Vọng tưởng
vong tuong
Vọng
tưởng
Chân hiền tâm
I.
Duyên khởi
1/
Cần thiết cho người tu thiền: Người tu Tịnh độ
để vãng sinh Cực lạc, thì việc hiểu vọng tưởng là gì có lẽ không
cần thiết lắm. Bởi chỉ cần tín, hạnh, nguyện đầy đủ thì được vãng
sinh. Hạnh thì một câu lục tự Di-đà niệm cho đến khi được nhất tâm
bất loạn. Chỉ cần cho được nhất tâm bất loạn, không cần biết vọng
tưởng là gì. Người tham thoại đầu, chắc cũng không cần biết rõ về
vọng tưởng, chỉ cần đề khởi một câu thoại đầu cho đến khi tâm như
thùng sơn lũng đáy. Với người tu thiền, lại là thiền “Biết vọng
không theo” hay “Biết có chân tâm” thì việc biết rõ cái gì là vọng
để không theo, có lẽ là khá cần thiết. Nó giúp ích cho việc tu học
của hành giả không nhỏ. Đó là lý do thứ nhất triển khai bài viết
này.
2/
Thiền phái Trúc Lâm là phái thiền nhập thế:
Là một thiền phái nhập thế thì việc tiếp duyên không thể tránh
khỏi. Phật tử thuộc thiền phái Trúc Lâm thì gần như thời gian chính là
dành cho công việc xã hội, giao tiếp nhiều. Cho nên, biết rõ về vọng
tưởng là việc cần thiết. Để ngoài những lúc phải tiếp duyên, chúng
ta hạn chế bớt các duyên. Biết vọng là gì cũng là phương cách để
chúng ta nhận định rõ về những gì chúng ta đang hành xử, thông qua ba
thứ thân, khẩu, ý của mình. Đó là lý do thứ hai khiến bài viết được
triển khai.
II.
Vọng tưởng là gì?
Theo cái nhìn của người đời thì
“vọng tưởng” được dùng để chỉ cho những lời nói hay suy nghĩ không
đúng sự thật.
Với cái nhìn của Phật học,
như Tự điển Phật học đã ghi,
thì “Không có thật, gọi là vọng. Do phân biệt sai lầm mà có sự chấp
giữ các tướng ở thế gian, gọi là tưởng”. Nghĩa này trùng với nghĩa
của “Tưởng tâm sở” mà luận Thành
duy thức đã nói: “Tưởng tâm sở, là tính chấp thủ tướng mạo của
cảnh và có nghiệp dụng thiết đặt ra các danh ngôn”.
Như vậy nói tổng quát, vọng
tưởng được chỉ cho những suy nghĩ, tư tưởng không có chất thật so với
thực tế. Thực tế này, có thể được hiểu là hiện thực mà chúng ta
đang sống đây. Vọng tưởng trong trường hợp này là những gì không có
trong đời, như lông rùa, sừng thỏ. Cũng có thể hiểu thực tế là bờ
mé chân thật tối cùng, chính là tâm chân như, cội gốc chân thật của
tất cả pháp. Tâm này là sở y (tánh) của tất cả pháp. Không có pháp
nào có cội gốc riêng. Như ngủ mê rồi mộng mà thấy tướng các cảnh
giới, thực chất thì các cảnh giới ấy không có, chỉ là tâm, do vô
minh bất giác mà khởi. Với nghĩa này, nói vọng là do đối với chân mà
nói. Mọi hiện khởi hiện lên trong tâm, dù đúng dù sai đều gọi là “vọng”.
Do vô minh bất giác mà khởi,
không phải chân nên nói “vọng”.
Do chấp thủ tướng cảnh giới
mà nảy sinh suy nghĩ, tư tưởng, cảm xúc… nên nói “tưởng”.
Tưởng này do duyên mà thành,
không có chất thật, nên nói “vọng tưởng”.
III.
Phân loại vọng tưởng
Trong kinh Lăng-già, Phật phân vọng tưởng ra thành 12 loại.
1/ Ngôn thuyết vọng tưởng
Ngôn thuyết vọng tưởng, là chỉ
cho “các thứ âm thanh ca vịnh vui đẹp chấp trước”. Cũng chỉ luôn cho
loại ngôn thuyết nói năng của người đời. Nói “ngôn thuyết vọng tưởng”
vì do vọng tưởng mà khởi ra ngôn thuyết. Vọng tưởng là những gì đã
được huân tập và lưu giữ trong tâm. Vọng tưởng vốn không thật. Các
thứ âm thanh ngôn thuyết cũng không thật. Vì nó chỉ là pháp duyên hợp.
Như Phật nói với Bồ-tát Đại Huệ “Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi,
lưỡi, níu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh”. Các
duyên nếu thiếu, ngôn thuyết không thể thành hình. Nên nói hư vọng.
