Có những sự tái sinh…
co
Chân Hiền Tâm
Nói đến tái sinh, thường chúng
ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái
sinh lại dưới các hình thức Trời, Người, Atula hay Súc sinh và Ngạ
qủy. Một sự tái sinh mà trong đó, thân xác cũ mất đi, thân xác mới
xuất hiện, còn phần tâm thức thì vẫn còn đó, chỉ là chuyển giao từ
niệm này sang niệm khác một cách liên tục như chính sự nối tiếp
không dừng của cái gọi là Phần đoạn sinh tử của chúng sinh.
Ở đây không nói đến loại tái
sinh đó; chỉ nói đến loại tái sinh mà thân xác con người vẫn còn đó,
nhưng phần tâm thức thì đã chuyển giao, mà bước ngoặc quan trọng nhất
trong sự chuyển giao này là “chết”, nhà thiền gọi là “Tuyệt hậu tái
tô”. Một sự tái sinh mới xuất hiện trong đời sống con người mà thân
xác thì vẫn chưa chết. Một sự thay đổi âm thầm trong một thân xác
chưa thay đổi, dưới sự kiểm soát của “một cái’ không thay đổi, như kinh
Lăng nghiêm nói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ
là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách... Lắng lặng, gọi
là hư không. Diêu động, gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi
là trần”.
Thiền sư Bạch Ẩn, ngày còn
nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần theo mẹ đi nghe một cao tăng thuộc phái
Nhật Liên giảng về tám tầng địa ngục, ông đã run rẩy trong cơn kinh
hoảng. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, ông vẫn không hết sợ hãi khi
nghĩ đến việc mình phải vào địa ngục.
Lần khác, khi vào phòng tắm,
nhìn thấy nước được đun dưới lửa cháy bùng, ông hoảng hốt hét lớn. Nghĩ
đến việc mình phải vào hỏa ngục, ông cầu mẹ cách giải quyết.
Ông được mẹ dạy phải thờ
phụng vị thần của đền Katino.
Ông đã thực hành việc này rất
nghiêm túc.
Hằng ngày, vào khoảng 2 giờ
sáng, ông đến phòng thờ thần Tenjin, niệm danh hiệu ngài liên tục và
cầu xin thoát khỏi địa ngục. Ngay đêm đầu tiên ông đã thuộc lòng cuốn
kinh Tenjin. Nhưng do một việc nhỏ xảy ra cho bản thân, ông nhận ra
“Chuyện nhỏ như vậy Tenjin còn chẳng thể che dấu cho ta, làm thế nào
có thể trông cậy ngài giúp ta thoát lửa địa ngục?”. Nghĩ rồi, ông
từ bỏ Tenjin.
Khi nghe “Không có vị thánh nào
của đạo Phật hay Thần đạo có thể sánh kịp với năng lực vô biên của
Quán Thế Âm” ông bắt
đầu nương tựa vào Quán Thế Âm và tụng kinh Phổ môn. Chỉ vài ngày sau ông đã thuộc hết phẩm Phổ môn. Ý
tưởng xuất gia bắt đầu nhen nhúm khi chứng kiến cảnh Nissin chịu đựng
khổ hình một cách an nhiên.
“Cái mũ sắt của Nissin Shunin”
là một vở kịch nói về tác dụng của việc trì kinh Pháp hoa. Vở kịch ấy diễn tả lại
cảnh lãnh chúa Tokimun hỏi một vị Tăng phái Nhật Liên rằng: “Một
người đang thọ trì kinh Pháp hoa
có cảm thấy cái nóng của lửa cháy không?”. Nissin đáp: “Nếu hành
trì đúng, người ta có thể vào trong lửa cháy mà không tổn hại, có
thể vào trong nước mà không chết chìm”. Nghe vậy, lãnh chúa cho đốt
một lưỡi cày, xiết chặt vào người Nissin. Trên đầu, ông cho Nissin đội
một chảo gang nóng đỏ. Nissin vẫn mĩm cười tự tại. Khán giả rúng
động và đều nhất loạt hô to danh hiệu “Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh,
Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh…” khi vở kịch chấm dứt.
