Doanh sự Tỳ-kheo
doanh su
Doanh sự Tỳ-kheo
Chân
Hiền Tâm
Doanh sự
Tỳ-kheo là danh vị dùng để chỉ cho chư vị Tỳ-kheo có trách nhiệm
quản lý các việc trong Tăng chúng.
Trong
một gia đình, chỉ vài đứa con, việc quản lý cho được chu toàn còn
khó, huống là trong tùng lâm, nơi mà tứ phương không cùng huyết thống
tụ lại với số lượng khá lớn, không phải là việc dễ dàng. Cho nên,
để những vị Doanh sự có thể làm tốt trách nhiệm của mình, Phật đã
đưa ra 6 tiêu chuẩn
mà Doanh sự Tỳ-kheo cần có, để chư vị có thể đảm nhiệm tốt chức vị
quản lý chúng sự.
Sáu hạng Tỳ-kheo Phật cho phép làm Doanh sự
1/ Người hay trì giới thanh tịnh. Đây đang nói về Doanh sự Tỳ-kheo nên giới thanh tịnh
tối thiểu mà chư vị phải trì chính là giới của Tỳ-kheo. “Hay trì”
cũng có nghĩa là “thường trì”. Đã thường thì “giới” liền thành
“tánh”. Khó có gì lay chuyển khiến chư vị phạm giới.
Tế hơn
nữa là trì giới tâm, lục căn không nhiễm lục trần.
Do việc
trì giới như thế mà khi hành sự, vị Doanh sự không bị vật chất làm
nhiễm khiến khởi tham tâm, không bị chúng sự làm nhiễm mà nổi tâm sân.
Bình lặng. Ổn định.
Trì
giới thanh tịnh còn là cái nhân khiến người dưới kính trọng, được
người trên hộ trì, việc dễ thành tựu.
2/ Người sợ nơi đời sau, ví như kim cương. Là chỉ cho chư vị tin có đời sau và tin sâu nhân quả.
Lòng tin này kiên cố không gì lay chuyển được, nên nói “như kim cương”.
Người tin sâu nhân quả và tin có đời sau thì nhất định “quản lý” bản
thân phải tốt. Không tham lậm của thường trụ, không tranh dành, bè
phái trong tùng lâm v.v.., có thể hoàn thành trách nhiệm và bổn phận
được giao với sự cố gắng nhất.
3/ Biết các nghiệp báo. Là
biết mọi tạo tác thiện ác gây ra trong hiện đời đều có cái quả khi
đủ duyên. Những tạo tác nào do tham-sân-si dẫn đường thì quả là ba
đường dữ, dù được đầu thai làm người thì cũng gặp nhiều khổ nạn
không vơi. Những tạo tác nào mang tính định tĩnh và trí tuệ thì cái
quả là Trời Người hạnh phúc.
Biết
nghiệp báo, cũng có nghĩa là tin có 10 đường Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sinh, Người, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật. Tin chết
chưa hết. Tin có sự tái sinh luân chuyển qua các đường: Người do ác
nghiệp có thể thành Súc sinh. Ngạ quỷ mà mở tâm thì có thể sinh cõi
Trời (tích bà Thanh Đề) v.v…
Biết
nghiệp báo, cũng có nghĩa là tin hiểu cái nhân thâm lạm thường trụ
đưa đến nghiệp báo gì, cái nhân quở người không đúng đưa đến cái quả
gì v.v…
4/ Có tâm tàm quý và lòng hối lỗi. Đây là việc tối quan trọng của người tu cũng như người
đời. Vì thế ngay cả khi nói đến việc bất động thì cũng là bất
động trong tàm quý. Đó mới là bất động mà Đức Phật đã nói.
Trong
quá trình làm việc, khó mà không có sai lầm. Vì thế nếu không có
tâm tàm quý cũng như tâm hối lỗi thì khó mà hành sự được tốt. Người
có tâm tàm quý, tự mình rút kinh nghiệm về những sai trái của mình,
không cần người khác nhắc nhở. Tự rút kinh nghiệm cho mọi hành tác
của mình đối với người, để mọi việc được tốt đẹp hơn.
5/ A-la-hán. Là cực quả trong
Tứ quả. Ngã đã không, có định lực, trí tuệ và thần thông nên việc
hành sự đương nhiên thuận pháp.
