Tản mạn trong cõi âm thanh
tan man
Huỳnh Ngọc Chiến
Nhà
thơ Tô Đông Pha có lần nghe một người họ Thẩm chơi đàn cầm, và tặng một bài thơ
cắc cớ:
Nhược ngôn cầm thượng hữu cầm thanh,
Phóng tại hạp trung hà bất minh?
Nhược ngôn thanh tại chỉ đầu thượng,
Hà bất ư quân chỉ thượng thính?
Đại
khái có nghĩa như vầy:
Nếu bảo rằng trong
đàn có tiếng đàn, vậy tại sao khi đặt cây đàn vào hộp đàn thì nó không
kêu? Còn nếu cho rằng âm thanh đó ở trên đầu ngón tay, vậy tại sao không
nghe ra tiếng đàn nào trên ngón tay ông?
Nếu giải thích theo “tinh thần khoa
học” thì ta sẽ
bảo rằng: khi ngón tay chạm vào dây đàn sẽ tạo ra một dao động, dao động
đó truyền trong không khí theo dạng sóng âm đến tai ta, rồi truyền tiếp cảm
giác đó đến não bộ, và ta cảm nhận được cái gọi là âm thanh. Nhưng nếu bây giờ
ta đặt tiếp một câu hỏi cắc cớ khác: “Sao gọi là âm
thanh?” thì ta lại tập tễnh
đặt chân vào cảnh giới vi diệu của âm thanh.
Tôi vốn mê âm thanh. Từ thuở bé, tuy sống trong một thị trấn
quê mùa, nhưng tôi luôn nghĩ mình được sống trong thế giới huyền diệu của âm thanh.
Tiếng mưa rơi trên tàu lá chuối, tiếng gió chiều trên đồng lúa chín, tiếng ve râm
ran giữa trưa nắng hạ, tiếng sáo dìu dặt đêm trăng, tiếng gà gáy giữa trưa hè,
tiếng chim ríu rít khi về làm tổ trên đọt cây sau nhà, tiếng lửa reo trong bếp
giữa chiều đông, thậm chí cả tiếng gió thét mưa gầm mùa giông bão v.v... luôn
đem lại cho tôi những cảm xúc lạ lùng. Sau này, khi đọc U mộng ảnh của Trương Trào, những câu văn ngắn bàn về âm thanh của
một tay tài tử lỗi lạc đời Thanh làm tôi say đắm, và tôi bỏ thời gian dịch tác
phẩm nho nhỏ này, để tìm chút cảm hứng cùng tác giả trong cái thế giới kỳ diệu
kia.
Mùa xuân nghe tiếng chim hót, mùa hè nghe tiếng ve ngâm, mùa thu
nghe tiếng côn trùng rả rích, mùa đông nghe tiếng tuyết rơi, ban ngày nghe tiếng
đánh cờ, dưới trăng nghe tiếng tiêu réo rắt, trong núi nghe tiếng gió thổi ngàn
thông, bên nước nghe tiếng sóng vỗ, mới không sống uổng phí một đời.
(Xuân thính điểu thanh; hạ thính thiền thanh;
thu thính trùng thanh; đông thính tuyết thanh; bạch trú thính kỳ thanh; nguyệt
hạ thính tiêu thanh; sơn trung thính tùng phong thanh; thủy tế thính nội nãi
thanh; phương bất khư sinh thử nhĩ.)
Dưới thông nghe tiếng đàn cầm, dưới trăng nghe tiếng tiêu, bên
khe nghe tiếng thác đổ, trong núi nghe tiếng tụng kinh, tai nghe ra mỗi tiếng đều
có ý vị riêng.
(Tùng hạ thính cầm, nguyệt hạ thính tiêu, giản
biên thính bộc bố, sơn trung thính phạn bối, giác nhĩ trung biệt hữu bất đồng.)
Cảm nhận và thưởng ngoạn được những âm thanh rất đỗi trần
gian đó, tôi cho là một phần hạnh phúc của đời người. Người xưa không bao giờ
mô tả âm thanh theo các thuộc tính của sóng âm như biên độ, bước sóng, dạng
sóng v.v... theo kiểu các nhà khoa học hiện đại, mà họ chỉ cảm nhận âm thanh. Và
họ làm thơ để diễn đạt cảm xúc đó. Thơ Đường − Tống có rất nhiều bài diễn đạt cảm
xúc này đến mức thượng thừa. Tôi xin trích thử hai câu diễn tả tiếng đàn không
hầu trong bài Lý Bằng không hầu dẫn (Bài
thơ về tiếng đàn không hầu của Lý Bằng) của nhà thơ Lý Hạ.
Côn sơn
ngọc toái phượng hoàng khiếu
Phù
dung khấp lộ, hương lan tiếu.
(Nghe
như tiếng hót phượng hoàng
Côn
sơn ngọc vỡ trên ngàn xa khơi
Phù
dung khóc hạt sương rơi
Còn
nghe e ấp nụ cười hương lan)
Thử hỏi tiếng ngọc vỡ hay tiếng phượng hoàng hót thì nói được
gì về âm nhạc? Giả sử có kẻ tài tử nào đó trong đời, đem tiền muôn bạc vạn mua
ngọc Côn Sơn về đập vỡ để nghe được tiếng ngọc tan, vì thói cuồng ngông một
thuở, như Trần Tử Ngang đập cây cổ cầm quý giá, thì cái đó cũng chỉ nói lên được
tiếng nhạc trong muôn một. Nhưng dù sao tiếng ngọc vỡ trên núi Côn Sơn, tiếng
chim phượng hoàng lãnh lót vẫn còn có thể nói lên được tiếng nhạc, vì đó là âm
thanh. Thế còn hoa phù dung khóc sương mai, và đóa hương lan vừa hé nụ nói lên
được điều gì về tiếng đàn?