Do ý tưởng sẽ xuất gia, ông để
hết thời gian cho việc học kinh Phật, đọc thơ kệ thiền v.v… Tâm thức
sợ hãi địa ngục biến mất, nhường chỗ cho những ngày tháng miệt mài
với công phu và kinh luận. Ông xuất gia khi được 14 tuổi.
Không ít người đã có những sự
tái sinh tương tợ. “Đang trầm luân trong bế tắc đau khổ, bỗng nhận
được pháp, thấy cuộc đời bừng lên trong hy vọng và thấy mình như
được sinh ra một lần nữa”. Nhiều người đã có những cuộc tái sinh như
vậy. Nó được coi là một bước ngoặc trong đời sống một con người.
Có những người mà tâm thức
tái sinh ở thể dạng nhẹ. Một sự tái sinh mà trong đó, tâm thức
chuyển biến từ một cuộc sống không ý thức thiện ác sang có ý thức
thiện ác. Một người bỏ công việc sát sinh và chuyển sang một nghề
lương thiện. Hỏi vì sao? Họ nói không muốn phạm tội. Họ muốn có một
đời sống thanh thản. Họ tin vào nhân quả và thay đổi cuộc sống của
họ theo những gì mà họ nghĩ. Đương nhiên, phần tâm thức phải có thay
đổi thì hành vi mới thay đổi được. Nhưng sự thay đổi chỉ dừng ngang việc
thiện ác. Dòng tâm thức vẫn tương tục không dứt và họ không ý thức được
điều đó. Không biết rằng tâm thức mình đang tương tục không dứt. Họ
chú trọng vào hành vi bên ngoài là chính. Suy nghĩ, tính toán, phân
biệt vẫn là những gì quen thuộc và thường tình với họ. Tuy vậy,
việc chuyển ác thành thiện là một bước ngoặc khá lớn trong đời
sống một con người, nhất là vào thời đại này, thời đại mà chúng
sinh xuôi theo nghiệp ác thì nhiều, vận hành nghiệp thiện khá khó
khăn. Bước ngoặc đó chính là cái nhân để họ không phải tái sinh vào
những cảnh giới khổ sau này.
Có những người tâm thức tái
sinh ở dạng rõ nét hơn. Họ thích câu niệm Phật. Bất cứ khi nào có
thể, họ đều niệm Phật. Những niệm chúng sinh được thay thế bằng một
danh hiệu Phật. Đó là cái nhân cho một sự tái sinh về thế giới Phật
hay cảnh giới lành. Tuy vậy, họ không ý thức được về dòng tâm thức
đang tuôn chảy của mình, nhưng sự thay đổi đã diễn ra tương đối liên
tục ở tâm. Niệm chúng sinh chết đi nhường chỗ cho những danh hiệu
Phật. Dòng tương tục vẫn còn đó, nhưng niệm của nó không còn là
niệm chúng sinh mà là niệm Phật.
Thiền chánh phái có nhiều
pháp môn: Tham thoại đầu, Mặc chiếu, Thiền tịnh song tu v.v… Phương
tiện thì nhiều, chung quy là chỉ làm sao chết đi những tâm niệm chúng
sinh, giúp chúng sinh trở về tâm chân thật có sẵn trong mỗi người. Phần
tâm được gọi là tâm Phật đó, không phân biệt mà phân biệt, phân biệt
mà không phân biệt. Một khi đã nói đến tâm Phật, lấy việc ngộ nhập
Phật tâm làm tông chỉ, là nói đến Tổ sư thiền. Các phương tiện nêu
trên đều thuộc Tổ sư thiền. Tổ sư thiền hay các loại thiền mà Cổ
đức gọi là thiền Tiểu thừa hay Trung thừa, phương tiện hành trì đều
nhằm dứt bặt dòng tâm thức, nhưng do đích đến khác nhau nên kết quả
thành khác nhau. Quả vị của Thanh văn và Duyên giác là A-la-hán và
Bích-chi Phật. Chư vị giải thoát nhưng chưa nhận ra tâm Phật của chính
mình. Chưa thấy được sự mộng ảo của thế giới này. Trong khi quả vị
của Bồ-tát là Phật quả. Sống được với tâm chân thật thì nhận ra
không gì không từ tâm sinh, mọi thứ đều là hư ảo, sinh tử Niết-bàn
như hoa đốm trong hư không, tâm chính là tánh của tất cả pháp.