6/ Có khả năng tu tập Bát-bối-xả. Bát bối xả, còn
gọi là Bát giải thoát, là 8 loại thiền giúp hành giả thoát khỏi
phiền não trong tam giới.
Cần đáp
ứng được một trong 6 tiêu chuẩn đó là có thể đảm nhiệm chức vụ
Doanh sự.
Ngoại
trừ địa vị A-la-hán, là người rõ mình, rõ người, rõ việc trong ba
thời, còn lại đều có điểm chung là giới luật cần nghiêm minh, tin sâu
nhân quả, có tâm tàm quý biết hối lỗi, tu tập giáo pháp hướng về thánh
đạo. Cũng không ra ngoài giới-định-tuệ. Bởi không giới thì không định,
không định thì không tuệ. Không tuệ thì không biết tàm quý, không biết
giá trị của việc trì giới, không tin sâu nhân quả v.v… Kinh nói: “Trì giới là biểu thức của thánh nhân, nhập Tứ thánh đế là biểu
thức của thánh nhân v.v…”.
Không có các việc đó thì trách nhiệm không hoàn thành, việc quản
chúng thất bại.
Vì sao cần một trong các tiêu chuẩn trên?
Vì Tăng
chúng không thuần một hạng người. Việc này do tập nghiệp ở mỗi vị
mà ra. Theo cách Phật nói là “Nhiều thứ tánh, nhiều thứ tâm, nhiều
thứ giải thoát, nhiều thứ đoạn kiết sử”. Hiện tướng là, vị thì thích
chỗ không không tịch, vị thì thích ở núi rừng, vị thì thích ở gần
tụ lạc thanh tịnh trì giới, vị thì siêng tu đa văn, vị thì thích
biện nói các pháp, vị thì thích trì giới luật, vị thì thích du
hành qua các tụ lạc vì người nói pháp, vị thì thích khất thực, vị
thì thích lìa tứ ách v.v… Nhiều tâm nhiều tánh như thế mà muốn Tăng
nhân hòa hợp an ổn trong Tăng chúng, đòi hỏi Doang sự Tỳ-kheo phải
biết ý mà sắp đặt, để hạn chế những khuyết điểm cũng như ưu điểm
mà Tăng nhân ấy đang có. Ưu điểm là những hành vi thuận với con đường
giải thoát. Những ưu điểm này nếu được phát triển sẽ khiến Tăng nhân
ưa thích chốn tùng lâm, tăng tiến đạo hạnh. Khuyết điểm, là những gì
không tương ưng với con đường giải thoát. Nó có khuynh hướng phá vỡ
sự hòa hợp của Tăng đoàn, khiến Tăng nhân xa rời đạo pháp. Chỉ một
việc như thế thôi, cũng không phải là việc dễ dàng đối với một Doanh
sự Tỳ-kheo khi chúng lên đến vài trăm người. Đó là lý do đòi hỏi vị
Doanh sự phải có tối thiểu một trong 6 tiêu chuẩn Phật nói, để không
chỉ lợi ích cho người mà cũng là lợi ích cho bản thân. Giúp bản
thân phát triển định tỉnh và trí tuệ khi tiếp duyên. Định tĩnh trí
tuệ được thì công việc càng có thành quả.
Kinh nói:
1/ “Với Tỳ-kheo không tịch (A-lan-nhã) thì
Tỳ-kheo quản sự không nên sai khiến làm tất cả việc. Nếu là lúc họ
phải làm việc trong Tăng chúng thì Tỳ-kheo quản sự nên làm thay, nếu
tự mình không làm thì thuê người làm thay, chẳng nên để họ làm. Nếu
chẳng phải là giờ hành đạo thì nên để họ làm chút ít…”. Gọi
là Tỳ-kheo không tịch, thì vị ấy phải “thích không tịch và ở chỗ
không tịch”.
Chỗ không tịch thì không có tiếng ồn, không có thú dữ, không người
thân cận, không sở hữu, là chỗ thuận với hạnh Sa-môn, là chỗ có thể
giúp Sa-môn nhất tâm giữ chắc giới giải thoát, khéo hộ giới chúng,
tịnh thân khẩu ý, không có điều kiện làm việc dối trá quanh co, có
thể tịnh nơi chánh mạng mà hướng đến chánh định. Tỳ-kheo không tịch
thì đầu hôm cuối đêm siêng tu pháp đã thọ không trễ nãi trong ngủ
nghỉ.