Nhân của ngôn thuyết chính là
dòng vọng tưởng tương tục khởi lên trong tâm. Cho nên, người không nói,
chưa chắc vọng tưởng không có, nhưng người nói nhiều thì nhất định
vọng tưởng phải nhiều, lực của dòng vọng tưởng phải mạnh. Giờ muốn
không quả thì phải trừ nhân. Vì thế, muốn dừng được loại Ngôn thuyết
vọng tượng này thì hoặc là dòng vọng niệm phải dứt, hoặc là phải
làm chủ được dòng vọng niệm của mình.
2/ Sở thuyết sự vọng tưởng
Sở thuyết sự, là chỉ cho những
gì được phát sinh từ Thánh trí, như lời kinh, tiếng kệ, pháp ngữ
v.v… Kinh nói: “Nói ra là chỗ Thánh
trí biết, y đó mà sinh ngôn thuyết vọng tưởng, nên gọi là Sở thuyết
sự vọng tưởng”.
Lời kinh, tiếng kệ v.v… mà gọi
là vọng tưởng, vì chúng chỉ là pháp dẫn đạo. Ứng duyên thì hiện. Hết
duyên thì không. Như lớp học ồn, cần tiếng hét của giáo viên. Tiếng
hét tuy làm dịu được tiếng ồn, nhưng cũng vẫn là tiếng ồn đối với
khoảng không thinh lặng, chưa phải là chỗ thinh lặng thật sự. Đó chỉ
mới là ngón tay chỉ mặt trăng, chưa phải chính mặt trăng. Đại sư Hàm
Thị bàn rằng: “Chỗ Thánh trí hiển
bày phải ngộ nhập, nếu không thể nhân ngón tay mà thấy mặt trăng thì
chỗ hiển bày biến thành cảnh giới giác tưởng”. Cho
nên, dù từ Thánh trí lưu xuất, nhưng nếu cho cái “Sở thuyết sự” ấy
là chỗ chân thật, thì cái chân thật ấy liền biến thành cảnh giới giác
tưởng, chẳng thể tỏ tường mọi thứ. Vì thế, Hương Nghiêm Trí Nhàn,
thông suốt kinh luận, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, được mệnh
danh là Thích Ca thứ hai, vẫn không thể nào trả lời được câu hỏi của
ngài Quy Sơn: “Thử nói một câu,
trước khi cha mẹ chưa sinh là thế nào?”. Bởi ngón tay không phải
là mặt trăng. Nương ngón tay để thấy mặt trăng. Nếu không biết, lấy
ngón tay làm mặt trăng thì không thể nào thấy được mặt trăng. Làm
thế nào để trả lời khi hỏi về mặt trăng?
Đức Sơn, khi chưa gặp Sùng Tín,
là một người rất tự hào về tài học của mình. Đã từng nói với kẻ
đồng môn: “Một sợi lông nuốt cả bể
cả, tánh bể không thiếu. Hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn
chẳng động. Học cùng chẳng học chỉ có ta biết thôi”. Thì
biết không phải là hạng vừa trong Giáo tông.
Nghe phương Nam, Thiền tông thịnh
hành. Sư bất bình nói: “Kẻ xuất
gia, muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật,
còn chưa thể thành Phật. Huống trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành
Phật”. Nói rồi liền quẩy bộ Thanh
long sớ sao, hướng phương Nam mà tới, với tâm nguyện diệt trừ bọn
ma phương Nam, đền ơn Phật Tổ.
Đi giữa đường gặp bà lão bán
bánh, Đức Sơn dừng lại hỏi mua bánh.
Bà lão hỏi:
- Gói ấy là sách vở gì?
Trả lời:
- Thanh long sớ sao.
Bà lão hỏi:
- Thầy thường giảng kinh gì?
Đức Sơn trả lời:
- Kinh Kim cang.
Bà nói:
- Tôi có một câu hỏi. Nếu thầy
đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Nếu không đáp được, mời
thầy đi nơi khác.
Đức Sơn gật đầu ưng thuận.
- Kinh Kim cang nói “Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất
khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc”. Vậy xin hỏi, Thượng tọa dùng tâm
nào để điểm?
Đức Sơn không trả lời được,
bèn hỏi đường đi Long Đàm.
Đến pháp đường, gặp Sùng Tín,
Sư hỏi:
- Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi
đến nơi chẳng thấy Đàm mà Long cũng chẳng hiện.
Sùng Tín trả lời:
- Người đã gần đến Long Đàm.
Đức Sơn không đáp được. Ở lại
thờ Sùng Tín làm thầy.
Một đêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín
bảo:
- Đêm khuya sao chẳng xuống?
Sư chào, bước ra, nhưng lại
bước trở vào nói:
- Bên ngoài tối đen.
Sùng Tín thắp đèn đưa Sư. Sư
toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ.
Sau khi đại ngộ, mới nhận ra
ngàn kinh muôn luận chỉ là ngón tay giúp người nhận mặt trăng, không
phải chính mặt trăng. Sư mang bộ Sớ
sao chất trước pháp đường mà đốt. Nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền, chỉ như sợi lông trong hư
không. Thông sạch các trọng yếu ở đời, chỉ như một giọt nước gieo
trong biển cả”.