A-la-hán và Bích-chi Phật, dòng
hiện hành tương tục không còn sinh khởi. Phần đoạn sinh tử của chúng
sinh chấm dứt. Chỉ còn phần Biến dịch sinh tử của thánh nhân đang âm
thầm chuyển dịch bên trong.
Chư vị không còn tái sinh ở thế giới chúng sinh nữa. Có chăng chỉ do
hạnh nguyện độ sinh.
Đối với Tổ sư thiền, là thiền
để trở về tâm Phật của mình, thì dứt bặt dòng tâm thức cũng là
việc mà một hành giả tu thiền cần phải làm. Tuy vậy, cái chính
không phải để mọi hiện hành đều lắng yên (như hàng La-hán hay
Bích-chi Phật) mà chính là để dừng đi cái lực của dòng tương tục.
Đây muốn nhấn mạnh đến chữ “lực”. Mọi vọng niệm sẽ không còn tác
dụng dẫn ta đi trong luân hồi sinh tử, nếu không có lực này. Lực này
do đâu mà có? Do sự huân tập và tích tụ. Thứ gì bạn huân tập nhiều,
tức bạn đã tạo cho nó thành thói quen thì lực này sẽ xuất hiện.
Phật gọi là lực nghiệp. Khi bạn còn tập nghiệp thì bạn sẽ bị cái
lực của tập nghiệp này dẫn chạy, chân sẵn đó mà không ngộ nhập
được Phật tánh của mình. Bồ-tát hàng phục được lực này, khi độ
sinh ở thế giới Sa-bà, nương nguyện lực mà đi. Cho nên, hành giả tu
thiền là để làm mất đi lực này. Diệt vọng hay trừ vọng không phải
để hết vọng mà để vọng hiện đúng bản chất của nó. Muốn vọng
chính là vọng thì lực của vọng phải mất. Thành có vọng hay không
vọng, không quan trọng. Quan trọng là bạn thấy được vọng hay bạn
chính là vọng.
Điều quan yếu ở đây là phải
một lần nhận ra cái gì là chân, để tin chắc những gì Phật Tổ đã nói
là thật, không phải do tin mà làm như trước đây. Sự nhận ra đó gọi
là ngộ hay là thực chứng tâm chân thật của mình. Ngộ hay thực chứng
diễn tả các trạng thái mà thay vì chúng ta hiểu nó bằng ngôn từ hay
suy lường, giờ chúng ta “chứng kiến tận mắt”. (Nói tận mắt nhưng có
một “trạng thái” mà không có mắt, tai, mũi lưỡi thân ý mới “tận mắt”
được). Như nói tâm không thì bạn phải chứng nhận rõ ràng như thế nào
là tâm không ở ngay tâm mình, không phải chỉ dừng ở sự hiểu biết. Tùy
căn tánh của từng người mà chúng ta có sự thực chứng này. Có người
công phu vài tháng vài năm đã có sự thực chứng. Có người công phu
vài chục năm mới có sự thực chứng. Có người đến khi nhắm mắt rồi
vẫn chưa có sự thực chứng. Người vài tháng, vài năm đã có thực
chứng, vì thiện nghiệp đã gieo từ vô lượng kiếp về trước. Tùy thuộc
vào căn nghiệp tu hành đời trước mà chúng ta có cảnh giới tu chứng
ngày nay. Như Lục Tổ nghe một câu kinh Kim
cang liền ngộ, tám tháng ở nhà trù giả gạo liền thấu được tâm
sinh muôn pháp.
Đại sư Hám Sơn nói về sự
chứng ngộ này như sau: “Chứng ngộ
là kết quả của sự tham công án bền bỉ và đều đặn. Những người này
xô đẩy tâm trí mình đến tận cùng sẽ thấy rằng các tư tưởng của
mình hốt nhiên dứt bặt… Như người uống nước, hành giả biết nó nóng
hay ấm, không còn chỗ để hoài nghi... Tuy vậy chứng ngộ cũng có
nhiều cấp độ. Nếu một người có thể thâm nhập được cái ổ của tám
thức, lật ngược lại cái hang mù tối bằng một cái nhảy vĩ đại, lúc
ấy chẳng còn gì cho người ấy chứng quả”.