Nhập
thất là một dạng của chỗ “không tịch” nói đây.
Tuy vậy,
không phải thích không tịch là đã đồng như nhau ở mặt hành sự. Tùy
nghiệp tập của từng người mà có vị an trú được hoàn toàn trong chỗ
không tịch, có vị lại chưa. Việc này đòi hỏi Doanh sự phải có cái
nhìn tùy duyên. Tùy nghiệp tập của từng người mà sắp xếp thời gian
để Tăng nhân có thể an trú chỗ không tịch không chướng ngại. Có thể
là mười năm, có thể là ba năm, có thể là sáu tháng v.v… Tối thiểu
cũng là 7 ngày. Thời gian còn lại thì làm các việc khác tùy theo
khả năng của mình.
An trú
“không tịch” là điều kiện để Tăng chúng thể nhập Đạo vô thượng, tăng
trưởng định tuệ, nên dù “không tịch” chưa phải là chỗ ưa thích của
Tăng nhân, việc an trú “không tịch” cũng là một yếu tố cần thiết
trong quá trình tu đạo mà Doanh sự Tỳ-kheo cần chú trọng, giúp Tăng
nhân quen lần với việc ở chỗ không tịch.
2/ “Nếu Tỳ-kheo siêng tu đa văn thì Tỳ-kheo
quản sự phải khuyến khích họ siêng tu đọc tụng cho thông thuộc. Tôi
sẽ vì Đại đức mà lo cung cấp phục dịch. Nếu Đại đức siêng tu đa văn
như vậy, là anh lạc tốt trong Tăng chúng, có thể lên tòa cao thuyết
pháp, cũng tự mình sinh trí tuệ. Với các Tỳ-kheo như vầy, Tỳ-kheo
quản sự chẳng nên sai làm việc phi thời, phải ủng hộ cho họ tu đa văn
v.v…”.
Với
người có khả năng đọc, hiểu, giải nói kinh luận thì Doanh sự Tỳ-kheo
cần cho chư vị nhiều thời gian để nghiên cứu. Thường người đã có năng
khiếu về lãnh vực này thì các lãnh vực mang tính lao động chân tay
sẽ yếu. Đây Phật nói đối với những vị như vậy cần lo cung cấp phục
dịch, cũng chẳng nên sai làm việc phi thời. Bởi thời gian dành cho việc
khác nhiều thì thời gian dành cho việc nghiên cứu sẽ ít. Nếu tập
trung năng lực cho việc khác thì năng lực nghiên cứu kinh luận cũng
sụt giảm. Vì thế Phật nói “chẳng nên sai làm việc phi thời”.
Thực tế,
ngoại trừ phần giáo dừng ở mặt hình tướng như nhân duyên nhân quả,
còn lại như giáo Bát-nhã, Trung luận v.v… nếu chỉ dừng ở mặt nghiên cứu
thì khó mà thâm hiểu cho chính xác. Vì thế, tùy duyên mà việc đa văn
nói đây có thể chỉ dừng ở mặt học hiểu, cũng có thể phải bao gồm
luôn mặt thiền định và thâm ngộ.
Thiền
tông không đặt nặng ở vấn đề học rộng mà ở phần thâm ngộ. Song không
có phần học hiểu thì không có thứ để lợi tha và kiểm nghiệm công phu
tu hành, nên đa văn trong Thiền tông gồm cả hai thứ thuyết thông và tâm
thông. Vì thế dù siêng tu đa văn, nhưng nếu chỉ dừng ở mặt học hiểu (với
cả phần thâm giáo), thì việc học hiểu trở thành chướng nạn cho việc
học pháp và giải nói Phật pháp sau này. Trường hợp này Doanh sự Tỳ-kheo
cần khéo léo, không nên hạn chế hoàn toàn khả năng đa văn của Tăng
nhân, mà khuyến khích phần nào có thể khuyến khích, hạn chế phần
nào cần hạn chế. Hướng dẫn Tỳ-kheo đa văn an trú dần vào chỗ không
tịch để cân bằng. Bởi nếu hạn chế hoàn toàn thì dễ nảy sinh việc
phản khán của nghiệp tập, khiến Tăng nhân từ bỏ tùng lâm.
