Cuộc đời Đức Phật trong bích họa chùa Khmer Nam Bộ
cuoc doi
CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT TRONG BÍCH HỌA
CHÙA KHMER NAM BỘ
Cuộc
đời Đức Phật là đề tài chủ đạo
trong mỹ thuật Phật giáo Nam truyền từ các phù điêu, tượng thờ, tượng tròn ngoại
cảnh đến các loại tranh vẽ và bích họa. Do chủ tâm vào Đức Phật lịch sử (mà
không lưu tâm đến các đối tượng khác như Phật giáo Bắc truyền: chư Bồ-tát, La-hán…)
nên mỹ thuật Phật giáo Nam truyền Đông Nam Á tập trung khai thác toàn bộ các kỳ
tích trong tiểu sử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Bài viết này chỉ đề cập trong phạm
vi các chùa Phật giáo Nam tông ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm các chùa
Khmer ở An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Rạch Giá...
I.
Những văn liệu tham khảo
Cuộc đời của Đức Phật lịch sử, Siddhartha Gotama hay
Sakyamuni (sinh 563-483 hay 566-486 tr. TL), được kể theo các dị bản phổ biến ở
các nước Đông Nam Á, mặc dù sau khi Đức Phật nhập diệt nhiều thế kỷ vẫn không
thấy được ghi chép dưới hình thức văn bản thành văn. Các bản văn liên quan đến Cuộc đời của Đức Phật chứa đựng nhiều sự
kiện kỳ diệu và những câu chuyện mâu thuẫn, phần lớn có khả năng là được thêm
vào sau này, do đó, việc tái tạo một cách hợp lý về tiểu sử của Đức Phật có những
khó khăn.
Các văn bản phổ biến nhất liên quan đến Cuộc đời của Đức Phật là Buddhacarita (Phật sở hành tán kinh) và
ngắn hơn là Lalitavistara (Phương quảng đại
trang nghiêm kinh, Thần thông du hý kinh). Dị bản của Buddhacarita chỉ thuật lại các sự kiện từ khi Đức Phật ra đời cho đến
khi Ngài giác ngộ, những sự kiện tiếp theo của cuộc đời Ngài được thêm vào sau
đó, và Lalitavistara chỉ nói sự kiện Đức
Phật chuyển pháp luân: bài thuyết phát đầu tiên, Bài thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển. Những văn bản đó, và các nguồn dữ
liệu được thêm vào liệt kê bên dưới, chúng tóm tắt sơ lược các sự kiện chính yếu
về Cuộc đời của Đức Phật:
Buddhacarita: “Những việc làm của Đức Phật”, “tiểu sử” của Đức Phật
theo phong cách sử thi Phạn ngữ do Asvaghosa biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ II
TL. 14 khổ đầu còn lại từ nguyên bản tiếng Phạn, trong khi 14 đoạn cuối bắt nguồn
từ những bản dịch của Tây Tạng và Trung Hoa, có lẽ được thêm vào hồi thế kỷ XIX,
chuyện kể mở rộng đến sự kiện trở về Lumbini của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ
và kết thúc với Phật nhập Niết-bàn và
Sự phân chia các xá-lợi của Ngài. Lalitavistara: Một bản văn Phật giáo,
khoảng thế kỷ thứ II TL, có giá trị cao trong Phật giáo Đại thừa. Lalitavistara cho chúng ta một ghi chép
bằng văn vần về Cuộc đời Đức Phật buổi
đầu chỉ đến việc bắt đầu thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển tại Varanasi. Văn bản này
có lẽ dựa trên một văn bản Pali của phái Hữu bộ (Sarvastivadin) rồi sau đó mở rộng
thành 27 chương trong hình thức thơ ca và văn xuôi Phạn ngữ ngày nay.
Kinh
tạng (sutra-pitaka),
tạng Luật (Vinaya Pitaka), Mangalayayana là các văn bản cổ điển về Cuộc đời của Đức Phật.
Sangityavamsa
(Biên niên sử Tăng già): Soạn bởi
Vimala-dhamma và viết bằng tiếng Pali tại Thái Lan năm 1789. Văn bản này sử dụng
các sự kiện sau khi Đức Phật giác ngộ và những kết quả chuyển biến từ những bài
thuyết pháp của Đức Phật.
Các sự kiện và những câu chuyện từ Cuộc đời của Đức Phật được chọn lựa kỹ để
thể hiện trên các công trình kiến trúc. Các câu chuyện liên quan đến những năm
đầu của Ngài, các chi tiết nòng cốt của Bốn
luận giải, Bài thuyết pháp đầu tiên
và những cảnh khác về lời dạy của Ngài, và kỳ tích giáng hạ từ cõi trời
Tavatimsa. Những cảnh này trở nên phổ biến trong miêu tả trên các bích họa giai
đoạn sau này.
II.
Bích họa về Cuộc đời của Đức Phật
Ở đây, chỉ tóm tắt sơ lược các sự kiện chính trong cuộc
đời của Đức Phật lịch sử, với những cảnh nổi bật đặc biệt xuất hiện trong hội họa
của cộng đồng người Khmer Nam Bộ. Để có những hiểu biết tốt hơn về các bích họa
miêu tả Cuộc đời của Đức Phật, có một
vài sự kiện không tiêu biểu được thêm vào để cho việc hiểu biết mạch truyện dễ
dàng hơn.
1. Các vị thần hội họp để quyết định việc Đức Phật
giáng trần
Tất cả các Bồ-tát đều được tái sinh vào cõi trời
Tusita vào kiếp cuối cùng của họ. Khi thời điểm Đức Phật xuất hiện trên cõi đất,
chư thiên của cõi trời Tusita cùng nhau khẩn cầu một vị Bồ-tát tái sinh vào kiếp
cuối cùng của mình trong loài người. Ngài tự mình chuẩn bị tái sinh lần cuối
cùng, và trong suốt quãng thời gian tồn tại này, Ngài sẽ trải qua sự giác ngộ
hay hoàn thiện nhận thức. Ngài định đoạt từ thời điểm thuận lợi nhất, nơi chốn
ra đời, dòng dõi, và thậm chí cả người mẹ sẽ sinh ra Ngài. Vào kiếp cuối cùng của
cuộc đời là Vessantara, Bồ-tát được tái sinh vào cõi trời Tusita, cho đến khi
các vị thần của 10 nghìn thế giới tụ họp lại và cùng nhau cầu xin Ngài trở
thành Đức Phật Gautama. Ngài chọn dòng dõi đức độ dẫn dắt bởi những người Sakya,
một thị tộc chiến binh và cha mẹ Ngài, vua Suddhodana và người vợ cả của vua,
hoàng hậu Maya. Xác lập các chọn lựa của mình, Bồ-tát trình bày những nguyên lý
của Pháp cho các vị thiên ở cõi Tusita, và giới thiệu họ với Bồ-tát Di Lặc (Maitreya),
vị Phật của tương lai. Sau khi tường minh mọi vấn đề, Ngài rời cõi trời Tusita
tái sinh vào cõi người.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh này đôi khi được thể hiện chen lẫn với các ô
tranh bích họa trên các bức vách và trên trần chánh điện. Bích họa thể hiện Bồ-tát
trong trang phục hoàng gia, ngồi trên ngai với chư thiên quỳ gối, chấp tay thỉnh
cầu ngồi xung quanh với nền là cảnh mây trời xanh ngắt hoặc ẩn hiện, lẩn khuất
trong mây là những dãy tòa tháp, cung điện cõi trời. Trong thể hiện nội dung
này, Bồ-tát sẽ được thể hiện chính diện ở trung tâm bức tranh thấy phổ biến hơn
là dời về một phía với thể hiện nhìn nghiêng. Bồ-tát với thế ngồi để hai chân
xuống, hoặc khoanh một chân lên hay ngồi xếp bằng trên đài bệ.
2. Câu chuyện Sumedha
Chuyện kể rằng vô số kiếp về trước, Bồ-tát, người cuối
cùng trở thành Phật, là một cậu bé Bà-la-môn tên Sumedha ở thành phố Amaravati.
Khi còn trẻ, chàng đã ban tặng mọi của cải của mình và hiến dâng chính mình cho
cuộc sống thánh thiện. Thời gian trôi qua, khi trở thành một người đàn ông, chàng
đã vươn tới sự hoàn thiện trong mọi lĩnh vực của kiến thức. Một ngày, khi phi
hành trên không, chàng thấy một con đường được dọn dẹp sạch sẽ để đón Đức Phật
Dipankara (Nhiên Đăng Phật) đến Amaravati từ tu viện Sudassana. Sumedha tham
gia vào công việc dọn dẹp con đường này. Đức Phật Dipankara đến trước khi họ hoàn thành việc dọn dẹp, vì vậy
mà Sumedha, lấy thân mình làm cái cầu và trải quần áo của mình là miếng da linh
dương đen trên bùn, nằm rạp xuống và nói: “Thầy và các môn đồ xin đừng bước lên
bùn mà hãy bước lên tôi”. Khi Đức Phật Dipankara nhìn thấy điều này, Ngài đã thọ
ký rằng, sau một nghìn niên kỷ, người đàn ông này sẽ trở thành Phật. Sumedha
cũng nhận lấy lời thọ ký tương tự từ 23 vị Phật khác.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trên các bích họa, Sumedha thường được miêu tả như một
ẩn sĩ, với búi tóc, mặc phục trang da cọp; nằm trên vũng sình hay một lạch nước
đầu ngước lên, chấp tay tôn kính trước Đức Phật và các chư Tăng. Tuy nhiên, tại
một số chùa khác lại thể hiện ông mặc áo quần màu trắng của một tu sĩ hoặc một
thường dân. Đôi khi cũng thấy thể hiện ông nằm trên một tấm khăn. Có nghệ nhân
cũng thể hiện Đức Phật đặt một chân lên người ông như sắp bước lên nhưng không
phổ biến.
3. Giấc mơ của Maya
Cha và mẹ của Đức Phật là vua Suddhodana và hoàng hậu
Maya. Suddhodana là người cai trị những chiến binh bộ tộc Sakya của thị tộc
Gautama. Họ sống ở Kapilavastu, Nepal ngày nay, và cầu mong có một đứa con. Một
đêm, hoàng hậu Maya mơ thấy một con voi trắng đi vào bên sườn của bà. Hôm sau,
64 người Bà-la-môn cam đoan với nhà vua và hoàng hậu rằng bà đã thụ thai một
người con trai, người sẽ trở thành một Chuyển Luân vương (Cakravartin), hay một
vị Phật.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Đây là một đề tài rất phổ biến được vẽ trong các chánh
điện (vihara). Bích họa phổ biến thể hiện giấc mơ diễn ra trong một căn phòng rộng
lớn với một chiếc giường theo phong cách phương Tây. Trong một ô tranh, hoàng hậu
Maya đắm trong giấc mơ về con voi trắng đang đi tới hay con voi trắng nhỏ vần
vũ trong mây bên trên ngoài khung cửa sổ sát cạnh bên chiếc giường hoàng hậu
đang ngủ; với các người hầu, kẻ đứng người ngồi, kẻ cầm quạt/lọng, người cầm đuốc
vây quanh hoàng hậu. Hiếm hoi thấy thể hiện con voi trắng quỳ gối bên dưới giường
của hoàng hậu. Có nghệ nhân còn thể hiện chư thiên nâng bốn chiếc chân giường
mà hoàng hậu đang ngủ. Đôi khi, đề tài này được thể hiện trong bối cảnh của một
khu vườn hay bên hành lang cung điện nhưng thấy ít phổ biến.