Cho nên, là kẻ tu thiền, nếu
nhầm những kiến giải khởi lên trong tâm, cho là chỗ tâm chứng tột
cùng, thì như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, không tránh khỏi lửa táp vào
mình. Vì chúng chỉ là một loại Sở thuyết sự vọng tưởng, do ứng
duyên mà hiện. Nếu chấp thủ chúng, tức cho chúng là thật thì chúng
là nhân dẫn dến phiền não và trở thành một loại sở tri làm chướng
ngại Bồ-đề.
3/ Tướng vọng tưởng
Tướng vọng tưởng là đối với tướng
các pháp mà khởi vọng tưởng. Như thấy đất liền khởi tưởng cứng. Thấy
lửa liền khởi tưởng nóng. Nghe nói me liền khởi tưởng chua. Với con
người, con vật hay một sự kiện nào đó, khi nhìn thấy chúng mà tâm
khởi lên các thứ tưởng có liên quan, thì những liên tưởng đó gọi là
Tướng vọng tưởng. Do chấp thủ tướng mà sinh khởi vọng tưởng, nên gọi
là Tướng vọng tưởng.
Chấp thủ tướng là, do từng
biết đất có tính cứng, nước có tính ướt, lửa có tính nóng v.v…
rồi lưu giữ những thấy biết đó trong tạng thức. Khi đối duyên, y
tướng đang thấy mà những chấp thủ được lưu giữ trong tạng thức theo
đó sinh khởi. Kinh Lăng nghiêm nói
“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn” là đây. Là cái thấy biết hiện tại
không do đối duyên trực biết, mà do y vào những thấy biết quá khứ để
biết. Thấy biết như vậy là gốc của vô minh, cũng là lấy vô minh làm gốc.
Do y tựa vào những gì đã được
lưu giữ mà biết, nên nó là pháp duyên khởi. Duyên khởi thì không có
chất thật, nên nói “vọng”. Do chấp thủ tướng mà tâm sinh khởi, nên
nói “Tướng vọng tưởng”.
Tướng các pháp đều do duyên
tạo thành. Duyên thay đổi thì tướng pháp thay đổi. Cho nên các thứ
tưởng liên quan đến tướng các pháp tại một thời điểm nào đó chưa
hẳn còn chính xác vào thời điểm sau. Như thấy lửa liền liên tưởng
đến tính nóng. Nhưng lửa không phải khi nào cũng nóng. Với một hỗn
hợp hóa học gồm 60ml cacbondisulfua (CS2) và 40ml
tetraclorua cac bon (ccl4), tướng lửa vẫn còn mà tính nóng đã
mất. Các nhà Hóa học gọi nó là lửa lạnh. Như con người trước khi tu
hành và sau khi tu hành có khi thay đổi một trời một vực. Ngài Angulimala,
đệ tử của Đức Phật, trước khi đến với Phật là một kẻ sát nhân, sau
khi làm đệ tử Phật thì tu quán từ bi, một con vật nhỏ cũng không
khởi tâm giết hại. Từ bi quán có lực đến nỗi đủ để Tôn giả hồi
hướng cho một phụ nữ sinh nở được bình an. Cho
nên, tướng pháp luôn biến dịch, không phải khi nào cũng cố định để những
lưu giữ trong tâm khi nào cũng có giá trị.
Lại, cùng một tướng như nhau
mà nhân duyên hình thành nên tướng đó khác nhau thì giá trị các
tướng đó cũng không như nhau. Nếu thấy cùng tướng mà cho là giá trị
như nhau thì khó tránh được sai lầm.
Khổng Tử,
một lần dẫn học trò du thuyết sang Tề, có Nhan Hồi và Tử Lộ đi theo. Cả hai
đều là học trò giỏi của Khổng Tử.
Trong
thời Đông Chu, dân chúng lầm than đói khổ, thầy trò Khổng Tử cũng không thoát
được cảnh đó. May thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú biếu thầy
trò một ít gạo. Khổng Tử phân Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn
Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện
với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang đọc
sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc
mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay nắm lại từng
nắm, rồi cho cơm vào miệng. Chứng kiến cảnh ấy, Khổng Tử thở dài, ngửa
mặt lên trời than: “Chao ôi! Học trò giỏi
của ta mà lại đi ăn vụng…”. Sự liên hệ khởi tưởng từ tướng như thế,
gọi là Tướng vọng tưởng.
Thật
ra, Nhan Hồi không ăn vụng. Chỉ là vì khi giở nắp xem cơm, một cơn gió
thổi qua, bụi trần rơi xuống làm bẩn lớp cơm trên. Ông quyết định ăn
phần cơm bẩn đó để thầy và các bạn không phải mất thêm phần cơm cho
mình.
Khổng
Tử, do huân tập cái thấy bình thường của người đời, thấy tướng như
thế và cho là đang như thế, nên kết luận Nhan Hồi ăn vụng, mà quên mất
mặt nhân duyên của pháp. Là nhân duyên gì khiến tướng đó xuất hiện?
Nếu xét nhân duyên thì hiểu Nhan Hồi vẫn xứng đáng là học trò giỏi
của mình.