An trú
chỗ không tịch và siêng tu đa văn là hai việc cần thiết cho người đã
phát tâm Bồ-đề, đi con đường giải thoát. Nó là hai yếu tố quan trọng
phục vụ cho việc tự lợi và lợi tha. Vì thế, với những ai chưa thích
hai điều trên thì Doanh sự Tỳ-kheo cũng cần sắp xếp để chư vị được
tiếp cận và an trú dần. Nếu không, kiếp sau lại tiếp tục với việc
vô văn và càng khó an trú chỗ tịch diệt khi náo động huân tập ngày
một nhiều.
3/ “Với Tỳ-kheo giỏi thuyết pháp, Tỳ-kheo
quản sự nên cung cấp mọi sự, nên tạo điều kiện để mọi người được
nghe pháp. Chỗ thuyết pháp cũng phải cung cấp đồ cần thiết. Vì
người thuyết pháp mà làm tòa cao tốt. Nếu có người muốn phá thì
Tỳ-kheo quản sự nên đến hòa giải, cũng thường khen ngợi người thuyết
pháp”. Nói giỏi thuyết pháp, thì việc thuyết pháp phải đáp ứng
được hai thứ là khế lý và khế cơ.
Khế lý
thì dù là thuyết pháp cao hay thấp, đều không thuyết những gì trái
với kinh luận. Dù hình thức diễn giải thế nào thì tinh thần cũng không
được lìa những gì mà kinh luận đã nói. Chẳng hạn, tất cả kinh luận
đều nói có địa ngục, có thân trung ấm, nhưng nghe Trung luận nói các pháp đều không mà nghĩ không có địa
ngục, không có thân trung ấm, rồi tuyên thuyết không có hai thứ đó, là
tà thuyết, rơi vào cái chấp đoạn thường. Đó là do không nắm được
mặt duyên khởi-không tánh của vạn pháp, nên mới tuyên thuyết như vậy.
Thuyết giảng vậy là lìa ngoài kinh luận mà thuyết. “Y kinh giải
nghĩa tam thế Phật oan. Lìa kinh một chữ liền đồng ma thuyết”.
Khế cơ
là điều kiện khiến người nghe pháp thấy vui thích mà làm theo và
làm được. Tuy khế cơ nhưng phải khế lý, tức không ra ngoài lý thật
mà Phật đã nói, không thì không phải là Phật pháp.
Với
hàng Tỳy-kheo biết thuyết pháp khế lý khế cơ như thế thì cần tạo
điều kiện để họ thuyết pháp. Nếu chỉ nói hay, hấp dẫn được đại
chúng mà nói không đúng lý thì không nên để chư vị thuyết pháp. Bởi
người chưa có trí tuệ thì thường chỉ tin vào màu áo Tăng nhân, chưa thể
phân biệt đúng sai trong lời nói mà chọn lọc điều đáng nghe. Có thể
gây tai họa cho người đời rất nhiều. Cũng là gây tại họa cho mình. Đại
sư Liên Trì nói: “Có người nói,
pháp sư giảng kinh thuyết pháp có công đức chuyển hóa thân tâm chúng
sinh không mang họa dễ như những thầy thí thực có trách nhiệm giao
tiếp với quỷ thần. Nói như vậy là không đúng lắm. Pháp sư giảng kinh
thuyết pháp nếu không cẩn thận, tai vạ còn lớn hơn. Thí thực chỉ có
một môn một pháp còn dễ tinh thông. Giảng kinh thuyết pháp kinh luận
quá nhiều, nếu tinh thông tất cả quả là rất khó. Nên người xưa chỉ
chuyên về một môn như Pháp hoa hay Hoa nghiêm v.v… Thời nay kinh luận nào
cũng tuyên giảng, có thật thông hơn các bậc Cổ đức không? Vì thế, có
một số không được minh sư chỉ dạy mà tự cao tự đại, nói năng bằng
cái thấy thiển cận của mình, rồi đưa ra kiến giải mới, thành lập
Tông phong mới, phê bình bậy những bậc tiên hiền. Có một số người
lấy bộ kinh luận nào đó giải thích thêm chút ít. Điều này quả thật
không đúng. Cần phải nghiên cứu sâu, tham khảo nhiều, phải lấy tâm
niệm xiển minh đạo lý làm gốc, không cầu danh lợi cho mình thì mới
mong có công đức và không tai họa”.
Việc chọn
người thuyết pháp này, đòi hỏi Doanh sự Tỳ-kheo phải có trí tuệ.