4. Sự ra đời của hoàng tử Siddharta và bảy bước chân
Sự thụ thai kỳ diệu kéo dài mười tháng, hoàng hậu trên
đường về đến khu vườn Lumbini và được nhà vua hộ tống. Khi chuyển dạ, hoàng hậu
đã đứng níu lấy một nhánh cây khiến nó cong quằn xuống. Đứa trẻ đã xuất ra từ
sườn phải của hoàng hậu mà không một chút đau đớn hay tổn thương. Ngài không bước
vào thế giới theo lối thông thường mà như đi xuống từ cõi trời. Hơn nữa, từ khi
Ngài thực hành thiền định trong một thời gian dài trong tiền kiếp, Ngài được
sinh ra với đầy đủ năng lực của các giác quan. Ngài tỏa sáng rực rỡ như ánh mặt
trời tỏa sáng xuống mặt đất, với những quầng sáng giống như vàng chiếu sáng tất
thảy mọi không gian xung quanh Ngài. Ngay lập tức, Ngài bước bảy bước, một cách
vững chắc và với những bước dài. Quan sát bốn hướng, và giơ tay phải, Ngài
tuyên bố đây là lần tái sinh cuối cùng vì Ngài đã là bậc giác ngộ.
Đứa trẻ tên là Siddharta. Ngài được mang về
Kapilavastu, và hoàng hậu ngập tràn niềm hân hoan khi cảm nhận những biểu hiện
oai nghi nơi đứa con của mình. Hoàng hâu qua đời bảy ngày sau khi hạ sinh thái
tử; sau đó bà sanh về cõi trời Tavatimsa và ngụ ở đây. Người em hoàng hậu, người
sau này trở thành vị nữ tu sĩ đầu tiên, đã nuôi nấng đứa bé như con ruột của
mình.
Trong một bối cảnh hình tượng, thật thú vị khi thấy rằng
việc đản sinh dưới một cội cây; sự giác ngộ diễn ra dưới cội bồ-đề; bài thuyết
phát đầu tiên cũng diễn ra dưới những cội cây; và cuối cùng mất đi, Mahaparinirvana, cũng diễn ra giữa hai cội
cây.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh về đề tài này thấy phổ biến trong nhiều chánh điện
(vihara). Trong các bích họa, một cách đặc trưng, việc mô tả “cổ điển” về sự ra
đời được kết hợp với bảy bước đi của sen nở của thái tử Siddhartha trong tư thế
đứng với một tay chỉ lên trời ở trung tâm bức họa. Ở bên phải là hoàng hậu Maya
thường được thể hiện vươn tay lên nắm lấy một cành cây cùng các nữ tỳ đứng quây
màn để tránh cho hoàng hậu khỏi cái nhìn vô ý khi bà sắp sửa sinh. Những tỳ nữ
này đôi khi còn được thể hiện cầm lọng hay quỳ gối chắp tay hướng về phía thái
tử. Bên trái là chư tiên đảnh lễ/tấu nhạc cùng thần Brahma đưa hai tay như đón
lấy thái tử hoặc cầm khăn hay ấm nước rót tắm cho thái tử. Đề tài này thường thể
hiện trong khung cảnh một khu vườn hay ven đường.
5. Lời tiên tri của Asita
Nhà tiên tri lỗi lạc Asita đến viếng thăm thái tử mới
sinh. Trong sự kinh ngạc, ông nhận xét rằng đứa trẻ có những dấu hiệu siêu phàm
trên thân thể. Ví dụ, bàn chân hằn in dấu hình bánh xe, ngón tay và chân có
màng, giữa lông mày có một xoắn tròn mềm mại. Tràn đầy xúc động, nhà hiền triết
tiên đoán rằng hoàng tử sẽ không quan tâm đến những vấn đề thế tục, chàng sẽ từ
bỏ vương quốc và nỗ lực đạt đến sự giác ngộ. Do đó, chàng sẽ rời bỏ những vọng
tưởng tối tăm của thế giới này, để tìm ra con đường chấm dứt luân hồi sinh tử
và giải thoát.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trong hầu hết các miêu tả, nhà tiên tri Asita, phổ biến
thể hiện là một ông lão râu tóc bạc phơ mặc da hổ hay phục trang Bà-la-môn trắng
hoặc ít thấy hơn là phục trang thường dân, được thể hiện ngồi trên ghế với một
bên là những nhà tiên tri khác, một bên là các triều thần, vua cha và hoàng hậu,
còn đứa bé thái tử Siddhartha thì đứng trên đầu ngài Asita.
Đôi khi, vị thái tử trẻ tuổi được thể hiện được hoàng
hậu ẵm bồng còn vua cha thì đứng sát bên hoặc cùng ngồi trên ngai trước mặt các
nhà tiên tri. Ngoài ra còn thấy thể hiện thái tử nằm trong nôi trước vua cha và
các nhà tiên tri. Ở cách thể hiện bên dưới này thì nhà tiên tri Asita thường thấy
là một chàng trai trẻ nhất trong số các nhà tiên tri.
Đôi khi ở các chùa Khmer hai cách thể hiện này được vẽ
đồng thời trên hai ô tranh liên tiếp nhau.
6. Lễ tịch điền và Siddhartha thiền định dưới cây
Jambu
Mỗi năm tại Kapilavastu có một lễ nghi nông nghiệp được
gọi là lễ tịch điền hoàng gia được cử hành. Nhà vua cày ruộng bằng chiếc cày bằng
vàng tuyệt đẹp, trong khi các cận thần cày theo sau với những chiếc cày được
trang trí bằng bạc. Còn đằng sau họ là những người nông dân cùng nhau cày bừa.
Qua việc này đất cứng được cày xới lên và chuẩn bị sẵn cho việc gieo hạt.
Trong suốt lễ tịch điền hoàng gia, Siddhartha trẻ tuổi
không ở gần vua cha và các thành viên của triều đình mà để ở đằng sau, và khi đến
ngồi dưới cây Jambu, tại đây chàng đã thiền định, một dấu hiệu rõ ràng cho thấy
đứa trẻ sẽ trở thành Phật. Có năm ẩn sĩ, khi dùng phép du hành trên không, đã vô
cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy thái tử và họ bèn đến đảnh lễ chàng. Cha mẹ và
triều thần vô cùng lo lắng khi không thấy Siddhartha, nhưng cuối cùng một quan
thượng thư đã tìm thấy chàng bên dưới cây jambu, và để ý rằng khi mặt trời di
chuyển, bóng cây vẫn không thay đổi để che mát cho thái tử trong lúc thiền định.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh thái tử Siddhartha thiền định dưới gốc cây jambu
(một loại cây gioi) thường được thể hiện kết hợp với lễ tịch điền hoàng gia.
Trong nhiều bích họa, Siddhartha trẻ tuổi thiền định ở trên những tán lá cây
hay thái tử bay lên cao trong không trung bên dưới là đôi trâu cày đóng ách và
vua cha, hoàng hậu cùng các triều thần vô cùng sửng sốt quỳ gối chấp tay hướng
về thái tử. Cảnh này được thể hiện trong không gian của đám ruộng cày, hay nơi
lối đi với cây cỏ. Nội dung này có khi thể hiện thái tử thiền định trong nhà rạp
với hoạt cảnh tương tự như trên.
7. Cuộc thi bắn cung
Suddhodana mong muốn con trai ông học tập về nghệ thuật
quân sự để trở thành một chiến binh và chỉ huy quân đội khi trở thành vị vua
tương lai. Chàng trai xuất chúng trong bắn cung, thường đánh bại người anh em họ
Devadatta trong các cuộc thi. Sau đó, thái tử cũng chứng minh các kỹ năng như
cưỡi ngựa trước vua cha.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Thi tài bắn cung cũng thường được thể hiện trên các
bích họa, ở đó vị thái tử trẻ tuổi Siddhartha đứng trên bục cao, một tay cầm
cánh cung giơ lên cao, dáng diệu như múa. Ngoài ra còn có miêu tả thái tử đứng
giương cánh cung bắn đi mũi tên hoặc khụy gối giương cây cung. Vây quanh là vua
cha và hoàng hậu, cùng các triều thần ngước nhìn, chấp tay đầy thán phục.
8. Nhà vua Suddhodana quyết định xây dựng một cung điện
cho thái tử
Nhà vua Suddhodana biết rằng con trai ông cuối cùng sẽ
rời bỏ ông để tìm kiếm chân lý tối thượng, ông quyết định xây cho chàng một
cung điện lộng lẫy với những khu vườn tuyệt diệu, vì vậy ông đã thỉnh cầu các
kiến trúc sư lừng danh lên các kế hoạch và những bản vẽ.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh này hiếm khi được miêu tả trên các bích họa của chánh
điện (vihara) hay ở sala. Tranh thường thể hiện vua cha đang xem xét một bản vẽ
với các chọn lựa về việc xây dựng cung điện tương lai, tất cả đều lấy cảm hứng
từ kiến trúc Angkor Wat.
9. Cuộc thi sắc đẹp; chọn vợ; kết hôn và cuộc sống của
một thái tử
Từ đó nhà vua luôn lưu tâm về lời tiên tri của Asita. Ông
hạ lệnh không để con trai phải nhìn thấy bất cứ điều gì gây sửng sốt hay lo lắng/buồn
phiền. Vì vậy nhà vua sắp đặt để chàng sống trong một cung điện và không cho đi
ra ngoài. Khi thái tử được 16 tuổi, vua cha thỉnh cầu các bộ tộc láng giềng gửi
những người con gái xinh đẹp của đất nước họ đến để chàng chọn vợ. Các cô gái
xinh đẹp nhất đến từ nhiều đất nước được yêu cầu đi qua trước thái tử. Vua cha
cuối cùng chọn Yasodhara, người con gái của vị vua Suppabuddha. Thái tử cũng đồng
tình chấp thuận với niềm vui thích. Siddhartha trải qua một thời gian sống
trong cung điện mới lộng lẫy, nguy nga, giống như nơi ở của các vị thần và rực
rỡ như ngọn núi Krailas. Triều đình đầy các nhạc công, vũ công và thái tử chìm
đắm trong khoái lạc nhục dục. Điều đó được coi như là yếu tố cần thiết để thái
tử, giống các vị Phật tiền kiếp, trước tiên cần nếm trải những cảm giác khoái lạc
trước khi đạt đến sự giác ngộ. Trong thời gian này, Yasodhara sinh một người
con trai cho Siddhartha đặt tên là Rahula.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Sự kiện này không phổ biến trên các bích họa, chỉ có một
vài thể hiện, ở đó thái tử Siddhartha ngồi trên ngai hay giường quan sát những
cô gái đẹp đi trước mặt. Cảnh đám cưới thấy phổ biến hơn, thông thường miêu tả
một cặp vợ chồng đi xuống từ cầu thang. Đôi khi cũng thấy thể hiện cảnh vua cha
ngồi trên ngai trao chiếc gương báu nhằm truyền ngôi cho vợ chồng thái tử cùng
quỳ chấp tay dưới đất trước sự chứng kiến của các triều thần.