Cho nên,
cái Tướng vọng tưởng này, tuy là vọng nhưng không phải dễ phá. Vì
những sở tri đã huân tập sâu trong tiềm thức. Một bậc thánh như Khổng
Tử, duyên là đệ tử giỏi nhất của mình, mà vẫn không thắng nổi phần
sở tri đang mang, khiến khởi cái tưởng sai lầm, thì biết loại Tướng
vọng tưởng này rất mạnh ở mỗi người.
Hầu hết chúng sinh đều mắc
phải Tướng vọng tưởng này, dù đang là hành giả tu thiền. Sáu căn
đối sáu trần, khởi phân biệt, rồi trên phân biệt lại sinh khởi vọng
tưởng. Dù không có duyên bên ngoài, thì dòng tương tục bên trong cũng
hiện hành liên tục. Niệm này làm duyên cho niệm kia sinh khởi, nối
tiếp không ngừng.
Thiền, chính là sáu căn đối
sáu trần mà tâm ở trạng thái hiện lượng. Tổ Trúc Lâm nói: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.
4/ Lợi vọng tưởng
Tâm ưa thích tham đắm các loại
lợi dưỡng như châu báu, vàng bạc, tiền tài, đất đai… thì gọi là Lợi
vọng tưởng. Vọng tưởng này do tài lợi mà xuất hiện, nên gọi là lợi
vọng tưởng. Vì tâm ưa thích tham đắm thuộc tâm, không thuộc cảnh, nên
nói “tưởng”. Vì tâm ưa thích tham đắm có thể thay đổi, tức tâm ấy không
có chất thật, nên gọi là “vọng”. Như khi chưa tu hành thì ưa thích
vòng vàng, hột xoàn. Tu hành rồi thì thích nâu sòng và cháo rau qua
ngày.
5/ Tự tánh vọng tưởng
Tự tánh vọng tưởng là phân
biệt tất cả pháp đều có thể tánh riêng, rồi chấp giữ không bỏ. Kinh
nói: “Gìn giữ tự tánh này như thế
chẳng đổi khác, gọi là Tự tánh vọng tưởng”. Loại vọng tưởng
này xuất hiện do chấp các pháp có tự tánh không thay đổi, nên gọi
là Tự tánh vọng tưởng. Các pháp duyên hợp, vốn không tánh cố định,
giờ lại cho các pháp có tánh, nên nói “vọng”.
- Cho pháp có tính chất cố
định, gọi là Tự tánh vọng tưởng. Như thấy lửa có tính nóng và lấy
nóng làm tánh của lửa. Khi lấy nóng làm tánh của lửa cũng có
nghĩa là nóng luôn đi kèm với lửa. Có lửa là có nóng. Thực tế thì
không như vậy. Như loại lửa lạnh, tuy vẫn có lửa nhưng không còn tính
nóng nữa. Cách chấp thủ lửa luôn nóng, được gọi là Tự tánh vọng
tưởng.
- Thấy hành vi nhất thời ở
một người, rồi lấy hành vi nhất thời đó cho tánh người đó là như
vậy, cũng rơi vào loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.
Anh là một người đàn ông rộng
lượng, tiền bạc đi làm về đều giao hết cho vợ. Nhưng một thời gian
sau, thứ mà mọi người thấy được ở anh là anh không giao tiền cho vợ
nữa, và bắt đầu tính toán các chi tiêu trong gia đình. Một người
không hiểu chuyện đã kết luận anh là người keo bẩn. Thực tế, có
chuyện đó là vì người vợ chơi số đề. Tất cả tiền bạc được lấy ra
phục vụ cho việc chơi đề. Trong cái duyên như vậy, anh bắt buộc phải
nắm tiền bạc và phân bố chi tiêu trong gia đình để tránh tình trạng
thất thoát do việc tham đề của vợ sinh ra. Nếu lấy một hiện tượng
thấy được trong nhất thời quy kết thành tánh cố định của một người
bất chấp nhân duyên, gọi là Tự tánh vọng tưởng.
Nếu có cái nhìn nhân duyên, là
biết mọi hình tướng xuất hiện đều có nhân duyên thì chúng ta không
vướng vào loại Tự tánh vọng tưởng này.
- Chúng sinh không có tánh cố
định, nhưng gắn tánh cố định cho pháp thì gọi là Tự tánh vọng
tưởng.
Chúng sinh là một hợp thể có
rất nhiều loại chủng tử trong tạng thức. Xấu có, tốt có, không xấu
không tốt cũng có. Dù khi còn ở dạng chủng tử trong tạng thức thì
nó mang tính vô ký. Nhưng đủ duyên hiện hình thì tốt xấu phân minh.
Chủng tử nào đủ duyên sẽ hiện
hành. Đủ duyên, là khi gặp trúng hoàn cảnh, trúng con người v.v… giúp
cái chủng đó hiện khởi. Đây là lý do vì sao một người lương thiện
vẫn có thể có những hành vi bất thiện. Một kẻ bất thiện có khi vẫn
có các hành vi thiện, là do chủng tử ẩn trong tàng thức đủ duyên hiện
hành hay chưa. Đó là quy luật hiện hành của tâm. Vấn đề xảy ra là do
cái tưởng của mình. Mình hay quy nạp các hiện tướng đang có, rồi
lấy các hiện tướng đó làm tánh của các pháp, pháp trở thành luôn là
vậy, sai lầm mới xuất hiện.