4/ Với Tỳ-kheo khéo trì giới, khéo hiểu
nghĩa luật thì Tỳ-kheo quản sự còn phải thường đến hỏi làm thế
nào để khỏi phạm tội, chẳng tổn mình, cũng chẳng hại người.
Tỳ-kheo quản sự đối với Tỳ kheo trì luật cần hết lòng kính tin
cúng dường”.
Trước
khi có Lục quần Tỳ-kheo thì không có giới luật. Sau đó Phật mới đặt
ra giới luật. Trong luật Tứ phần giới
bổn có ghi chú nhân duyên nào khiến Phật chế giới đó. Việc đó cho
thấy giới luật là pháp theo duyên. Vì thế, nó chỉ có giá trị trong một
số duyên nào đó, không phải là trong tất cả. Và giá trị của nó thường
nằm ở mặt tinh thần hơn là cố định ở mặt hình thức. Nếu thay đổi
hình thức mới giữ được tinh thần thì phải theo tinh thần mà thay đổi
hình thức. Nếu thay đổi hình thức mà mất luôn mặt tinh thần thì
hình thức đó không được thay đổi.
Như giới
“Cấm cầm báu vật”.
Xuất
hiện giới này là do vào thời Phật, có một cư sĩ ngoại đạo trên
đường đi, bỏ quên một túi vàng. Chúng Tỳ-kheo đi ngang qua, lượm được
và tìm cách trao trả. Nhưng khi nhận được vàng, người kia bảo thiếu
và kiện lên vua Ba-tư-nặc. Vua biết cư sĩ ngoại đạo nói dối nên tịch
thu luôn túi vàng. Do việc đó Phật kiết giới cấm “Cấm cầm báu vật”.
Khi đó,
bà Tỳ-xá-khư trước khi ra mắt Phật, cởi chuỗi anh lạc để dưới gốc
cây trong tịnh xá Kỳ-hoàn. Nghe pháp xong, lo tư duy pháp bà quên mất xâu
chuỗi. Tăng chúng không ai dám đụng đến chuỗi anh lạc và mang việc đó
trình lên Phật. Phật kiết thêm giới “Ở trong đất già lam cho cầm cất
báu vật”. Lại, chư vị Tỳ-kheo đi ngang qua một ngôi làng không có chùa,
ngủ nhờ ở nhà ông thợ bạc. Ông để vàng bạc đó rồi đi. Chư vị
Tỳ-kheo không dám ngủ vì sợ mất đồ. Do đó Phật kiết thêm giới “Có
thể cầm cất vật báu khi ở nhờ”. Giới “Cấm cầm báu vật” trở thành
“Cấm cầm báu vật, trừ trong Tăng già-lam và chỗ ngủ nhờ”.
Việc đó
cho thấy không phải Phật không cho cầm cất báu vật, chỉ là cho cầm
cất báu vật trong trường hợp nào và không cho trong trường hợp nào.
Việc cầm cất báu vật, nếu lợi cho người thì Phật cho cầm, nếu hại
người thì không cho cầm. Tinh thần của giới “không cho cầm báu vật”
là như vậy. Giữ là giữ phần tinh thần này, không phải cố định trên mặt
hình thức. Tùy tinh thần lợi người mà hình thức có thể thay đổi
“cho cầm cất” hay “không cho cầm cất”.
Tỳ-kheo “khéo
trì giới, khéo hiểu nghĩa luật” thì phải nắm được mặt duyên khởi
này của giới luật, phải biết thứ gì không thể thay đổi (bất biến),
thứ gì là có thể thay đổi (tùy duyên) để duy trì được phần bất
biến kia. Nắm được duyên khởi, sẽ không bị hình thức làm ngại mà
vẫn tuân thủ được giới luật mà Phật đã chế. Với cái duyên như vậy,
Doanh sự Tỳ-kheo mới có thể y đó thưa hỏi để lợi lạc quần sinh.