10. Bốn cuộc chạm trán bất ngờ
Vua cha Siddhartha xếp đặt một chuyến tham quan quanh
thành phố cho người con trai. Ông có kế hoạch chỉ bố trí những người dân với niềm
hân hoan và các phụ nữ vui vẻ, xinh đẹp sẽ xuất hiện dọc theo nơi chốn mà thái
tử đi ngang qua và ngăn cấm sự hiện diện của bất cứ người dân nào mang tâm trạng
ưu phiền, già cả hay ngay cả một người ăn
xin. Trên cỗ xe ngựa bằng vàng, thái tử đi ngang qua một đám đông vui vẻ, một
người phụ nữ khêu gợi và dân chúng kính cẩn. Khắp thành phố đều tràn ngập niềm
vui sướng bất tận. Nhưng các vị thần đã biến hóa ra một người đàn ông lớn tuổi
mang những dấu hiệu của tuổi già lom khom làm thái tử bối rối và khẩn cầu người
đánh xe ngựa quay trở về cung điện. Vào lần chuyến du ngoạn tiếp theo, các vị
thần tạo ra một người đàn ông với một thể xác đau đớn vì bệnh tật, có cái bụng
căng phình và thở hổn hển một cách nặng nhọc, tiều tụy, nhợt nhạt, phải chống đỡ
dựa vào một người đàn ông khác. Quá lo lắng, thái tử một lần nữa yêu cầu người
đánh xe ngựa quay trở về. Lần du ngoạn khác được sắp xếp bởi vua cha với dọc
theo những con đường được trang trí hoa lá; tuy nhiên, các vị thần tạo nên một
xác chết được bốn người đàn ông khiêng đi, mà chỉ mỗi thái tử và người đánh xe
ngựa nhìn thấy. Đau khổ bởi nhận biết rằng mọi sinh vật cuối cùng sẽ chết, thái
tử yêu cầu người đánh xe ngựa trở về, nhưng ông ta không phục tùng mà đưa thái
tử đến một khu rừng nhỏ Padmasanda, nó được dựng lên với những sự hấp dẫn đặc
biệt. Tại khu vườn, Siddhartha được chào đón bởi những phụ nữ, nhìn chàng đầy
khiêu khích, chạm vào chàng, “với bầu ngực tròn đầy, quyến rũ”, trong khi các
phụ nữ khác ôm siết lấy chàng và thầm thì những lời nói gợi tình, nhảy múa và
ca hát với âm điệu lúc trầm lúc bổng. Siddhartha nhận ra rằng tất cả mọi cảm
giác vui sướng đều phù phiếm và phù du, khước từ những người phụ nữ này. Chàng
thấy rằng tuổi già, bệnh tật và cái chết hủy hoại những ký ức, sắc đẹp và sức mạnh
của mỗi con người. Chàng ra lệnh cho người đánh xe ngựa trở lại cung điện ngay
tức thì.
Trong các văn bản khác, nó được kể rằng trong suốt hơn
bốn chuyến du hành, như là sự xúi giục từ các vị thần để từ bỏ thế tục trước khi
lên ngôi, Siddhartha gặp một vị tu sĩ, và do đó hiểu rằng chỉ có thể giải thoát
mọi khổ đau bằng niềm tin vào tôn giáo.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trên các bích họa, Bốn
cuộc chạm trán bất ngờ được vẽ chung trên một ô, như thể tất cả chúng đều xảy
ra đồng thời trong một cuộc du hành, hơn là bốn sự kiện riêng rẽ. Cảnh thể hiện
thái tử ngồi trên một cỗ xe ngựa cầu kỳ có cái nhìn tâm linh ảo diệu về bốn cuộc
chạm trán chúng được thể hiện trong những đám mây, trong kiểu của một chuỗi khối
truyện tranh là phổ biến. Đôi khi ở cận cảnh bên dưới cỗ xe ngựa của thái tử là
thây người chết: lòng ruột lòi ra với con quạ đen đang rỉa bên trên. Ngoài ra
cũng có thể hiện Bốn cuộc chạm trán bất
ngờ như xảy ra liên tiếp trên một con đường. Đó là bốn sự kiện tượng trưng
cho lão (một người già chống gậy), bệnh (người đàn ông ngồi ôm ngực mệt mỏi hay
người nữ quấn khăn hoặc nằm trên gường bệnh), tử (thây người với chim quạ đang rỉa
xác với lòng ruột lòi ra ngoài cùng những bộ xương và đầu lâu người hay thây
người hỏa thiêu trên giàn lửa) và cuộc sống giải thoát (hình ảnh vị tu sĩ tĩnh
tại thiền định hoặc bộ hành).
11. Cự tuyệt phụ nữ; từ biệt vợ con
Trước Cuộc ra đi
vĩ đại, thái tử Siddhartha đến trước mặt vua cha cầu xin sự cho phép rời bỏ
cuộc sống hoàng gia để trở thành một tu sĩ hành khất nhằm tìm kiếm sự giải
thoát. Vua cha cự tuyệt không chấp thuận. Ông nói với các triều thần rằng “con
trai ta sẽ không đi đâu hết”. Thái tử trở về phòng với nồng nặc mùi hương trầm
và thân thể lõa lồ của những người phụ nữ nơi hậu cung nằm ngủ trong các tư thế
khiếm nhã bởi cơn mê do chư thiên làm phép. Trong sự chán chường và ghê tởm,
Siddhartha nhận ra rằng chàng nên ra đi vào chính đêm hôm nay. Chàng ghé qua
nhìn vợ và con, nhưng không đánh thức họ, để nói lời tạm biệt, vì chàng sợ điều
đó sẽ cản ngăn sự ra đi của mình.
Thú vị thay, Buddhacarita
miêu tả, ở một vài chi tiết, tư thế hình thể của các thiếu nữ và ngực, nách,
đùi của họ được thể hiện trong một vài bích họa. Trong Buddhacarita và Lalitavistara,
không đề cập thái tử Siddhartha nói lời từ biệt vợ con, không hề có sự xuất hiện
của Ma vương Mara nỗ lực ngăn cản thái tử rời bỏ cung điện để ra đi tìm kiếm sự
giác ngộ.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Bích họa về sự kiện này phổ biến thể hiện thái tử vén
màn nhìn vào vợ con đang ngủ yên trên giường. Hay còn miêu tả phía sau giường
nơi cánh cửa hay cửa sổ thấp thoáng hình ảnh Channa đang giữ ngựa đứng chờ nơi
cổng tường thành. Đôi khi các nghệ nhân còn thêm thắt nơi thềm nhà, bên dưới
giường vợ con thái tử ngủ là những người hầu nằm ngả nghiêng trong các tư thế
lõa lồ, kiệm vải. Điều này mang đến cho các nghệ nhân cơ hội miêu tả sự gợi cảm
của người phụ nữ, mặc dù đôi khi dường như có một chút quá đà.
12. Cuộc ra đi vĩ đại
Các vị thần, hiểu ý định của thái tử, đã tạo nên những
cơn gió thổi khiến cánh cửa cung điện hé mở. Siddhartha gọi Channa, người giữ
ngựa, đi lấy con ngựa Kanthaka, sẵn sàng để ra đi. Các vị thần nâng móng ngựa ở
trên cao để không tạo ra bất kỳ tiếng động nào. Họ bay xuyên qua bầu trời đêm tối
cho đến khi bình minh ló dạng.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh này, cùng với các chi tiết như cắt tóc là rất phổ biến. Cảnh này thể hiện
thái tử cưỡi bạch mã phi nước đại trên không trung mây trời, với trăng sáng vằng
vặc bên trên và bên dưới là mặt nước trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm tối.
Đôi khi thể hiện Channa ngồi sau cùng cưỡi ngựa với thái tử hoặc nắm đuôi ngựa
đu theo. Một miêu tả khác cũng rất thông thường thể hiện hình ảnh Mara dữ tợn cố
gắng ngăn chặn thái tử đi theo con đường trở thành Phật.
13. Cắt tóc và từ biệt Channa
Bước xuống từ con ngựa Kanthaka, thái tử Siddhartha
nói với Channa: “Nhiệm vụ của ngươi đã hoàn thành rồi”. Rồi lấy thanh gươm từ
tay Channa, rút nó ra khỏi bao và với lưỡi kiếm sắc bén cắt đứt mũ niệm đội đầu
cùng tóc. Thật kỳ lạ, tóc thái tử không bao giờ mọc trở lại sau đó.
Những lọn tóc này được thần Indra bắt lấy và cất giữ
trong chiếc tráp nhỏ khảm hoa bằng vàng tại tháp Culamani nơi cõi trời Tavatimsa.
Cùng lúc, một người Bà-la-môn tên là Ghatikara xuất hiện cải trang như một người
thợ săn hươu, mặc chiếc áo màu hoàng thổ để không khiến hươu nai hoảng sợ. Thái
tử Siddhartha thỉnh cầu người thợ săn đổi quần áo của hắn để lấy quần áo hoàng
tộc của mình và di chuyển đến nơi gần đó sống ẩn dật.
Rồi sau đó, thái tử nhắn Channa mang thông điệp trở về
cho vua cha rằng chàng ra đi để tìm kiếm sự giải thoát mà không thôi thương nhớ
đến vua cha. Channa đã cố gắng khuyên ngăn thái tử bằng đủ mọi cách, nhưng Siddhartha
đã nhắc nhở Channa rằng họ dù có trải qua rất nhiều việc nhưng cuối cùng cũng
phải chia lìa bởi cái chết. Kanthaka, con ngựa của thái tử vì quá đau buồn khi
bị bắt đi về đã lăn ra chết vì nuối tiếc và Channa, một mình thổn thức quay trở
lại cung điện.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Chi tiết này rất phổ biến với nhiều biến đổi. Thái tử Siddhartha
cắt tóc bên dưới với chư thiên đảnh lễ bên trên hay thần Indra nâng chiếc tráp
nhỏ bằng vàng trên không trung để cất hoặc quỳ dưới đất hứng những lọn tóc của thái
tử được thể hiện bên trên và cuối cùng Siddhartha nói lời tạm biệt người hộ vệ Channa
và con ngựa Kanthaka, tất cả được vẽ trên hậu cảnh một màu hoàng thổ và những cụm
cây cối. Khi tự cắt tóc, tư thế của Siddhartha khác biệt từ ngồi vắt chéo chân
hay một chân vắt một chân thả hay hiếm hoi thấy thể hiện đứng, và sử dụng một
con dao/dao găm/thanh kiếm trong tay phải, nhưng thỉnh thoảng trong tay trái.
Trong bích họa khác, cử chỉ của Siddhartha cắt tóc được thể hiện đầy quyết tâm,
và có phần mạnh mẽ. Thái tử ngồi cắt tóc trên một tảng đá, còn người hộ vệ
Channa quỳ gối trước Thái tử, tay nâng mũ niệm cùng con ngựa bên cạnh.
Sự miêu tả cảnh tạm biệt người hộ vệ và con ngựa nhìn
chung thấm đẫm nỗi buồn; ở nhiều nơi khác, với con ngựa nằm hấp hối trên mặt đất
và Channa một tay ôm mặt khóc. Trần của chùa tháp cũng thể hiện cảnh cắt tóc tương tự.
Trong Buddhacarita
và Lalitavistara có nhiều sự kiện
không thường được minh họa trên các bích họa, có lẽ bởi chúng thiếu những hành
động thị giác rõ ràng. Quan trọng nhất đó là: Sự tranh luận gay gắt giữa Channa
và Siddhartha; cảnh buồn bã và than khóc của gia đình hoàng gia và triều thần,
các phái đoàn được gửi đến để thuyết phục thái tử trở về cuộc sống thường dân;
sự thăm viếng của nhà vua Bimbisara xứ Magadha, người tín mộ say mê những lời dạy
của Siddhartha, người sẵn sàng cúng dường cho thái tử một nửa vương quốc của
mình.