Cho nên, người tốt với người
này không hẳn đã tốt với người kia, người xấu vào lúc này không hẳn
đã xấu vào lúc khác, người mình cho là tốt không hẳn đã là người
hoàn toàn tốt v.v… Mọi thứ đều tùy duyên. Tùy duyên thì không tánh.
Với cái nhìn duyên khởi như thế, chúng ta ít bỡ ngỡ đối với các
việc ở thế gian, cũng ít sai lầm khi đánh giá một hiện tượng.
- Chấp thế gian này có thật,
rồi đi tìm hạt cơ bản sinh ra thế giới này, tức cho vật chất có cội
gốc riêng của nó, cũng thuộc loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.
6/ Nhân vọng tưởng
Nhân vọng tưởng, là những vọng
tưởng có liên quan đến phần nhân duyên. Kinh nói: “Hoặc nhân hoặc duyên phân biệt có không, nên nhân tướng sinh, ấy
gọi là nhân vọng tưởng”. Ngài Hàm Thị bàn rằng: “Đối với nhân duyên, khởi phân biệt có
nhân tướng, không nhân tướng, nhân này thì duyên này, nhân kia thì duyên
kia…”. Nghĩa là, do sự chấp thủ mà cảnh giới vọng tưởng trở
thành như thật với chúng sinh. Trên cái như thật ấy lại khởi phân
biệt tìm nhân, tìm duyên v.v… khiến vọng tưởng thêm tương tục, sự chấp
thủ càng kiên cố.
Nhân duyên hay duyên khởi tuy là
thực lý ở thế gian, tức không pháp nào không hình thành và hoại
diệt theo duyên, nhưng nếu chấp vào đó cho là thật, thì không thể nào
nhận lại được chân thể thanh tịnh. Như mu bàn tay với lòng bàn tay,
nếu chỉ nhìn thấy mu bàn tay và cho đó là tất cả bàn tay, thì không
còn cơ hội thấy được lòng bàn tay.
Hiện tượng chỉ là mặt biểu
hiện của một chân thể thanh tịnh thông qua nhân duyên và nhân quả. Không
chấp vào mặt hiện tượng thì mới có khả năng nhận ra mặt chân thể
sẵn đủ trong mỗi người. Còn đã chấp vào mặt hiện tượng, tức cho
những hiện tướng đó là thật, rồi y đó mà nẩy sinh nhân này quả
này, nhân kia quả kia v.v… thì rơi vào Nhân vọng tưởng nói đây.
Như hiện nay, nhân duyên nhân quả
được ứng dụng khá tốt trong nhiều lãnh vực. Từ trồng trọt, chăn
nuôi, pháp luật, giáo dục v.v… Do nắm được mặt nhân duyên này của
pháp, nên nảy sinh việc nhân này sẽ cho ra quả này, nhân kia sẽ cho ra
quả kia. Thế giới ngày càng phong phú về mặt vật chất thì cũng có
nghĩa là vọng tưởng đang trên đà lừng lẫy. Kỷ thuật biến đổi gien
trong công nghệ sinh học là một điển hình. Không chỉ dừng ở mặt biến
đổi duyên mà phát triển luôn ở mặt biến đổi nhân. Đà phát triển đó
chưa biết sẽ đưa nhân loại về đâu với những thứ như sinh sản vô tính
v.v…. Trung luận có phẩm Phá nhân duyên,
là phá sự chấp thủ đối với nhân duyên để chúng ta ý thức chấm dứt
loại Nhân vọng tưởng này, thể nhập chân thể rốt ráo.
7/ Kiến vọng tưởng
Kiến vọng tưởng, chỉ cho những
quan điểm rơi vào nhị biên phân biệt. Kinh luận thường đề cập đến Tứ
cú “có, không, không có cũng không không, vừa có cũng vừa không” để
nói về loại vọng tưởng này. Cho thế giới này là có, như nghiệp
thức của chúng sinh. Cho thế giới này là không, như nghiệp thức của
kẻ tu loại định vô tưởng ... đều là những dạng của Kiến vọng tưởng.
Thô hơn chút là quan điểm sống
của chúng ta. Nó được rút ra từ việc quy nạp các kinh nghiệm trong
đời sống của mình.
Một người đến đâu, thấy cũng phải
có tiền mới được việc ngay cả khi vào chùa, liền hình thành quan
niệm “Tiền là tất cả. Chỉ cần có tiền là có tất cả”. Đó là một
loại Kiến vọng tưởng, thuộc ác kiến. Sao gọi là ác kiến? Vì nó
được hình thành do quy nạp các hiện tượng từ lòng tham của con người,
không phát xuất từ lý thật. Một quan niệm như thế sẽ là tiền đề cho
các ác nghiệp về sau, nên gọi là ác kiến.