Tinh
thần của các việc trên là tùy tập nghiệp của từng người mà Doanh
sự Tỳ-kheo cần sắp xếp để Tăng nhân được an ổn, đạo hạnh thêm tăng
tiến. Đương nhiên trong tùng lâm, không phải chỉ có bao nhiêu đó tính
cách, còn nhiều loại khác nữa. Vị có khiếu về may. Vị có khiếu về
dịch thuật. Vị có khiếu về làm vườn v.v… Tùy nghiệp tập của từng
vị mà Doanh sự sắp xếp sao cho Tăng nhân thấy vui vẻ an ổn với cuộc
sống của Tăng đoàn là được. Có điều, phải là những loại tập nghiệp
có khuynh hướng thuận đạo, hoặc dụng nó mà không nghịch với việc tu
hành, Phật mới cho phát huy. Còn những loại tập nghiệp có khuynh
hướng khiến tâm người thêm náo loạn thì cần hạn chế, không nên tạo
duyên để chúng sinh khởi. Như vấn đề âm nhạc, là thứ mà khi thọ giới
Sa-di, nó đã trở thành giới cấm. Vì âm nhạc làm loạn tâm người tu,
nhất là tu thiền, lại là thứ người đời đa phần đều huân tập rất
mạnh. Cho nên, nếu tạo điều kiện để loại chủng tử này được phát huy
thì không nên. Thực tế, nếu tâm không động thì cũng không thích ca
hát. Thích ca hát vì tâm động.
Song
trong Phật sự, khi tiếp Phật tử là các bạn thiếu nhi, để giúp các
em tìm thấy niềm vui, bước dần vào đạo, có khi phải cần đến âm
nhạc. Song đó chỉ là phương tiện dẫn đạo mang tính tùy duyên, không
thể dùng nó một cách phổ trà trong môi trường tu học của Tăng chúng.
Các việc mà một Doanh sự Tỳ-kheo nên tránh
1/ Không
nên có ý nghĩ tài vật của Tam bảo là của mình. Với lợi dưỡng phải
có tâm biết đủ.
2/ Đối
với của thường trụ, không nên bỏn xẻn cất giấu, không nên cho phi
thời, không nên vì tình riêng mà cho, không nên khó dễ với các bậc
trì giới thanh tịnh v.v… Nói chung, không vì tham-sân-si mà cho. Nếu
không, Doanh sự Tỳ-kheo sẽ bị đọa vào Uế ác ngạ quỷ. Loại quỷ này
thường ăn phẩn, dù gặp vật ngon cũng không được ăn. Nếu được ăn, vật
phẩm liền biến thành phẩn nhơ hay mủ máu, bị đói khổ trong trăm ngàn
năm.
3/ Không
nên dùng lẫn lộn giữa tài vật của Thường trụ tăng, Tứ phương tăng và
tháp Phật. Phần cúng dường thuộc chỗ nào thì cứ y chỗ đó mà dùng
không lẫn lộn. Nếu không, sẽ mắc báo khổ lớn trong một kiếp hay
nhiều hơn, vì xâm phạm của thường trụ.
Trường
hợp tài vật thuộc Thường trụ tăng nhiều mà Tứ-phương-tăng không có
thì nên họp Tăng yết-ma. Nếu Tăng chúng đồng chấp nhận thì mới được
dùng. Trường hợp tu bổ tháp Phật cũng vậy. Nếu không có tài vật thì
họp Tăng yết-ma xin tài vật của Thường trụ tăng và Tứ phương tăng.
Nếu không xin được thì Doanh sự Tỳ-kheo có thể khuyến hóa hàng tại
gia xin tài vật để tu bổ tháp Phật. Không nên tự ý dùng lẫn lộn tài
vật của các nơi.
Trường
hợp tài vật thuộc tháp Phật, dù nhiều cũng không được mang cho
Thường trụ tăng hay Tứ phương tăng. Vì đó là tài vật thí chủ cúng
cho Phật không phải cúng cho Tăng, nên không thể tự dùng. Kinh nói: “Nếu nơi tháp Phật, trước đã có cúng
y, thì y này nên để cho gió thổi mưa rã, chẳng nên đem đổi vật khác,
dù là bảo vật. Vì vật nơi tháp Phật, không gì có thể so sánh. Phật
cũng không chỗ cần dùng”.
4/ Với
người trì giới có đức hạnh lớn và đáng kính lễ thì không nên nổi
tâm sân mà sai khiến làm việc. Vì nổi tâm sân thì sẽ đọa đại địa
ngục. Nếu được làm người thì phải làm tôi mọi bị chủ nhân sai khiến
đánh mắng khổ cực.
5/ Với
người trì giới có đức lớn thì không nên dùng việc nặng để đe dọa,
không nên dùng tâm sân nói nặng nhẹ. Nếu không sẽ đọa vào địa ngục
lưỡi dài, bị trăm ngàn đinh đóng phát lửa cháy đỏ.