14. Tu khổ hạnh trong rừng
Bồ-tát tiếp tục tìm kiếm những phương pháp tu hành như
khổ hạnh và yoga. Ngài viếng thăm nhà hiền triết Alara Kalama, nhưng ngay lập tức
nhận ra rằng Ngài không học được điều gì từ người thầy này, hay từ những nhà hiền
triết khác mà Ngài tìm đến như Udraka Ramaputra và Nagari.
Rồi Ngài đến sống bên bờ sông Nairanjana, và tại đây Ngài
gặp năm người tu khổ hạnh. Họ trợ giúp cho Siddhartha, thậm chí chấp nhận Ngài
như người thủ lĩnh của họ. Họ đến gặp nhà hiền triết Ruddraka, thảo thuận một
vài học thuyết. Thấy Siddhartha dễ dàng hiểu các giáo lý của Ruddraka, năm môn
đồ của Ruddraka quyết định đi theo Siddhartha. Siddhartha xem xét tất cả các
phương pháp khổ hạnh. Rồi Ngài theo phương pháp của mình trong sáu năm, tuân thủ
tuyệt thực một cách khắt khe và gần như chết đói và trở nên gầy còm, yếu đuối.
Sau một thời gian, cơ thể Siddhartha chỉ còn da và xương, mòn mỏi đến kiệt quệ
và đói khát, nhưng Ngài không thể đạt đến sự yên bình thỏa đáng về tâm trí và
cân bằng trong suy nghĩ như yêu cầu của thiền định đích thực. Ngài đã đưa ra kết
luận rằng phương pháp này là không hoàn thiện và quyết định phải ăn uống trở lại.
Trong các văn bản trích dẫn trên, không có liên quan
gì đến truyền thuyết về thần Indra xuống từ cõi trời gảy nhạc cụ ba dây cho
Siddhartha, mặc dù nó được miêu tả trong bích họa, thần Indra biểu thị rằng dây
đàn chính giữa, không quá chùng cũng không quá căng là một điều đúng đắn, bằng
cách ấy gợi ý cho thái tử đang tuyệt thực rằng con đường trung đạo, con đường giữa
sự hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác, con đường ấy chính là con đường nên
theo.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Sự kiện được miêu tả phổ biến thường thể hiện
Siddhartha với gầy trơ xương, lộ lên bộ khung xương lồng ngực, mặt mũi hốc
hác/gầy xọm, ở đây mô tả đa phần là rất khủng khiếp, với một hoặc hai vị thiên
bên cạnh than khóc, trong khi thần Indra gảy nhạc cụ dây với một chiếc dây đàn
đứt tung. Trong các bích họa khác, Siddhartha được thể hiện với một thân thể gầy
còm/hốc hác ngồi trong tư thế thiền định trên một tảng đá hoặc nằm ngã xuống tảng
đá.
15. Món quà của Sujita
Trước khi có bữa ăn đầu tiên, Siddhartha đến tắm ở
sông Nairanjana. Rồi với sự đau đớn tuột độ về thể xác và Ngài ráng sức lê từng
bước vào bờ sông, những nhánh cây oằn cong đã trợ giúp cho Ngài.
Trong kế hoạch của các vị thần, Sujita, người con gái
của vị trưởng thôn, tình cờ đi ngang qua. Với sự sùng kính cao độ, nàng dâng
bát cháo sữa cho Siddhartha và Ngài đón nhận lấy. Theo một vài truyền thuyết,
Sujita đã chuẩn bị một món ăn đặc biệt bằng gạo nấu với sữa cô đặc, cùng mùi vị
cõi trời được thần Indra, Brahma và các vị thần khác thêm vào, để dâng cúng cho
vị thần linh bảo hộ cho cây cối để tạ ơn việc nàng cầu xin một đứa con trai đã
được toại nguyện. Sujita mang lễ vật đựng trong một cái bát vàng quý giá đến nơi
cái cây, nơi mà Siddhartha đến ngồi bên dưới. Ngài nhận lễ vật dâng cúng, chia
thành 49 phần, một phần dùng cho mỗi một ngày vì Ngài biết rằng chúng cần thiết
để đạt tới sự giác ngộ. Sau đó, Ngài ném chiếc bát vàng vào con sông vì một người
hành khất không được phép giữ bất cứ món đồ vật quý giá nào. Theo thời gian,
Siddhartha lấy lại sức lực nhưng đơn độc, từ khi năm đồng môn rời đi khi họ
nghĩ rằng Ngài từ bỏ tu tập.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Tình tiết này được thấy thể hiện tao nhã với một sự sắp
đặt tự nhiên giữa cây cối và con sông. Thái tử ngồi dưới gốc cây lớn đưa tay
đón lấy, còn Sujita cùng người hầu thì quỳ gối dâng vật thực lên Ngài. Vật thực
này là một tráp cơm/đĩa cơm hay đôi khi còn thể hiện những viên cơm được viên
tròn bốc khói, còn người hầu thì nâng tráp trái quả hay đảnh lễ hoặc đôi khi thể
hiện đang ôm giữ một đứa bé mới sinh – con của Sujita.
16. Siddhartha và các bát vàng
Theo một truyền thuyết sau này, sau khi chia phần thức
ăn nhận được từ Sujita, Siddhartha thả trôi chiếc bát trên sông, và nghĩ rằng nếu
Ngài thật sự trở thành một vị Phật, chiếc bát sẽ trôi ngược dòng nước. Một cách
kỳ lạ, chiếc bát trôi ngược dòng mãi cho đến khi nó chìm xuống nơi ở của vua Naga
Mahakala. Nó va vào những cái bát của ba vị Phật trước đó, đánh thức vua Naga. Ông
tán thán Siddhartha một cách nhiệt thành. Sau đó, vào buổi chiều, Siddhartha đi
đến một cây bồ-đề dọc theo con đường đã được các chư thiên chuẩn bị và trang hoàng.
Trong Lalitavistara
viết rằng thần Indra với sự xuất hiện của một garuda, tìm lại chiếc bát vàng từ
vua Naga và giữ nó ở cõi trời Tavatimsa. Tại đây, thần đã xây dựng một tòa tháp
để bát và tổ chức kỷ niệm hàng năm, ngày của những chiếc bát lớn.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh này thường thấy khá phổ biến trên các bích họa,
có lẽ bởi nó đem đến cho các nghệ nhân Khmer cơ hội tô vẽ một câu chuyện bao gồm
việc thể hiện rắn thần Naga yêu quý của họ. Thật vậy, mặc dù Siddhartha thường
được miêu tả thả trôi chiếc bát vàng trên sông nhưng Naga lại là nhân vật chính
của bức họa, xuất hiện uy nghi từ con sông. Hiếm hoi thấy thể hiện chiếc bát lặn
xuống sông (được thể hiện trong mờ bên dưới lòng sông) xếp kế bên chiếc bát của
những vị Phật trước nơi cung điện của rắn thần Naga trong lòng sông. Hay một
ngôi tháp hiện lên trên mặt sông, ở đó 4 chiếc đĩa của năm vị Phật trước xếp chồng
lên nhau, cùng 5 Naga xuất hiện trên mặt trong nhìn Siddhartha đưa tay thả chiếc
đĩa vàng vào con sông. Trong những sự mô tả khác, Siddhartha được thể hiện một
mình trên bờ con sông rộng nhìn chiếc bát trôi nổi lềnh bềnh. Đôi khi cảnh này được
kết hợp cùng bích họa Món quà của Sujita
nói trên hay Món quà cỏ bên dưới như
là một hậu cảnh phía xa.
17. Sự chuẩn bị để giác ngộ; món quà cỏ
Sau một ngày nghỉ trong rừng, Siddhartha đi một mình đến
chỗ cây bồ-đề. Naga Mahakala nghe bước chân của Ngài và nói với Ngài rằng Ngài
chắc chắn sẽ trở thành một vị Phật. Sau đó, Siddhartha gặp một người Bà-la-môn đang
cắt cỏ. Người này đã dâng tặng Ngài một ít cỏ để lót ngồi dưới gốc bồ-đề. Mặt
hướng về phía đông, Ngài thực hiện tư thế bắt chéo chân, quán tưởng cho đến khi
thân thể bất động phát ra hào quang, và không lay động cho đến khi đạt đến sự
giác ngộ.
Một vài ghi chép đề cập rằng Ngài ngồi trên chiếc ngai
nổi lên một cách kỳ diệu từ đất, với thần Indra, Brahma và nhiều các vị thần
khác tôn kính đảnh lễ, cùng với âm thanh của nhạc trời.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Sự kiện này thường thấy thể hiện: Một người nông dân
quỳ gối trang trọng dâng một bó cỏ lên Siddhartha đang ngồi hoặc đứng bên dưới một
gốc cây và Ngài đưa tay đón lấy. Khung cảnh được thể hiện thường thấy là bên vệ
đường hoặc trong một khu rừng, có khi thể hiện ở hậu cảnh là những người nông
dân đang gặt cỏ nhưng rất ít thấy.
18. Đánh bại Ma vương (Mara)
Mara khiếp sợ sự thiền định của Siddhartha và cho rằng
Siddhartha sẽ chiếm lĩnh cảnh giới của mình khi phát lộ cho muôn loài con đường
cuối cùng đi đến giải thoát. Do đó, khi nhận thấy rằng Siddhartha chưa đạt đến
sự giác ngộ, Mara đã cố ra sức ngăn cản Ngài bằng bất cứ giá nào. Y xua đội
quân chằn tấn công, nhưng không điều gì có thể tổn hại đến Siddhartha và đội
quân của Mara bị đánh bại. Sau đó, Mara đòi hỏi sự làm chứng từ các vị thần về
công đức mà Ngài đạt được. Khi đó, Siddhartha đã gọi Mẹ Đất, chạm vào đất/Mẹ Đất
với bàn tay phải. Đất chuyển động ầm ầm và hiện lên là nữ thần Đất Preah
Thorani, đảnh lễ tôn kính và minh chứng cho công đức tích lũy được của Ngài: Nữ
thần Đất xoắn mái tóc tuôn ra một dòng nước lũ nhấn chìm đội quân của Mara.
Cử chỉ Đức Phật gọi Mẹ Đất làm chứng, biết đến là Xúc
Địa ấn (bhumisparsa mudra), là một
trong những hình tượng phổ biến nhất của Đức Phật trong tranh tượng, đặc biệt
trong các hình tượng về Đức Phật ở Campuchia. Theo Dagens, Preah Thorani, một
nhân vật ở Ấn Độ chỉ được đề cập trong văn chương.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cùng với cảnh về sự giác ngộ, tình tiết này có lẽ là một
trong những miêu tả được thể hiện thường xuyên nhất, hay trên toàn bộ một bức
tường, đặc biệt ở đằng sau bệ thờ chính. Ở một vài bích họa, sự kiện này được
biểu trưng đơn giản bởi thể hiện Preah Thorani vặn tóc nhấn chìm đội quân Mara.
Ở các bích họa khác, cảnh này được thể hiện chi tiết hơn với Siddhartha ngồi
bên trên đài bệ, tay thể hiện cử chỉ xúc địa ấn, nữ thần Preah Thorani xuất hiện
bên dưới đưa tay vặn lọn tóc về một bên tuôn ra dòng nước lũ gây ngập lụt với
bên dưới là một con cá sấu há rộng miệng, cùng một con cá lớn và người quỷ ngụp
lặn trong nước. Và đặc biệt, một bên là tên chằn cùng đội quân quỷ nhe nanh dữ
tợn chĩa vũ khí vào Siddhartha, một bên cũng là một tên chằn và đội quân quỷ chấp
tay đảnh lẽ, sắc mặt hiền lành nhằm thể
hiện sự chuyển hóa tâm tính của Mara và đội quân quỷ. Đây là một ví dụ tiêu biểu
cho kỹ pháp đồng hiện (một tranh 2, 3… cảnh phản ánh sự diễn tiến của sự kiện)
trong bích họa Khmer.