Tôi thường ngẫm nghĩ tại sao đối với lục trần của thế gian:
sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp, mà trong tín ngưỡng của Phật giáo chỉ có mỗi một
Bồ-tát Quán Thế Âm để quán tưởng âm
thanh của thế gian. Sắc, hương, vị há chẳng đáng để quán tưởng sao? Sao lại không
có Bồ-tát Quán Thế Sắc, Bồ-tát Quán Thế
Hương? Khi một hài nhi tiếp xúc với thế giới ngoại tại thì vị mới là cái được đứa bé cảm nhận trước
tiên. Mắt nó chưa phân biệt được các đối tượng của sắc, tai chưa phân biệt được
các đối tượng của thanh, mũi chưa phân biệt được các đối tượng của hương, thân
chưa cảm nhận được sự cứng mềm, nhưng lưỡi của nó phân biệt được ngay sự khác
biệt giữa một giọt sữa với giọt mật. Vậy thì khi muốn tiếp xúc với thế gian, lẽ
ra vị mới là đối tượng cần quán tưởng
trước tiên, chứ đâu phải âm? Kinh Phật
thường diễn tả cảnh tượng Đức Phật phóng tướng lưỡi bao trùm cả tam thiên đại
thiên thế giới khi thuyết pháp, tôi cho rằng đó chỉ là cách diễn đạt tư tưởng
này bằng hình tượng. Giống như Lý Hạ dùng hình ảnh hoa phù dung khóc sương mai
cùng đóa hương lan vừa hé nụ để tả tiếng đàn. Thiền tông có giai thoại Văn thanh nhập lý (nghe âm thanh mà ngộ
nhập chân lý) và lạ lùng hơn nữa là công án Chích
thủ diệu thanh (âm thanh kỳ diệu của một bàn tay). Tên gọi của công án này
khiến ta không thể không nhớ đến bài thơ của Tô Đông Pha. Âm thanh ở đâu ra từ
lòng một bàn tay?
Tôi cho rằng cảnh giới vi diệu nhất của âm thanh vẫn là âm
nhạc. Nhất là nhạc cổ điển. Thế giới âm nhạc đó đôi lúc làm ta nghẹn lời, và đôi
khi nghe nhạc, ta có cảm giác mình như đang trôi đi trong một thế giới được dệt
toàn bằng tơ nhạc. Có lẽ tiếng chim Ca Lăng Tần Già trong cõi Phật cũng chỉ vi
diệu đến thế mà thôi.
Tôi vẫn thường nghe nhạc qua dàn máy vi tính, với chút thiết
bị bổ sung để nâng cao chất âm. Và cứ nghĩ đó là âm nhạc! Nhưng có lần tình cờ
theo chân một người bạn đi vào thế giới của những người đam mê thiết bị âm nhạc
− nơi mà những người nghe nhạc thường diễn tả bằng khái niệm hi-end. Đây là thế giới của những thiết
bị nghe nhạc cao cấp. Từ dàn máy nghe nhạc vài chục ngàn đô đến hàng vài trăm ngàn
đô, thậm chí cả triệu đô, đều có cả. Một bộ loa − chỉ một một loa thôi − có giá
ngang một ngôi biệt thự, hoặc một hệ thống dây nối có giá bằng cả một chiếc ô
tô đời mới, chắc là điều khó ai hình dung nỗi. Có thể đó là một thế giới xa xỉ
của những thiết bị, nhưng tất cả đều cố gắng đạt đến một mục đích chung, đó là tái
tạo sự vi diệu của âm thanh. Những thiết bị có giá tiền chóng mặt này dường như
đang cố gắng khai mở thêm những điều huyền diệu còn ẩn tàng trong âm thanh. Âm
nhạc ở mức này như được nâng lên một tầm cao khác. Nghe những bản concerto dành
cho piano của Mozart, qua tiếng đàn của Martha Argerich hay Rubinstein, trên dàn
thiết bị audio cao cấp, có những đoạn khiến ta tưởng như những viên ngọc đang
được rải trên một cái mâm bằng pha lê. Âm thanh trong vắt, như dòng suối, khiến
ta không thể không liên tưởng đến “Côn Sơn ngọc toái, phượng hoàng khiếu”! Từng nốt nhạc trong phần mở đầu bản Sonnate ánh trăng của Beethoven nghe
như từng giọt trăng đang lặng lẽ rơi trong cảnh đêm thanh tĩnh. Đó chẳng phải
là “phù dung khấp lộ hương lan tiếu” đó sao?
Nhưng trong cái thế giới hi-end đó, thiết bị, dù có đắt đến mức nào, cũng chỉ là “phương tiện
thiện xảo” để giúp người
nghe cảm nhận và vươn đến đỉnh cao của âm nhạc. Và đỉnh cao đó hình như vẫn
luôn là huyền án lửng lơ trong cõi “quán thế âm”. Nhưng điều
nhiệm màu của âm nhạc là đưa người nghe vào cảnh giới không còn người nghe,
không còn thiết bị, mà chỉ toàn là âm nhạc. Giống như cảnh giới không còn ngã
tướng, nhân tướng, thọ giả tướng.
Tôi chợt cảm nhận ra được nhiều điều khi bước vào cái thế
giới âm thanh. Nó vi diệu quá, mà tục trí của ta chỉ cảm nhận được phơn phớt
bên ngoài. Và tôi hiểu vì sao, trong Phật giáo, hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm lại
có một ảnh hưởng to lớn như thế, suốt mấy ngàn năm.