6/ Không
nên dùng quyền đặt ra các quy chế quá nặng để trách phạt chư Tỳ-kheo
làm phi thời. Nếu không sẽ bị đọa tiểu địa ngục nhiều đinh, bị trăm
ngàn mũi đinh đâm vào thân thể…
7/ Với các
hạng Sa-môn nói sau:
- Chiên-đà-la
Sa-môn, là những vị ham thích lợi dưỡng, thọ hưởng của thường trụ
mà không giữ gìn giới luật, thân cận người tại gia vì lợi dưỡng
không vì Phật pháp.
- Bại
hoại Sa-môn, là những vị rời lìa pháp vị, chọn cặn phiền não, bỏ
hương trì giới, ngửi mùi phiền não. Đến chỗ nào cũng gây phiền
phức, không lợi mình cũng chẳng lợi người.
- Tráp
Sa-môn, là chỉ cho những vị, ngoài thì hiện tướng Sa-môn mà trong thì
nặng tâm cấu uế, chuyên hành ác nghiệp.
- Câu-lan-trà
Sa-môn, là chỉ cho những vị hiện tướng Sa-môn mà tâm thì ngạo mạn, tự
cao, không có chánh kiến, phá hoại giới luật. Người trí biết thì xa
lánh. Kẻ ngu thì thân cận lễ bái cúng dường, tin lời họ nói là
thật.
- Mất
huyết khí Sa-môn, là chỉ cho những vị không có huyết khí điều chỉnh
tham-sân-si. Không có huyết khí tu giới-định-tuệ. Không có huyết khí
từ-bi-hỉ-xả. Không có huyết khí tịnh thân-khẩu-ý. Không có huyết
khí an trụ Tứ thánh chúng. Nói chung, đó là hàng Sa-môn không thể
dùng Phật pháp trị bệnh cho thân tâm, thân tâm buông lung như người đời.
Doanh sự
không nên có tâm níu giữ khi họ muốn rời Tăng chúng. Vì hưởng của
Thường trụ mà không có đức hạnh, không có tâm hướng thiện thì kết
quả chỉ rơi vào ba đường dữ. Kinh
kể câu chuyện như vầy:
Khi Phật
thuyết giảng về các hạng Sa-môn bất thiện, rồi nói về cái quả của
nó, có 500 trăm vị Tỳ-kheo xả giới hoàn tục, vì thấy mình không đủ
khả năng thay đổi và giữ giới. Các Tỳ-kheo khác thấy vậy liền quở:
- Chư
Đại đức hoàn tục như thế là không hay cũng không đúng pháp.
Phật
nói:
- Các
ông chớ nói vậy. Làm như vậy mới là thuận pháp. Các Tỳ-kheo kia
thối lui hoàn tục vì tín tâm tính giải nhiều, vừa nghe lời dạy xong,
liền sinh lòng hối lỗi. Này Đại Ca Diếp! Nay ta nói chư Tỳ-kheo hoàn
tục này, sau khi mạng chung, sinh cõi trời Đâu Suất, chỗ của Bồ-tát
Di Lặc. Thời Di Lặc Như Lai xuất thế, chư Tỳ-kheo ấy sẽ ở trong pháp
hội đầu tiên”.
Câu
chuyện ấy cho thấy không phải cứ mặc được áo Sa-môn là đã thành
Sa-môn, là đã có công đức mà khởi tâm cho ta hơn người. Có sự lầm
lẫn không nhỏ ở chỗ này. Kinh nói: “Này
Ca Diếp! Ta chẳng nói cạo đầu, đắp y gọi là Sa-môn. Mà ta nói người
có công đức và nghi thức đầy đủ, gọi là Sa-môn”.
Cho nên, không có tâm Sa-môn chịu hàng phục phiền não, kiêu mạn v.v…
thì chỉ là nhân duyên đưa “Sa-môn” vào đường dữ, không phải là điều
tốt đẹp khi thân hưởng của thường trụ mà tâm không phải là Sa-môn.
Doanh sự Tỳ-kheo nắm rõ điều này sẽ linh hoạt trong việc giữ chúng
hay không giữ chúng. Cho nên, có khi không giữ chúng mới là lòng từ
của một Doanh sự Tỳ-kheo.