19. Con gái Ma vương (Mara)
Mưu toan ngăn chặn Siddhartha đạt đến sự giác ngộ, Ma
vương gửi những người con gái của mình đến để quyến rũ Ngài. Thậm chí không
nhìn họ, Ngài biến những người cô gái xinh đẹp thành người phụ nữ già yếu. Họ
quay trở về cầu xin cha mình trả lại diện mạo xinh đẹp, trẻ trung như trước
nhưng khi Ma vương nói rằng chỉ duy nhất Đức Phật mới có thể mang trả lại cho họ
hình dáng cũ, họ quay trở lại chỗ Đức Phật và người đã hóa giải, tha thứ cho họ.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Các biểu trưng của cảnh này phản ánh sự biến đổi trong
nhận thức và quan điểm xã hội. Trong những bích họa cổ xưa hơn, ba người con gái
của Mara được miêu tả như những quý bà ăn mặc lộng lẫy, mang mũ miện bằng vàng
sắc sảo, nhảy múa một cách e lệ hoặc chơi các nhạc cụ dây trước mặt Siddhartha
đang thiền định, người không màng đến sự xuất hiện của họ. Trong các bích họa hiện
đại, sự thể hiện tập trung vào đặc điểm nhục cảm của ba nhân vật. Họ được miêu
tả trẻ trung, gợi cảm và trần truồng, hay thậm chí được thể hiện trong tư thế
khiêu gợi. Trong quan điểm của các nghệ nhân, những miêu tả nhục cảm đó phản
ánh các khuynh hướng hiện đại, thay đổi quan niệm về nhục dục và coi nhẹ tính
thiêng của các hình tượng tôn giáo.
20. Sự giác ngộ
Sau khi đánh bại Mara, Siddhartha ngồi tĩnh tại, thiền
định sâu nỗ lực đạt đến nhận thức thực tại tối thượng và cứu cánh cuối cùng của
sự tồn tại. Trong suốt đêm tháng Tư trăng tròn, Ngài
thông qua quán tưởng thứ ba đạt tới hoàn thiện một vài bước sâu hơn của nội tại,
và khi rạng đông, trong quán tưởng thứ tư, đạt tới giai đoạn của tri thức toàn
diện và am hiểu về nguyên lý nhân quả; Ngài đạt được sự giác ngộ, và trở
thành Phật.
Khi Ngài bước ra khỏi cảnh giới thiền định, thần Indra
và Brahma xuất hiện, cầu xin Đức Phật chia sẻ sự hiểu biết/tri thức cho chúng
sinh để giải thoát họ khỏi những đau khổ. Các đấng Tứ Thiên Vương, thần hộ thế
bốn phương, cũng đến chầu bên Đức Phật và dâng lên những chiếc bát khất thực,
xin làm tín đồ của Ngài và mong được nghe Pháp.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Bích họa thể hiện sự kiện này một cách đặc biệt khá hiện
thực: Đức Phật thiền định trên tòa sen và đài bệ cầu kỳ dưới một gốc cây một
cách tĩnh tại. Hay thêm vào đó có sự xuất hiện của thần Brahma, thần Indra và
chư thiên chấp tay, quỳ gối thỉnh cầu xung quanh Đức Phật.
21. Naga Mucalinda
Sau khi giác ngộ, Đức Phật trải qua bảy tuần với các
trạng thái thiền định khác nhau. Vào tuần thứ sáu, Ngài đi đến hồ Mucalinda, những
đám mây bất thường xuất hiện trên bầu trời, như đe dọa rằng những cơn mưa nặng
hạt và gió lạnh sẽ ập xuống. Vua Naga, Mucalinda, rời nơi ở của mình và bao bọc
lấy thân thể của Đức Phật với bảy vòng cuộn quấn, phình rộng mang phủ bên trên
đầu Ngài, để bảo vệ Ngài không chỉ khỏi sự tác động của thời tiết dữ dội mà cả
muỗi mòng, ruồi nhuế và những loại sâu bọ khác. Theo truyền thuyết, khi bảy
ngày kết thúc, các cuộn quấn của vua Naga lỏng dần ra khỏi thân thể Đức Phật,
và biến thành một người Bà La Môn trẻ tuổi, đứng trước Đức Phật chắp tay đầy
tôn kính.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Mặc dù hình ảnh về Đức Phật đang ngồi thiền định bên trên
những cuộn quấn của rắn thần Naga hoặc hiếm hoi thấy thể hiện Đức Phật như được
cất giấu, che chở bên trong những cuộn quấn thân rắn này chỉ còn một phần vai
và đầu Đức Phật ló ra và bảy chiếc đầu của naga Mucalinda xòe rộng ra bên trên rất
phổ biến trên bích họa. Trong số các ví dụ tiêu biểu nhất chú trọng vào chi tiết,
thậm chí thể hiện cả những hạt mưa rơi dày đặc, trắng xóa mịt mù nhấn mạnh lý
do tại sao Naga cần phải bảo vệ cho Đức Phật. Khung cảnh thường là một hồ sen rộng
lớn ngả nghiêng vì mưa gió và hậu cảnh cây cối bạt đi vì gió bão. Các nghệ nhân
miêu tả Đức Phật một cách chính diện hoặc thể hiện theo một góc nghiêng cho thấy
chiếc đuôi Naga uốn cong phía sau. Đôi khi cảnh này được thể hiện trong khung cảnh
rất yên bình, trời trong, nước lặng.
22. Tapussa và Bhalluka; những chiếc bình bát và lễ vật
dâng cúng
Trong suốt tuần thứ bảy, Đức Phật, ngồi dưới một cội
cây. Ngài được hai anh em thương gia là Tapussa và Bhalluka viếng thăm, và họ
cung kính dâng lên vật thực. Bốn vị thần hộ thế Tứ Thiên Vương cũng cúng dường
những chiếc bát vàng, và Đức Phật đã làm phép biến chúng ép lại thành một. Khi
dùng xong các vật thực do Tapussa và Bhalluka dâng cúng, Ngài đã thuyết pháp
cho họ. Hai người anh em thọ nhận giáo pháp của Đức Phật, trở thành những môn đệ
đầu tiên, và nhận được các di vật bao gồm tám sợi tóc của Đức Phật.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trong hầu hết các bích họa, hai người thương gia được
thể hiện ăn mặc áo quần trau chuốt và đội khăn xếp không vành theo kiểu trang
phục Ấn Độ trang trọng đảnh lễ Đức Phật, xa xa là con đường mòn với hai cỗ xe
phủ bạt, chứa đầy hàng hóa.
23. Vượt sông Hằng; thuyết phát cho năm người; lần đầu
tiên thuyết pháp hay thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển
Sau khi giác ngộ, Đức Phật bắt đầu suy nghĩ/cân nhắc việc
nên hay không thuyết các giáo pháp của Ngài và nếu vậy, ai là người Ngài nên
thuyết pháp đầu tiên. Trước hết, Ngài nghĩ đến thầy mình, Alara Kalama, nhưng
ông đã qua đời. Sau đó, Ngài nghĩ đến năm ẩn sĩ, những người lúc đầu theo Ngài
thực hành tu khổ hạnh. Tuy nhiên, để đến với họ ở Varanasi, Ngài cần phải vượt
qua con sông Hằng nhưng không có gì để trả tiền đò. Sử dụng năng lực thần thông,
Đức Phật vượt qua bờ bên kia chỉ trong chốc lát, nhanh hơn cả gió. Khi Ngài đến
Varanasi, Ngài đi đến vườn Lộc Uyển, nơi năm môn đệ cũ đang ở đây. Khi nhìn thấy
ánh hào quang của Đức Phật, họ kính cẩn cúi chào và mời Ngài ngồi xuống giảng
Pháp cho họ.
Với bài thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển, đôi khi được gọi
là bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật giảng giải về bốn chân lý cao cả, khởi đầu
việc Chuyển pháp luân. Ngài giải thích rằng như mặt trời soi sáng trái đất,
bánh xe Pháp giác ngộ chúng sinh. Nó cũng là bánh xe (cakra) để dẫn dắt tinh thần Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravartin). Lần thuyết pháp đầu tiên
là sự kiện vĩ đại thứ ba của Đức Phật, từ khi đản sinh ra đời và giác ngộ.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Mặc dù sự kiện vượt qua sông Hằng một cách thần diệu
hiếm khi được thể hiện trên các bích họa nhưng sự kiện thuyết pháp ở vườn Lộc
Uyển là một trong những cảnh được ưa thích thể hiện trên các bích họa, đặc biệt
trong các chánh điện (vihara) ngày nay, ở đó, đôi khi nó có thể chiếm toàn bộ mảng
tường phía sau án thờ và mở rộng về phía trên trần. Đề tài này thể hiện Đức Phật
ngồi dưới một cội cây, tay bắt ấn chuyển pháp luân, ngồi xung quanh Ngài là 5
anh em Kiều Trần Như trong trang phục của chư Tăng quỳ gối chấp tay tôn kính đến
Ngài trong bối cảnh của một khu rừng. Sự thể hiện 5 anh em Kiều Trần Như này
luôn biến đổi như xếp đều năm người anh em này phía trước Đức Phật hay phân làm
bên hai bên ba người hoặc chia hai bên là hai người và chính giữa là một người,
hiếm hoi cũng thấy thể hiện đứng ở phía sau lưng Đức Phật.
Đôi khi cảnh Đức Phật thuyết pháp cho năm anh em Kiều
Trần Như cũng có thêm thắt hai vị thiên đảnh lễ ở đằng sau Đức Phật.
24. Hành trình đi đến Uruvela; Kassapa
Khi Đức Phật có 60 môn đệ, Ngài tổ chức một cuộc gặp gỡ
để truyền pháp. Ngài tự mình đi đến Uruvela. Khi đến nơi này, Ngài thỉnh cầu Kassapa
cho phép được ở tại nhà ăn. Kassapa đã cảnh báo Ngài về sự nguy hiểm của một
con rắn độc/naga đang canh giữ ngôi nhà. Khi con rắn naga xuất hiện vào ban
đêm, phun ra lửa, Đức Phật đã hàng phục nó và đặt nó vào trong chiếc bát khất
thực của mình để Ngài có thể cho Kassapa thấy con rắn vào sáng hôm sau. Khi
Kassapa nhìn thấy điều đó, ông đã thừa nhận sự siêu việt của Đức Phật.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Chi tiết này rất hiếm hoi. Tranh được thể hiện Đức Phật
một tay cầm bát khất thực với một naga ló đầu ra trước mặt số đông người đưa
tay chỉ chỏ trên khung cảnh một ngôi nhà dựng đơn giản với mây và núi.
25. Cuộc viếng thăm vua Bimbisara; khu rừng tre
Đức Phật, với Tăng đoàn, đi đến Rajagrha để thực hiện
lời hứa của Ngài với vua Bimbisara, đây cũng là vương quốc đầu tiên mà Đức Phật
viếng thăm sau khi Ngài giác ngộ. Nghe Đức Phật đến với 1.000 môn đồ, nhà vua tập
hợp các triều thần, quân lính và thần dân đến để nghe Ngài thuyết pháp tại vườn
tre. Nhà vua mong muốn trở thành môn đồ của Đức Phật tại quê nhà và sau đó ông
cúng dường khu vườn Veluvana, đó là một khu rừng tre, làm nơi cư trú cho các
môn đồ của Đức Phật và nơi đây đã trở thành tu viện Phật giáo đầu tiên. Đức Phật
đã trải qua mùa mưa thứ hai, ba và tư tu tập tại Veluvana, và nơi đây nhiều cuộc
diễn thuyết buổi đầu đã được tổ chức.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Cảnh thuyết pháp tại khu rừng tre khá phổ biến trên
các bích họa. Cảnh trí tiêu biểu là một rừng đầy những cái đầu trọc biểu thị số
lượng lớn chư Tăng theo hầu và Đức Phật ngồi ở trung tâm bên dưới bụi tre lớn với
những tán lá tre trong khung cảnh của một khu rừng thông thường hơn là một khu
rừng tre.
