điều đó, ta sẽ thấy chuyện tự mãn về
những đứa con tinh thần chỉ là một loại selfieđáng
thương mà thôi. Ta mê muội đến mức khôi hài vì tự biến tác phẩm mình thành một
chiếc kính lúp để khi soi vào, bỗng thấy ta sao mà vĩ đại!
Khi
Huệ Năng còn là một anh chàng bán củi nhà quê đến cầu đạo với Tổ Hoằng Nhẫn. Tổ
hỏi một người nhà quê sao có thể tu hành thành Phật được, Huệ Năng đáp:
−Người
tuy có Nam Bắc, Phật tính vốn không Nam Bắc. Tuy thân nhà quê này cùng Hòa thượng
không giống nhau, nhưng Phật tính có gì sai khác? (Nhân tuy hữu Nam Bắc, Phật tính bản vô Nam Bắc. Liệp liêu thân dữ Hòathượng
bất đồng, Phật tính hữu hà saibiệt.)
Hữu hà sai biệt? Đó là bốn chữ gây ấn tượng
nhất cho tôi khi đọc Pháp bảo đàn kinh.
Tôi muốn bắt chước câu kinh đó để nói vui theo: “Điếu ngư dữ trứ tác bất đồng, lạcthú hữu hà sai biệt?”. Câu cá và
viết sách không
giống nhau, anh bạn câu củatôi có thể là còn nặng nghiệp, nhưng niềm vui của
anh ta so với những người viết sách nào có gì sai khác? Đều làmột cuộc chơi,
trong mọi cuộc chơi.
Con
người ham nổi tiếng, muốn được nhiều người nhắc đến, từ trong vô thức là sự săn
tìm cảm thức bình yên về sự tồn tại của bản thân mình. Con người vốn chẳng là
cái gì cả − đó là một chân lý trần trụi và quá thực, nhưng mọi người cố tìm đủ
cách để lẫn tránh. Con người luôn muốnlẫn tránh cái trống rỗng hư vô vì sợ phải
đối diện với sự thựctrần trụi đó, sợ phải nhận ra sự đớn hèn, nhỏ nhoi, vô
nghĩa của chính mình. Càng ham muốn nổi tiếng là càng cảm nhận được sự đớn hèn
của mình một cách vô thức, nên phải tìm cách khỏa lấp.
Một người vĩ đạiđứng ngạo nghễ ở đỉnh núi cao vót
và một người tầm thường đứng ở chỗ thấp nhất nơi thung lũng, cả hai đều có một
điểm chung: đó là khi nhìn nhau thì người này thấy người kia đều nhỏ bé như
nhau.Triết gia trứ danh Heidegger dĩ nhiên không hề biết đến một bà bán xôi
trên đường phố Sài Gòn, bà ta đương nhiên cũng không bao giờ biết đến trên đời
có một ông gọi là Heidegger, như vậy cả hai cũng đều vô danh như nhau. Khi hiểu
được vậy thì lấy đâura “sở trụ” cho
Cái Tôi?
Xem
mình là cái rốn của vũ trụ, đó là thường tình của con người,“ngộ” rarằng mình gần như là con số không, đó là văn hóa. Và
để “ngộ” ra điều đó, với tôi, không có gì bằng đọc kinh điển Phật
giáo, vì đó là cơ duyên để ta tập nhìn
vào đại dương trí tuệ mà biết mình là ai giữa cái đại dương diệu vợi mênh mông
giống như vườn thơ của Hàn Mặc Tử đó: “Càng đi xa là
càng ớn lạnh”!
Huỳnh Ngọc Chiến