Chứng ngộ có nhiều cấp độ. Bạn có thể thấy tư tưởng mình bỗng
nhiên dứt bặt khi đang còn thân tâm và cảnh giới trước mắt. Cái ngộ
ấy tuy là chân ngộ nhưng chưa phải là triệt ngộ. Triệt ngộ dùng để
diễn tả cho việc hành giả thấu triệt tánh Phật của mình. Ở đó
không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp v.v… như kinh Bát-nhã
đã nói. Hoặc như Tổ Pháp Loa nói: “Thấy tánh
không phải là có tánh để thấy. Nói thấy là thấy chỗ không thể thấy
mà thấy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy, thì chơn tánh hiện…”.
Không có năng sở nên không thể diễn tả về nó nhưng không phải không có
sự chứng ngộ ở đó để muốn nói gì thì nói.
Nói về vấn đề triệt ngộ này,
Đại sư Hám Sơn đã viết: “Cái gọi
là “Đốn ngộ tiệm tu”, chỉ cho người đã ngộ được một cách
triệt để (triệt ngộ) nhưng vẫn chưa tẩy trừ một lần cho xong tất cả
các tư tưởng tập tục trong mình. Người ấy phải “đồng hóa” cái ngộ
của mình với tất cả những gì người ấy gặp trong đời sống thường
nhật… Hễ cứ một phần tư tưởng khách quan hòa hợp với ngộ, thì một
phần pháp thân được khai mở và cứ một phần vọng tưởng tiêu tán thì
một phần trí tuệ hiển phát”. Đó là trường hợp mà HT.Trúc Lâm
từng nói: “Kiến tánh khởi tu” hay “Đốn ngộ đồng chư Phật, đa sinh tập
khí thâm”. Kiến tánh nói đây không dừng ở mặt niềm tin mà đòi hỏi
một chỗ thực chứng. Chứng được tánh thể của tất cả pháp. Vì thấy
được tánh thể của tất cả pháp, nên nói triệt ngộ, là ngộ được chỗ
tột cùng.
Trở lại dòng tâm thức…
Nếu bạn thấy được dòng tâm
thức, nghĩa là bạn không còn chính là dòng tâm thức đó nữa. Nếu
bạn thấy chúng đúng là vọng, tức chúng không còn khả năng sai xử
bạn nữa. Khi không có duyên, mọi thứ yên lắng. Đủ duyên liền có phương
tiện. Thiền sư Hương Hải
có làm bài kệ: “Nhạn quá trường không/ Ảnh trầm hàn thủy/ Nhạn vô
di tích chi ý/ Thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Dịch “Nhạn bay qua hư không/
Bóng chìm dưới nước lạnh/ Nhạn không ý lưu dấu/ Nước không tâm lưu ảnh”.
Cái “không lưu dấu” ấy chính là hoạt dụng của thánh nhân. Chúng sinh
niệm niệm lưu giữ, hiện tướng của sự chấp thủ, là hoạt dụng của
dòng tương tục.
Nếu bạn chính là vọng thì
bạn không thể thấy được vọng. Bạn nhận nó là chính mình, nên bất
cứ một tư tưởng nào hiện lên trong tâm, bạn đều là nó. Bạn với dòng
tương tục là một. Đủ duyên niệm khởi, bạn không có thời gian để quan
sát nên không có thời gian để thấy là nên hay không nên mà tới hay lui.
Niệm khởi liền theo cho đúng với những gì chúng ta đã gây tạo với
nhau. Có những hành vi mình thấy rất ngu muội nhưng con người vẫn làm,
vì nhập chung với dòng tương tục này. Con người trở thành ngu muội
vì không ý thức được hết những gì đang xảy ra trong tâm. Vì đã quen
nhập chung với dòng tương tục, nên cứ theo dòng tương tục mà đi. Cái
quả bất hạnh của người kia trở thành cái nhân khiến người này thành
u tối trong những phán xét và hành vi của mình, chỉ vì một dây nhân
duyên ràng buộc trong quá khứ.