26. Sariputra và Moggallana
Hai người bạn trẻ tuổi giàu có từ vương quốc Mahadha
là Sariputra và Moggallana, quyết định đến viếng thăm Đức Phật tại Veluvana. Họ
quyết định xuất gia làm tu sĩ, trở thành những môn đồ quan trọng của Đức Phật.
Một truyền thuyết kể rằng một lần Moggallana được Đức Phật yêu cầu phải khuất
phục một con rắn naga to lớn, đang làm xáo trộn đời sống của dân chúng.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Truyền thuyết về Moggallana và naga cũng được thể hiện
phổ biến bằng một chàng trai thường dân điềm tĩnh cầm chiếc quạt hình lá bồ-đề
đứng trước một naga hung dữ trườn đầu về trước mặt chàng còn thân cuộn quấn vào
một núi đá. Hay đôi khi hiếm hoi cảnh này còn được thể hiện với hai naga chiến
đấu với nhau và Đức Phật và các môn đệ đứng trên núi cao nhìn xuống hoặc ngồi
chuyển pháp luân bên cạnh hai naga đấu nhau; hay Đức Phật lệnh cho Moggallana
quỳ chấp tay nhận lãnh trước nhiều môn đệ với một bên là naga hung dữ quấn chặt
núi đá. Thỉnh thoảng cũng thấy miêu tả chàng trai một tay cầm quạt, một tay cầm
đuôi naga kéo mạnh khi nó cố bám chặt vào ngọn núi…
27. Sự chuyển biến của Yasa và Nanda
Một trong những nam nhân đầu tiên đến gần Đức Phật là
Yasa, con trai của một người đàn ông rất giàu có của Varanasi. Sau khi thỉnh cầu
người cha cho phép, chàng đã đến gặp Đức Phật và xuất gia theo Ngài. Truyền
thuyết khác về Nanda, người được Đức Phật thuyết phục không kết hôn và từ bỏ việc
trở thành một vị vua. Nanda gia nhập Tăng đoàn và được phong cấp một tuần sau
đó. Cùng lúc ấy Rahula, người con trai của Đức Phật, đã đến và hỏi ý kiến mẹ
chàng để đến thăm viếng cha mình và thỉnh cầu Ngài về quyền thừa kế.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Thông thường, các bích họa thể hiện Đức Phật đứng trên
tòa sen đi phía trước với chàng trai trẻ Nanda cầm bát khất thực đi sau từ một
dinh thự lớn, ở đó một thiếu nữ được miêu tả trong tình trạng bơ vơ, thường vẫy
tay chạy theo chàng hoặc đứng bên khung cửa sổ trên cao nhìn theo. Bối cảnh thường
được thể hiện cho đề tài này là bên ngoài bức tường thành của một dinh thự. Xét
về mặt trực quan, sự khác biệt của Nanda và Yasa rất khó thể hiện dứt khoát ở
các bích họa và về sau, sự khác biệt mới được xác lập.
28. Vợ và con trai đến thăm viếng Đức Phật
Yasodhara đau buồn vì không được nghe Đức Phật thuyết
pháp, vì vậy nàng cùng con trai Rahula đến gặp Ngài. Đức Phật vô cùng xúc động
và giảng pháp cho họ. Sau đó, Ngài làm lễ quy y cho con trai bảy tuổi, cùng với
một vài hoàng tử trẻ tuổi của thị tộc Sakya.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Mặc dù được miêu tả khá trìu mến nhưng sự kiện này được
thể hiện theo một cách trang trọng. Với hình ảnh Yasodhara quỳ xuống cúi người
lấy tóc lau chân cho Đức Phật là ít thấy nhưng nhiều hơn là hình ảnh nàng cúi đầu
xuống và hai tay vòng qua ôm lấy bàn chân của Ngài. Đức Phật lúc này được thể
hiện ngồi trên ghế, con trai Ngài và vua cha ngồi kế bên Yasodhara cùng quỳ gối
chấp tay đảnh lễ hay đôi khi được thể hiện Rahula ôm lấy thân Ngài đang ngồi. Ngoài
ra, có nghệ nhân còn thể hiện một nam hoàng tộc có thể là vua cha hoặc anh em của
Đức Phật ngồi trên ghế đối diện với Ngài.
29. Sự trở về Kapilavastu; cái chết của vua cha
Vua cha Suddhodana gửi sứ giả cho mời Đức Phật đến. Khi
nhận được lời thỉnh cầu, Đức Phật đã quay trở về Kapilavastu cùng với 1.000 môn
đệ. Vua cha trước hết mong muốn chào mừng Ngài một cách công khai nhưng lại bị
ngăn cản bởi sự kiêu hãnh của mình khi ông nhìn thấy sự nghèo nàn của con trai
và các môn đệ. Tuy nhiên, vua cha đã thay đổi ý định khi được nhắc nhở rằng con
trai ông đã trở thành người cha, giáo chủ của muôn loài. Theo phong tục thông
thường, chư Tăng ngụ bên ngoài tường thành trong một khu rừng Cây Đa nhỏ. Những
Sakya kiêu ngạo khước từ cúi đầu chào Đức Phật, một vị du tăng sống giản dị, mặc
dù Ngài từng là người họ hàng của họ. Để dung thứ, khiến cho họ không bối rối, Đức
Phật xuất hiện đi trên không, cho phép những Sakya ngước nhìn lên thay cho sự
cúi chào. Cùng lúc, Ngài biểu lộ phép thần thông “xuất hiện song hình của
mình”, nó được lặp lại tại Sravasti. Sau đó, Ngài trở về thăm vua cha, người
đang bị ốm nặng. Sau khi tỉnh lại và khi nhìn thấy con trai, ông đã qua đời.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Sự kiện này được vẽ thành tranh trong nhiều chánh điện
(vihara). Bích họa tiêu biểu, ở đây vua cha được thể hiện chấp tay đảnh lễ Ngài,
nằm trên giường nơi cung điện hoàng gia với Đức Phật đưa tay ân cần và chư Tăng
đứng cạnh bên giường cùng các hầu cận vây quanh.
30. Cô gái điếm và con chuột
Trong tình tiết này, một cô gái điếm, bị lôi kéo bởi
những kẻ ngoại đạo, ngụy tạo có mang một đứa con với Đức Phật. Khi buông ra những
lời đe dọa và buộc tội Đức Phật, thần Indra đã biến thành một con chuột cắn đứt
sợi dây buộc giữ chặt vật độn quanh bụng của cô gái, khiến mánh khóe bị lật tẩy.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Một cách chắc chắn, đây là một câu chuyện không nằm
trong kinh điển, nhưng là câu chuyện thú vị trong kho tàng truyện dân gian. Nó
xuất hiện trong các bích họa, với Đức Phật và chư Tăng tập hợp lại và một người
phụ nữ với một cái bụng phồng to tướng chỉ tay về phía Đức Phật. Đôi khi, một
con chuột được vẽ cắn đứt sợi dây buộc miếng độn nơi bụng của cô gái điếm khiến
nó rơi ra trước mắt nhiều người.
31. Kỳ tích ở Sravasti, kỳ tích của cây xoài
Tại Sravasti, Đức Phật gặp sáu luận sư ngoại đạo và đó
là cuộc tranh luận với sự hiện diện của nhà vua Prasenajit. Mặc dù Đức Phật
không cho phép chư Tăng sử dụng các thần thông, nhưng chính Ngài đã thực hiện một
biến hóa vi diệu, tái hiện thần lực mà Ngài đã thực hiện tại Kapilavastu.
Trong một vài dị bản, Đức Phật làm cho cây xoài lớn
lên một cách khổng lồ, với mặt trời, mưa và gió va mạnh vào những kẻ đối địch của
Ngài, trong khi Ngài phát ra những tia sáng và những tia nước. Trong các dị bản
khác, sau khi thực hiện sự “thu nhỏ”, Đức Phật trực tiếp thực hiện hai lần
trong dịp nhà vua Prasenajit cung thỉnh:
1. Kỳ tích đầu tiên ở Sravasti là Đức Phật đi trên
thinh không trong các tư thế khác nhau, phát ra nước và lửa từ vai và chân Ngài.
2. Kỳ tích thứ hai, cũng được gọi là “Kỳ tích của cây xoài”, là Đức Phật thị
hiện trong tán lá của một cây xoài với hình ảnh đối xứng trong ba tư thế: đứng
hoặc đi, ngồi và nằm tựa; theo đó, những hình ảnh tăng lên gấp bội.
Kỳ tích thứ hai đó, cùng với một cơn bão, Đức Phật tạo
ra sự hỗn loạn dữ dội trong những kẻ ngoại đạo và những người ngoại đạo đều đồng
loạt nghe theo sự giảng dạy của Ngài.
Điều kỳ lạ đó được kể khác biệt bởi các nguồn khác
nhau, có lẽ việc chỉ dẫn nó không thuộc về những chuyện kể kinh điển buổi đầu của
Cuộc đời Đức Phật, mà là một thêm thắt
sau này. Đối lập với dị bản Theravada
ở trên, trong truyền thống Tây bắc Ấn Độ, Đức Phật ngồi trên một biển hoa sen
mênh mông, hoặc di chuyển trên cầu vồng từ Đông sang Tây, trong khi theo truyền
thống phía Bắc Ấn Độ Ngài đã biến ra vô số hình ảnh của mình trong không
trung.
Thêm vào đó, trong những kỳ tích, hai vị vua naga là
Nanda và Upananda, tạo nên một hoa sen vàng to bằng bánh xe bò có 1.000 lá và
kèm theo châu báu. Trên cành hoa sen đó, Đức Phật ngồi trong tư thế thiền định,
tiếp tục thực hiện những sự việc thần kỳ. Trong một vài dị bản, Nanda và
Upananda cũng được cho rằng đã hiện diện khi Đức Phật ra đời, đứng trong không
trung phun hai dòng suối nước nóng và lạnh để tắm cho Ngài.
Hai kỳ tích ở Sravasti thuộc về chuỗi các sự kiện vĩ đại.
Sự quan trọng phù hợp với kinh điển của kỳ tích ở Sravasti được cho rằng không
thể chối cãi được, là một trong mười việc làm tuyệt vời mà Đức Phật thực hiện
trước khi qua đời. Nó được thêm vào các sự kiện vĩ đại chủ yếu về sự tái sinh
cuối cùng, đạt được sự giác ngộ, chuyển bánh xe Pháp và nhập Niết-bàn. Nó cũng
là một ví dụ cổ xưa nhất về những kỳ tích mà Đức Phật đã chiến thắng những kẻ đối
địch.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
“Kỳ tích tại Sravasti” là đề tài hiếm khi
được thể hiện. Còn “Kỳ tích của cây xoài”
được thể hiện phổ biến hơn với Đức Phật đứng trên đỉnh của một cây xoài và
tương tự, Đức Phật trong tư thế ngồi thiền định và nằm được thể hiện trên những
nhánh cây đối xứng.