Người có cái nhìn tương ưng
với lý thật ở thế gian thì biết phước và trí mới là cái quyết
định tất cả. Hình thành nên cái thấy như vậy cũng là một loại Kiến
vọng tưởng, nhưng loại vọng tưởng này thuộc thiện kiến. Vì nó tương
ưng với lý chân thật, và là tiền đề giúp người hành thiện trong
hiện tại và tương lai.
Người nông dân, có cái nhìn
của người nông dân. Người tri thức, có cái nhìn của người tri thức
v.v... Tất cả đều bắt nguồn từ việc huân tập học hỏi và kinh nghiệm
trong quá khứ.
Tất cả đều do huân tập chấp
thủ mà có, không có chất thật, không huân tập nữa thì mất, nên nói
vọng tưởng.
Hệ quả là…
1/
Sản sinh ra nhiều cái thấy khác nhau. Do loại Kiến
vọng tưởng này mà trên cùng một hiện tượng, lại có nhiều cái nhìn
khác nhau. Người thấy thế này, kẻ thấy thế kia.
Các tự viện hay thiền thất ở
Nhật Bản thường có lệ là thiền khách nào muốn qua đêm tại đó thì
phải đủ trí thắng được thiền chủ. Trong một thiền thất kia có hai
vị, sư huynh là người có trí tuệ, nhưng sư đệ thì căn tánh không được
lanh lợi, lại bị chột một mắt. Vì vậy, ông ít khi ra ngoài tiếp
khách, chỉ loanh quanh trong bếp trong vườn là chính.
Một lần, sư huynh vừa ra khỏi
cửa thì có một thiền khách đến vấn thiền. Lão đệ dù muốn hay không
cũng phải tiếp khách. Biết mình không có trí, nên chủ trương dùng tay
nói chuyện là chính.
Thiền khách vừa ngồi xuống
liền đưa một ngón tay lên.
Sư đệ thấy vậy, đưa lên hai
ngón.
Thiền khách liền đưa lên ba
ngón.
Sư đệ nắm tay lại đấm vào mặt
thiền khách.
Thiền khách lập tức đứng dậy
bỏ đi.
Ra đến cổng, thiền khách gặp vị
sư huynh. Ông báo là mình đã thua cuộc và không ngớt lời khen vị sư
đệ.
Sư huynh hỏi việc, thiền khách
trả lời: “Tôi đưa một ngón tay lên,
ý nói Đức Phật độc tôn. Sư đệ thầy thấy vậy liền đưa ra hai ngón
tay, ý nói ngoài Phật còn có pháp. Tôi liền đưa ba ngón tay, muốn
nói ngoài Phật và Pháp còn có hàng đệ tử Phật. Sư đệ thầy thấy
vậy liền đấm vào mặt tôi, muốn nói rằng cả ba đều khởi từ nhất
thể. Tôi thua nên đứng dậy đi”. Sư huynh nghe xong, bước vào thiền
thất.
Vừa vào thiền thất đã thấy sư
đệ chạy tới, bực bội: “Lúc nãy có
một thầy dở hơi hết sức. Vừa ngồi xuống đã chế giễu việc chột mắt
của đệ. Nhưng Đệ nhịn, vẫn đưa ra hai ngón tay, ý muốn nói thầy có
phước nên đủ hai mắt. Không ngờ thầy ta vẫn không buông tha đệ, đưa ra
ba ngón tay muốn nhấn mạnh dù có thầy đi nữa thì cộng lại cũng chỉ
mới ba. Đệ tức quá tính đấm vào mặt thầy thì thầy đã đứng dậy bỏ
đi”.
Đồng căn đồng khí thì thấy như
nhau. Không đồng căn đồng khí thì thấy khác nhau. Thế gian này trở
thành muôn màu muôn vẻ là vậy.
2/
Nhìn sự vật không còn đúng như chính nó.
Người đời thường nói: “Kẻ mất búa
nhìn đâu cũng thấy người trộm búa”. Chúng ta thường nhìn thế
giới qua lăng kiến của chính mình, ít nhìn thế giới đúng như chính
nó. Kiến vọng tưởng chính là thứ trợ duyên đắc lực cho Tướng vọng
tưởng.
Tô Đông Pha là bạn của Thiền sư
Phật Ấn. Một lần Tô Đông Pha hỏi Thiền sư Phật Ấn:
- Thầy thấy tôi ngồi thiền thế
nào.
Phật Ấn trả lời:
- Như Phật.
Phật Ấn hỏi ngược lại.
- Ông thấy tôi ngồi thiền thế
nào?
Tô Đông Pha trả lời:
- Như đống phân bò.
Trả lời xong, hý hững mang về
khoe với em gái mình.
Tô tiểu muội là người am hiểu
thiền pháp, lắc đầu trả lời:
- Tâm thầy như tâm Phật thành
nhìn anh ngồi như Phật. Tâm anh như đống phân bò nên nhìn thầy ngồi như
đống phân bò.
Câu chuyện cho thấy phần Kiến
vọng tưởng trong mỗi người ảnh hưởng đến cảnh như thế nào.