Để diễn tả thực tế tình trạng
có thể phân hai của tâm thức, kinh
Lăng nghiêm nói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ
là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách… Lắng lặng gọi là
hư không. Diêu động gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là
trần”. Chủ
và khách không phải là những khái niệm thông dụng đối với người đời
khi nói về tâm thức của họ. Ít ai thấy được tâm thức của mình vận hành
thế nào. Gì là khách? Gì là chủ? Thiền sư Hàm Thị bàn rằng: “Tâm nơi căn cảnh, do vọng động mà thấy
có lăng xăng, nhưng cái thấy được vọng thì không lăng xăng”. Cái
thấy được vọng, là chỉ cho việc thấy những tâm niệm đang hiện khởi
trong tâm mình. Nếu chúng ta có thể thấy được các tâm niệm của mình
- tâm có niệm thấy có niệm, tâm không niệm thấy không niệm, thấy rõ
từng cảm xúc hay tư tưởng - thì cũng có nghĩa là mình đã hiểu
khách là gì và chủ là ai. Đây là bước đầu giúp chúng ta ngộ nhập lại
Phật tánh của mình trong tương lai.
Nói trên lý, mọi việc có vẻ
đơn giản. Nhưng trên sự, việc nhận ra dòng tương tục không phải là
việc mà ai cũng làm được. Làm được rồi, chưa hẳn đã theo đuổi được
đến cùng, để một lần chết đi và sống lại với một tâm thức hoàn
toàn mới.
Chan-chen-chi, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, đã nói về quá
trình ấy như sau: “Điều đầu tiên mà
hành giả thể nghiệm là những vọng niệm không ngớt sinh khởi. Hành
giả khám phá ra rằng tâm mình bất trị đến nỗi mình khó mà chế
phục nó dù trong một kỳ gian rất ngắn. Vọng niệm trôi chảy như một
thác nước, không ngừng lấy một khoảng khắc. Người sơ học cảm thấy
mình có nhiều vọng niệm hơn bất cứ lúc nào. Tu định có phần làm niệm
tăng gia hơn là giảm thiểu. Nhiều người mới khởi công bị cản trở
nghiêm trọng và thối chí vì cái kinh nghiệm sơ khởi này. Trong cơn
thất vọng, họ bắt đầu hoài nghi tính hữu hiệu của pháp mà họ đang
tu tập. Và trở nên hoài nghi ngay cả khả năng nhập định. Rồi họ bắt
đầu thay đổi kỷ thuật tu định của họ, từ pháp môn này sang pháp môn
khác. Và kết quả là tuyệt vọng hoàn toàn. Cuối cùng bỏ rơi luôn việc
tu tập. Sự thật thì những vọng niệm không bao giờ gia tăng. Tu định
chỉ làm ta ý thức nhiều hơn về chúng. Chỉ một cái tâm tĩnh mới có
thể ý thức được dòng tưởng cho đến nay vẫn luôn trôi chảy mà không
được biết đến. Do đó kinh nghiệm tu định này là một dấu hiệu tiến
bộ trong việc tu định của mình, không phải là thoái bộ. Hành giả có
thể thể nghiệm nhiều tư tưởng đến và đi trong vòng một sát-na…”.
Ngài Hám Sơn cũng nói:
“Khi dụng công được tốt đẹp, các sự
vật ở thế giới ngoại tại sẽ không làm phiền chư vị lắm. Nhưng phiền
phức ở chỗ là các vọng tưởng sẽ khởi dậy kịch liệt trong tâm trí
chư vị mà không có nguyên do rõ rệt nào cả. Đôi khi khát vọng và
lòng dục tuôn trào. Đôi khi một nỗi xao xuyến không mô tả được lộ ra. Nhiều
trở ngại khác cũng xuất hiện. Tất cả những khó khăn này sẽ làm
mệt thân tâm chư vị. Đến nỗi chư vị không biết phải làm gì. Lúc ấy
chư vị phải nhận thức rằng tất cả những kinh nghiệm phiền não này
là do nỗ lực thiền định của chư vị gây ra, làm hiện hành các chủng
tử ẩn sâu trong tạng thức. Ở giai đoạn quyết định này, chư vị phải
nhận ra chúng hoàn toàn. Đừng bao giờ để chúng kiểm soát và hoặc
loạn”.
Nếu tâm thức chúng ta có thể
vận hành theo cách như thế, chúng ta thật sự có một đời sống tâm
thức mới. Một cuộc sống mới đã bắt đầu.