32. Sự chuyển biến của những người ngoại đạo
Tạo nên sự lộn xộn bằng những hành động thần kỳ của Đức
Phật đủ mạnh mẽ để thuyết phục phần lớn người ngoại đạo phụng hành theo giáo lý
của Ngài. Tuy nhiên, những người đi theo các tôn giáo dị giáo khác, hốt hoảng
phá hủy sảnh đường nơi tiến hành thực hiện các nghi lễ. Một số thủ lĩnh của họ
lo thoát thân trốn chạy.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trên các bích họa, kết quả các kỳ tích đề cập bên trên
và sự chuyển biến của những người ngoại đạo được biểu trưng những người ngoại đạo
mặc áo da thú quỳ gối đảnh lễ Đức Phật ngồi dưới cội cây. Hiếm khi thấy thể hiện
sảnh đường dị giáo ngã đổ và tín đồ dị giáo tháo chạy.
33. Đi lên cõi trời Tavatimsa
Biết rằng kiếp trước các Bồ-tát đã từng lên cõi trời
thuyết pháp cho mẹ, Đức Phật quyết định làm theo tiền lệ. Bước chân phải đặt
lên đỉnh núi Yugandhara và để ngón chân trái ở trên núi Sumeru, rồi với sải
chân khác, Ngài đến cõi trời Tavatimsa và ngồi trên một tảng đá lớn gọi là
Pandukambala, ngai vàng của thần Indra, dưới cây prajipata cõi trời. Phụng sự bởi
các vị thần của mười nghìn thế giới, Ngài thuyết cho mẹ mình, trình bày chi tiết
về Abhidharma (A-tỳ-đạt-ma, A-tỳ-đàm,
Vi diệu pháp) trong ba tháng. Rồi vào một ngày rằm, khi Đức Phật sẵn sàng trở về
cõi đất, thần Indra đã chuẩn bị bộ ba chiếc cầu thang, một bằng vàng cho các vị
thần, một bằng bạc cho thần Brahma và một bằng ngọc ở chính giữa cho Đức Phật
đi xuống. Các vị thần cầm ô và quạt nghi lễ theo hầu, Đức Phật trở về cõi đất tại
cửa ngõ thành phố của Sakassa. Khi Ngài chạm chân xuống đất, tất cả mọi người
có mặt đạt được cái nhìn toàn diện về các cõi khác nhau, từ cõi trời cao nhất của
thần Brahma, đến cõi thấp nhất ở địa ngục sâu thẳm. Đó là một trong các sự kiện
vĩ đại.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Đây là một trong những đề tài được thể hiện tráng lệ
nhất trong các bích họa và cũng khá phổ biến thấy trên các tranh cuộn bằng vải/lụa
preah bot. Đôi khi, bích họa về chủ đề
này lại khá lạm dụng khi thể hiện sự đông đúc người. Ở cách thể hiện đơn giản,
các nghệ nhân chỉ miêu tả Đức Phật đứng trên tòa sen xuống trên chiếc cầu thang
uốn éo với ba màu theo kinh điển vàng, bạc và xanh lục ngọc (ngày nay để bức
tranh thêm nổi bật và nhiều màu sắc, chiếc cầu thang còn được thay bằng màu
vàng, đỏ/hồng, xanh dương…), chạy dài theo thành lang can là hình tượng rắn thần
naga bảy đầu; với thần Brahma cầm lọng và thần Indra cầm bát khất thực đi hầu
hai bên Đức Phật; bên dưới cầu thang một bên là chư Tăng, một bên là các thành
viên hoàng tộc và các tín đồ quỳ gối chấp tay đảnh lễ Ngài. Đôi khi, ở thể hiện
này bên trên là mây trời với các chư tiên đàn hát, rải hoa và đảnh lễ… Ở cách
thể hiện phức tạp và chi tiết hơn, bức tranh thể hiện chiều kích không gian từ cõi
trời: Đức Phật ngồi dưới cội cây thuyết pháp cho mẹ, chư thiên cõi trời trên nền
mây trời và cung điện cõi trời nhấp nhô ẩn hiện; sát bên dưới là cầu thang thể
hiện như đã nói ở trên trên nền cung điện cõi trần cùng sông núi; đôi khi còn
thể hiện Đức Phật ngồi trên đài bệ dưới chân cầu thang này.
34. Kỳ tích khu rừng Parilyyaka
Đức Phật đến ẩn dật ở rừng Parilyyaka, gần Kosambi, ở
đó, Ngài được chăm sóc bởi một con voi và một con khỉ. Bởi sự mộ đạo, trợ giúp
và tôn kính với Đức Phật, chúng lập tức gần như đạt được sự tái sinh từ điều kiện
bất khả của loài thú: không phân biệt cái tốt và cái xấu.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Sự kiện này thường được thể hiện trong một khu rừng,
nơi Đức Phật trầm lặng ngồi bỏ hai chân xuống hay bắt chéo chân trên một tảng
đá trước một con khỉ đưa hai tay dâng mật ong và một con voi khụy chân, vòi quấn
một ống tre rỗng chứa đường thốt nốt hoặc những cành hoa sen dâng lên Ngài. Cảnh
này còn thấy thể hiện một vị Tăng cùng quỳ gối, đảnh lễ.
35. Angulimala
Angulimala được sinh ra từ người vợ của
Gagga và quan thượng thư Pasenadi,
người bảo hộ cho Đức Phật. Bởi quẻ bói tiên đoán về một cuộc đời đầy hung bạo
nên ông được đặt cho cái tên Ahimsaka, “phi bạo lực”, nhằm ngăn ngừa vận mệnh.
Ông sống với tên gọi này trong suốt thời trai trẻ, luôn vâng theo sự sắp đặt của
cha và thầy của mình. Tuy nhiên, một ngày, người thầy bị dối lừa bởi các học
trò khác, những kẻ ghen tỵ với thành công của Ahimsaka, và ông thầy đã yêu cầu
một món quà khủng khiếp từ người học trò của mình là những ngón tay út cắt từ
bàn tay phải của một ngàn người. Ahimsaka sùng tín bắt đầu lên đường thu thập
chúng, từng cái từng cái một, xâu chuỗi những ngón tay mang quanh cổ mình và chẳng
mấy chốc Ahimsaka được thế nhân gọi là Angulimala, “chuỗi những ngón tay”.
Đức Phật khi nghe về tên giết người hàng loạt đó, kẻ đã
gây khiếp sợ cho dân chúng trong vùng, Ngài bắt đầu lên đường tìm kiếm hắn ta
khi hắn đã thu thập được 999 ngón tay. Angulimala nhìn thấy Đức Phật đi một
mình trong rừng, nhưng Ngài đã sử dụng quyền năng ngăn không cho Angulimala đến
gần mình.
Angulimala ngạc nhiên khi không thể đến gần Đức Phật.
Y dừng lại và hét to: “Dừng lại, dừng lại!”. Đức Phật đáp: “Ta đã dừng lại,
ngươi cũng dừng lại”. Bởi điều này mang ý nghĩa rằng Ngài đã dừng lại mãi mãi
hành vi bạo lực đối với mọi chúng sinh và bây giờ đây cũng là thời điểm để
Angulimala dừng lại việc giết người. Angulimala hiểu những từ mà Đức Phật nói
và thỉnh cầu Ngài giảng pháp. Từ đó Angulimala từ bỏ những điều xấu xa này mãi
mãi. Khi nghe những điều thuyết giảng, y ném gươm, các thứ vũ khí và Đức Phật
cho y quy y và gia nhập Tăng đoàn, cuối cùng Angulimala cũng trở thành một vị
A-la-hán. Mặc dù vua Pasenadi chấp thuận với quyết định này nhưng đã chỉ trích việc
Đức Phật cho phép một tên tội phạm trốn thoát vào hàng ngũ Tăng-già. Sự quy y
Angulimala cuối cùng khiến Đức Phật đưa ra những giới luật cụ thể ngăn cấm các
hành vi phạm tội để trở thành tu sĩ hay nữ tu sĩ. Tuy nhiên, Angulimala không
thoát khỏi hậu quả do những hành vi của chính mình gây nên. Dân chúng khi nhìn
thấy ông đi khất thực, họ nhớ đến hành vi tội ác của ông xưa kia nên đã ném đá
và dùng gậy đánh ông, việc “trả thù” thậm chí vẫn còn cả sau khi Angulimala đã trở
thành một A-la-hán.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trên các bích họa, câu chuyện được miêu tả nhiều cách
khác nhau, nhưng phần lớn thường xuất hiện hai cảnh: tình tiết thứ nhất, Đức Phật
đi cách xa Angulimala, khỏi tầm với của chiếc gươm; tình tiết thứ hai minh họa Đức
Phật giảng pháp và kẻ cải đạo Angulimala buông bỏ gươm và vòng chuỗi với 999
ngón tay của những người mà y đã giết chết. Xa xa là hình ảnh người mẹ của
Angulimala chấp tay chạy theo hoặc đứng hay quỳ gối.
36. Những tội ác của Devadatta và sự khuất phục
Nalagiri
Devadatta, người anh em họ luôn đối địch với Đức Phật,
người cũng được đề cập trong Jataka 416,
tin rằng thời điểm cuối cùng đã đến để loại trừ Đức Phật và ông ta vài lần nỗ lực
tiến hành giết Ngài. Đầu tiên, ông ta thuê người ám sát Đức Phật, kẻ mà rốt cục
lại được chính nạn nhân đã giảng giải để cải đạo cho hắn. Sau đó, Devadatta lăn
một tảng đá từ trên núi nhằm đè nát Đức Phật, nhưng tảng đá bị vỡ ra làm hai,
chệch ra khỏi Đức Phật. Sau đấy, Devadatta lại chuốc say con voi chiến Nalagiri
bằng rượu và thả nó tự do chạy hoang dại trên những con đường của thị trấn, gây
kinh hoàng trong dân chúng. Đức Phật vẫn điềm tĩnh, dừng con vật với lòng nhân
từ và khiến nó nhẹ nhàng quỳ gối trước chân Ngài vì Ngài có thể cứu giúp nó khỏi
sự thịnh nộ giết chóc. Mặc cho tất cả những điều đó, Devadatta, tuy phần nào đã
thất vọng, nhưng không từ bỏ. Câu chuyện kể rằng ông ta chịu trách nhiệm tạo
nên sự ly giáo với đạo Phật. Khi mất đi, sau một thời kỳ đau ốm khó nhọc, ông
tái sinh vào địa ngục Avici, phần thấp nhất của địa ngục.
Trong các chuyện kể Jataka, khi Devadatta du hành đến gặp các môn đồ của Đức Phật với ý
định kích động sự nổi loạn, ông đột ngột cảm thấy yếu đi và chết. Trong các Jataka số 404 và 422, đề cập Devadatta
lún xuống dưới đất và bị nuốt vào địa ngục Avici, một cách chính xác như được
thể hiện trong các bích họa.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Devadatta nỗ lực giết chết Đức Phật bằng việc đẩy những
tảng đá lăn xuống núi là khá phổ biến: Devadatta đứng trên núi cao ra sức xô những
tảng đá lăn xuống Đức Phật và chư Tăng cầm bát khất thực đi ngang, đôi khi có
thể hiện những hòn đá nhỏ lăn trúng chân làm ngón chân Ngài tóe máu; ít phổ biến
hơn là cái chết của Devadatta bị hút vào đất xuống địa ngục. Có khi cả hai cảnh
này được vẽ bên cạnh nhau. Trong những chánh điện (vihara) ngày nay, các cảnh
này thường được vẽ riêng biệt.