3/
Quyết định nghiệp mệnh của con người. Kiến vọng
tưởng tuy chỉ là một loại vọng tưởng, nhưng nó lại là thứ có thể
quyết định hạnh phúc hay đau khổ của một con người khi chưa đạt quả
vị thánh. Triết gia Schopenhauer có một ví dụ khá lý thú cho loại
Kiến vọng tưởng này. “Một con khỉ
nhìn vào gương, không mong gì có một thiên thần nhìn ra”.
Nó nói lên tầm quan trọng của loại Kiến vọng tưởng đối với nghiệp
mệnh của một con người.
Vì ý nghiệp là chủ của thân
hành và khẩu hành nên khi ta có những tư kiến phù hợp với chân lý,
cuộc sống của ta hạnh phúc. Nếu có những tư kiến đi ngược với chân
lý, rơi vào tham-sân-si, cuộc sống của ta sẽ đau khổ. Thành ra, muốn chuyển
đau khổ thành hạnh phúc thì phải chuyển cho được loại Kiến vọng
tưởng này. Tư kiến chưa chuyển thì khó mà nghiệp mệnh chuyển được. Vì
thế, trong Bát chánh đạo, chánh kiến đứng đầu. Đó là việc đầu tiên
cần trang bị cho hành trình học đạo của một hành giả tu Phật.
Song dù là cái thấy nào, tương
hợp hay không tương hợp với chân lý, thì đối với tự tâm thanh tịnh
cũng đều là hư vọng, chỉ do chấp cảnh mà hình thành. Vì thế, muốn
thể nhập chân tâm thường trụ thì phải dứt sạch tất cả các loại kiến.
Trung đạo là con đường duy nhất thể nhập Đại đạo mà ai cũng phải
qua. Chỉ khi ấy, chúng ta mới có khả năng nhìn thế giới này đúng như
bản chất của nó.
8/ Thành vọng tưởng
Kinh nói: “Tưởng ngã và sở tạo thành luận quyết định, ấy gọi là
Thành vọng tưởng”. Là muốn nói đến những luận cứ hay học thuyết
mang tính quyết định. Ngã là chỉ cho năng tạo. Sở tạo là chỉ cho
các học thuyết mang tính quyết định ấy. Đã nói ngã thì luận thuyết
ấy thường mang tính chủ quan. Từ cái chủ quan ấy mà tạo ra các học
thuyết thì học thuyết ấy không tránh được sai lầm, nên nói “vọng
tưởng”. Như Newton, từng cho rằng không gian là một thực thể độc lập,
thời gian cũng là một thực thể độc lập. Nhưng hiện nay, với cái
nhìn của Einstein, nó không như vậy nữa.
Kinh luận của Phật giáo không
mang tính quyết định mà mang tính tùy duyên. Chỉ là ứng cơ mà hiện,
như gặp bệnh cho thuốc. Bệnh hết thuốc cũng bỏ. Bệnh này thì thuốc
này. Bệnh kia thì thuốc kia. Vì bệnh của chúng sinh vô biên nên kinh
luận trở thành vô số. Đều do ứng cơ mà lập. Lập là tùy duyên, không
mang tính quyết định. Cho nên trong kinh Lăng-già,
Phật nói: “Tất cả pháp chẳng sinh.
Bồ-tát chẳng nên lập tông ấy”. Tất cả pháp chẳng sinh là việc
mà ba đời Như Lai đều nói đến, nhưng Phật không cho lập tông. Vì đó
là lời nói ứng cho kẻ bất giác, không phải ứng cho kẻ giác. Chỉ vì
muốn chúng sinh lìa các chấp trước nên nói tất cả pháp không sinh.
Nếu lập tông chẳng sinh thì sẽ vọng thấy tướng sinh v.v….
Một học thuyết, dù có giá
trị phục vụ nhân sinh trong hiện tại, cũng chỉ là pháp tùy duyên. Vì
bản chất các pháp ở thế giới này là vậy. Tùy duyên, nên nó có thể
mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc này mà chưa hẳn đã mang lại
lợi ích cho nhân sinh vào lúc khác. Hiểu được tính duyên khởi này
của pháp thì chúng ta sẽ không có tư tưởng cố định trong việc dùng
pháp. Nhưng dù là quyết định hay không quyết định thì bản chất của các
luận thuyết đều là hư vọng. Phật pháp nếu chấp trước còn được gọi
là Sở thuyết sự vọng tưởng, huống là các học thuyết ở đời mà đôi
khi chỉ mang tính giả thuyết.
9/ Sinh vọng tưởng
Đây là chỗ chấp của ngoại
đạo. Cho là tất cả pháp, có hay không đều là duyên sinh, nhưng duyên
có thì hiện, duyên không thì không, không có nhân quả. Cái chấp này
là một loại vọng tưởng, vì nó trái với lý thật chi phối thế giới
này. Do chấp vào tướng sinh của các pháp mà hình thành, nên nói Sinh
vọng tưởng.