Sự khuất phục Nalagiri là một trong các sự kiện vĩ đại.
Tranh thường thể hiện cảnh chư Tăng cầm bát khất thực, còn Đức Phật một tay cầm
bát một tay vuốt đầu một con voi xám nằm bẹp xuống đất, đưa vòi vươn về chân Ngài.
Khung cảnh ở đây thể hiện bên ngoài một bờ tường thành.
37. Gặp gỡ Ma vương (Mara)
Khi Đức Phật trở lại Vasali, Ngài đi đến bờ sông và ngồi
trên rễ của một cội cây, và Ma vương xuất hiện. Hắn đã ngạo mạn nói với Đức Phật
rằng, khi hoàn thành tất cả các sứ mệnh, hắn sẽ chết và đi vào cõi Niết-bàn. Đức
Phật đáp “Trong ba tháng ta sẽ nhập Niết-bàn”, sau đó nhiều người sẽ kế tục
giáo pháp của ta. Mara hả hê biến mất và Đức Phật đi sâu vào thiền định, tập
trung tâm trí vào thời điểm khi Ngài nên rời bỏ cuộc sống thể xác và đi vào cõi
Niết-bàn. Quyết định đó gây nên một trận động đất lớn.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Các bích họa về cảnh này rất hiếm khi thấy thể hiện.
38. Bữa ăn của Cunda và sự đau yếu của Đức Phật
Khi đã 80 tuổi, Đức Phật, cùng với một vài Tỳ-kheo, bắt
đầu cuộc hành trình cuối cùng. Khi họ đến ngôi làng của Pava, họ nhận lời mời
dùng bữa từ người thợ rèn Cunda. Món ăn chính là một loại nấm (có nơi nói là thịt
lợn), mà nó được coi là nguyên nhân làm Đức Phật ngã bệnh.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Tình tiết này thường thấy trên các bích họa, với các thể
hiện trong ô tranh đơn lẻ như Đức Phật nhận vật thực (với miêu tả là tráp thức
ăn hay mâm cơm, đôi khi thể hiện mâm cơm với cái đầu heo) từ vợ chồng Cunda, thỉnh
thoảng các nghệ nhân có vẽ hóa hiện bên trên là con heo và tên chằn. Và sự đau bệnh
của Ngài trong các bức tranh thể hiện bằng việc nôn mửa ra máu, một vị Tăng/thần
Indra đỡ ống nhổ cho Ngài và chư Tăng lo lắng vây quanh Đức Phật; ở hậu cảnh
trên con sông một vị Tăng đang đưa bát múc nước.
39. Mahaparinirvana
Khi Đức Phật tiến đến khu rừng cây sala, Ngài lệnh cho
Ananda chuẩn bị một sàng tọa giữa hai cội cây. Tại đó, Ngài nằm xuống, an định,
quay về bên phải, duỗi dài với đầu quay về hướng Bắc, đối mặt với hướng Tây. Ngài
trải qua một đêm truyền dạy và khuyên giải dân chúng. Sau đó, Ngài thuyết pháp
cho người dân địa phương và các hoàng tử Malla, người đến để đảnh lễ Ngài. Đức
Phật thể hiện một lần nữa một vài điểm quan trọng trong giáo thuyết của Ngài và
thúc giục các Tỳ-kheo đặt câu hỏi, nhưng mọi người vẫn mãi im lặng. Cuối cùng, Đức
Phật nói những lời cuối cùng: “Tất cả mọi thứ đều vô thường; hãy tinh tấn để đạt
giải thoát”. Vào khoảng cuối đêm đó Ngài nhập Niết-bàn. Khi ấy quả đất rung lắc,
các vị thần xuất hiện, cây cối đột ngột trổ hoa. Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt,
các hoàng tử Malla, trong phục trang sang trọng đến lễ bái tôn kính đối với Đức
Phật.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Sự kiện này rất phổ biến trên các bích họa trong những
chánh điện (vihara), thậm chí trong một vài ví dụ, ngự trên một ô lớn ở tường
bên trong. Cảnh tượng thể hiện Đức Phật nằm nhắm mắt trên một tảng đá giữa hai
cội cây trổ đầy hoa, trước hay một bên Ngài là chư Tăng đau buồn, khóc lóc và
phía sau hay một bên Ngài là các thành viên hoàng tộc và các tín đồ tiếc
thương, trên trời là chư thiên đảnh lễ Ngài là thường thấy nhất.
40. Lễ hỏa táng
Quan tài đặt trên một bệ/đài đơn giản, trong khi nghi
lễ hỏa táng được chuẩn bị và sau đó đặt trên nhà rạp hỏa thiêu dựng bên trong một
hàng rào vây quanh. Một truyền thuyết kể rằng Kasyapa ở xa nơi Đức Phật mất nên
khi nghe tin Ngài nhập diệt đã không thể đến kịp trước khi nhục thân Ngài được
hỏa thiêu. Nhưng kỳ diệu thay, giàn thiêu không bắt lửa mãi đến khi ông đến. Với
tay đưa lên trước trán, Kasyapa đi xung quanh giàn thiêu ba lần, và nơi ông dừng
lại, bàn chân thiêng của Đức Phật từ giàn thiêu xuất lộ ra. Kasyapa cúi đầu và
đảnh lễ tôn kính. Chỉ sau đó giàn thiêu bắt lửa và thiêu cháy nhục thân Ngài.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Được cho rằng đám tang dành cho Đức Phật tương tự với tang
lễ dành cho vị Chuyển Luân vương (Cakravartin).
Bởi theo các nghi lễ hoàng gia, các nghệ nhân được cho phép thể hiện trang
nghiêm trên các bích họa. Theo đó, quan tài được thể hiện bên trong một nhà rạp
hoàng gia vây quanh bởi chư Tăng và các tín đồ đang cầu nguyện. Tại ngôi chùa
khác, sự đến muộn của Kasyapa được thể hiện một cách rõ ràng khi ông đứng gần
quan tài với bàn chân Đức Phật thò ra. Đôi khi cảnh này còn thể hiện tháp với
chư Tăng và tín đồ đảnh lễ vây quanh.
41. Sự phân phát xá-lợi
Tất cả các hoàng tử Ấn Độ tham dự lễ hỏa táng đều mong
muốn có di vật của Đức Phật và sẵn sàng gây chiến để có được chúng. Một người
Bà-la-môn tên Dona, xung phong nhận lãnh việc phân chia này, nhưng tại thời điểm
đó, ông giấu một chiếc răng của Đức Phật mà nó chưa bị thiêu hủy trong búi tóc
của mình. Tuy nhiên, hành vi này bị thần Indra cảnh báo, và thần xuống từ cõi
trời để giữ lấy những di vật.
Sự
miêu tả trên các bích họa:
Trong tất cả các bích họa về sự phân phối xá-lợi dường
thể hiện một người râu tóc mặc phục trang trắng ngồi trên ngai phân chia di vật
của Đức Phật cho tín đồ với các kiểu loại trang phục khác nhau của các nước xếp
hàng nhận lãnh và chờ đến lượt chia, đồng thời thể hiện thần Indra từ cõi trời
bay xuống thò tay vào búi tóc người này.
Nói chung, bích họa về Cuộc đời Đức Phật thường được vẽ thành chuỗi liên hoàn trong những
ô tranh liên tiếp nhau chen kín trên ba vách tường: trước và hai bên án thờ hoặc
chỉ trên hai vách bên của án thờ. Tường đối diện án thờ và đằng sau bệ thờ, các
nghệ nhân thường thể hiện một bức tranh lớn thuộc đề tài này là cảnh Đức Phật gọi
Mẹ Đất lên làm chứng cho công đức của mình và Mẹ Đất Preah Thorani đã xoắn tóc
của mình tuôn ra dòng nước lũ cuốn trôi yêu ma và cảnh Đức Phật đi xuống từ cõi
trời sau khi thuyết pháp cho mẹ; ít thấy hơn là vẽ cảnh Đức Phật thuyết pháp
cho 5 anh em Kiều Trần Như hay Đức Phật thuyết pháp. Bích họa về cuộc đời Đức
Phật là một tập thành quan trọng của mỹ thuật truyền thống Khmer. Trải qua lịch
sử, ngày nay qua các bích họa còn tồn tại, chúng ta có thể thấy quy phạm tạo
hình và phong cách nghệ thuật từ kỹ pháp đơn tuyến bình đồ của phong cách tạo
hình dân gian đến kỹ pháp vờn màu tạo khối đến kỹ pháp của hội họa hiện đại đạt
được chuẩn tắc, phối màu và xử lý ánh sáng khá hoàn hảo. Mặt khác, chúng ta
cũng thấy được các bích họa được thực hiện bằng những chất liệu tạo màu khác
nhau, từ phẩm màu cổ xưa đến bột màu nước, sơn dầu… Nói chung, bích họa ở chùa
Khmer là một di sản mỹ thuật đáng được chú ý bảo quản. Rất tiếc, trên đà trùng
tu/tái thiết hiện nay, người ta tuồng như không quan tâm đến việc bảo tồn di sản
văn hóa-nghệ thuật bằng việc tân tạo triệt để, càng tân kỳ càng tốt, càng màu
mè càng hay, càng vàng son rực rỡ càng… mỹ lệ!
HUỲNH THANH BÌNH
Tài liệu tham khảo:
1. Renou Louis, Jean Filliozat. L’Inde Classique, Tập II, tái bản bản in năm 1953, EFEO, Paris,
2000.
2. Johnston Edward H., Buddhacarita or Acts of Buddha, Motilal Bnarsidass xb, Delhi 2004
(tái bản bản in năm 1936).
3. Rachet Guy, Lalitavistara,
Vie et Doctrine du Buddha Tibétain, Éditions Sand, Paris, 2000.
4. Bareau André. Quelques
Ermitages et Centres de Méditation Bouddhique au Cambodge, BEFEO, Paris,
1969, 56: 11-28.
5. Lopez Donald S., Buddhist Scriptures, Penguin Books xb, London, 2004.
6. Giteau Madeleine. Les Peintures Khmèrs de l’Ecole de l’Okna Tep Nimit Nak, Udaya,
Phnom Penh, 2003.
7. Vittorio Roveda,
Sothon Yem. Buddhist painting in Cambodia.
River book xb, 2009, tr.127-170.
Chú thích
hình:
C1: Giấc mơ của hoàng hậu Maya, chùa Hòa
Bình cũ, Hòa Bình, Bạc Liêu
C2: Sự ra đời của hoàng tử Siddharta và Bảy bước,
chùa Âng, Trà Vinh
C3: Lễ tịch điền, chùa Hòa Bình cũ, Hòa
Bình, Bạc Liêu
C4: Bốn cuộc chạm trán bất ngờ, chùa Hòa
Bình cũ, Hòa Bình, Bạc Liêu
C5: Cuộc ra đi vĩ đại, chùa Âng, Trà Vinh
C6: Cắt tóc đi tu, chùa Seray Kandal, Vĩnh
Châu, Sóc Trăng
C7: Siddhartha và cái bát vàng, chùa Điệp Thạch,
Châu Thành, Trà Vinh
C8: Đánh bại Ma Vương (Mara), chùa Seray
Kandal, Vĩnh Châu, Sóc Trăng
C9: Kỳ tích khu rừng Parilyyaka, chùa Hòa
Bình cũ, Hòa Bình, Bạc Liêu
C10: Angulimala, chùa Hòa Bình cũ, Hòa Bình,
Bạc Liêu
C11: Sự phân phát xá-lợi, chùa Sampiel, Tri Tôn,
An Giang