10/ Bất sinh vọng tưởng
Hàng ngoại đạo này cho rằng “Tất cả tánh vốn không sinh, không có
chủng tử nhân duyên, thể sinh là vô nhân”. Ngài Hàm Thị giải thích
như vầy: “Tất cả pháp không có nhân
sinh, không do duyên khởi, như cò nhất định trắng, quạ nhất định đen,
bỗng nhiên mà hiện, không có tánh sinh”. Tức cho pháp nào có tánh
nhất định của pháp đó, không có sự thay đổi, không do nhân duyên mà
thành. Cái nhìn này, đối với thời đại bây giờ, không phải là cái nhìn
chính xác. Bởi thời này, không giải quyết nào không đặt nền tảng
trên nhân và duyên. Thứ gì cũng có khả năng thay đổi được. Ngành công
nghệ sinh học hiện nay, không chỉ thay đổi duyên để quả được sai khác,
mà còn có thể tác động trực tiếp vào nhân để thay đổi quả theo
chiều hướng mong muốn của họ.
Luận sâu hơn, nếu không có
chủng tử nhân duyên thì do đâu từ cái “vốn không sinh” đó lại có thể
sinh ra vô vàn thế giới như hiện nay? Nếu không có nhân duyên thì dựa
vào đâu để giải thích sự sai biệt ở loài người cho đến muôn vật trong
thế giới này? Và nếu không có sự thay đổi thì phàm phu không thể
thành thánh nhân, từ chỗ sinh khởi như hiện nay không thể một lần trở
về chỗ “vốn không sinh” để rồi chấp trước vào đó, mà lập thành
loại vọng tưởng bất sinh này. Cho nên, sinh hay không sinh là cái thấy
tùy duyên, không thể lập tông. Thấy thì không lỗi mà lỗi ở chỗ lập
tông. Lập tông thì tướng tùy duyên không thật liền thành chân thật.
Nhưng chỗ chân thật thì không thuộc sinh cũng không thuộc bất sinh, lìa
tứ cú, tuyệt bách phi.
11/
Tương tục vọng tưởng
Kinh nói: “Tương tục vọng tưởng là kia đồng tương tục, như kim với chỉ,
ấy gọi là tương tục vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Tất cả pháp do hòa hợp mà thành. Như
không và sắc, như bình và đất với nước. Bởi lệ thuộc bởi nhau mà
thành tất cả pháp”. Là nói đến tính duyên khởi của pháp. Do
duyên khởi mà có tương tục. Đây là cái nhìn không trái với chân lý.
Nhưng nếu chấp vào đó cho là chân lý thì Phật gọi là Tương tục vọng
tưởng, là loại vọng tưởng được hình thành do chấp vào mặt tương tục
của pháp mà ra. Cái tương tục ấy, chỉ là mặt hiện tượng của một
tánh thể không. Chính vì thể ấy không, mới cho phép các pháp theo
duyên mà hiển tướng tương tục.
12/
Buộc không buộc vọng tưởng
Kinh nói: “Chấp trước nhân duyên buộc cùng không buộc như sĩ phu dùng
phương tiện hoặc buộc hoặc mở, ấy gọi là buộc không buộc vọng
tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Có
năng buộc thì có sở buộc. Buộc hay mở là do ta. Sức chấp phương tiện
mà sinh phân biệt”. Phương tiện lập nên là tùy căn cơ chúng sinh.
Có buộc thì mới có giải. Không buộc thì cũng không giải. Tức phương
tiện không có chất thật, chỉ tùy duyên mà hiển, hết duyên liền không.
Trong việc tu hành, có hành
giả cần đến phương tiện mà có hành giả không cần đến phương tiện.
Không cần mà dùng thì liền thành trói buộc. Như Trúc Lâm Đại Đầu Đà
hỏi Tuệ Trung thượng sĩ về việc nhẫn nhục và giữ giới. Tuệ Trung
thượng sĩ trả lời: “Giữ giới cùng
nhẫn nhục, chiêu tội chẳng chiêu phước…”. Không phải ai tu hành
cũng đều phải nhẫn nhục và giữ giới. Với người tham sân còn nhiều
thì cần phương tiện nhẫn nhục và giữ giới. Nhưng với người mà nhẫn
nhục và giữ giới đã thuần, tham sân không cần đối trị nữa, mà cứ
duy trì hai pháp đó thì như đi thuyền, muốn lên bờ mà vác thuyền theo,
không thể nào lên bờ. Tâm chân thật vô trụ, còn trụ pháp nào thì còn
tự buộc mình vào pháp ấy, không thể nhập chỗ vô trụ được. Cho nên
đối với phương tiện mà chấp thì Phật gọi là Buộc không buộc vọng
tưởng.
Kết
luận
Trên đây là 12 loại vọng tưởng
được nói trong kinh Lăng-già. Người
vô trí không biết nên theo đó mà chấp trước. Kẻ có trí thì hiểu đó
mà trừ đoạn. Kinh nói: “Người giác
tự tâm hiện chẳng nên ở đó mà khởi tưởng có, không, khác, chẳng
khác…”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Mê
duyên khởi thì thành Biến kế. Đạt Duyên khởi tức là Viên thành”.
Cùng là Y tha khởi, chỉ do mê và ngộ mà thành khác đường. Mê thì
thành Biến kế. Ngộ thì hay Viên thành.