Sơ đồ tâm thức theo Phật giáo
so do
Con người sống trong hai thế giới, thế
giới bên ngoài và thế giới bên trong.
Nhưng thường khi chúng ta chỉ biết thế
giới bên ngoài, bởi vì từ sáng tới tối chúng ta bị
lôi cuốn ra thế giới bên ngoài, hơn nữa có tới năm cửa để mỡ ra bên ngoài và chỉ
có một cửa để mỡ vào thế giới bên trong. Năm cửa đó là ngũ căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và cửa kia là cửa ý. Vả
lại chúng ta không quen để quay cái nhìn vào bên trong và cũng không biết rằng
con người có một đời sống tâm linh rất dồi dào, nếu biết khám phá và
khai thác nó.
Những
ba động (vibration) đến từ thế giới bên ngoài (ngũ trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc) được tiếp nhận bởi năm giác
quan (ngủ căn) làm rung động các dây thần kinh cảm giác. Tất cả ngũ căn và
ngũ trần đều là sắc pháp.
Các ba động này sau khi đã xuyên qua các giác quan thì chúng trở thành những cảm giác và được đưa vào thế giới bên
trong là thế giới của não bộ (ý căn), cũng là một sắc pháp. Ý căn
làm việc theo những nhiệm vụ chuyên biệt (như tri giác, ghi nhớ, tưởng tượng,
suy nghĩ…). Dựa theo khoa học, chúng tôi xin đề nghị định nghĩa Ý CĂN là một tập hợp các tế bào thần kinh (neurone)
cùng làm một nhiệm vụ trong cùng một lúc, từ những neurone đầu tiên tiếp nhận sự
kích thích cho tới những neurone cuối cùng, kể cả những khớp thần kinh
(synapse) và những trung khu thần kinh (centre, noyau) cho tới khu vỏ não (aires
cérébrales) cùng rung động một lúc (décharge en synchronisation).
Chúng ta có lý do để nghĩ như vậy:
-
Trong bộ Pattana, Đức Phật đã nói đến
căn cứ điểm của tâm thức bằng danh từ Yamrùpanissaya, nghĩa là nương theo sắc pháp ấy, mà Vi diệu pháp gọi là Sắc ý vật.
- Tâm lý học Phật giáo cũng ghi nhận
các sắc pháp sinh hoạt theo từng đoàn từng nhóm.
Thế giới nội tại là một thế giới phức tạp
bao gồm nhiều yếu tố có khi dễ nhận (ý thức được), có khi khó nhận, có khi
không nhận được (vô thức). Muốn ý thức ghi nhận được phải có một số điều kiện,
chẳng hạn sự chú tâm (attention), sự tỉnh táo sáng suốt (vigilance) và sự không
bị thương tổn của ý căn… Các nhà tâm não học (neuroscience) đang tranh cãi về vị
trí và sự vận hành của ý căn. Họ được chia làm hai nhóm: nhóm khuynh hướng Toàn
Diện (holisme) cho rằng sự vận hành của óc não cần thiết phải có một cái gì
toàn diện không phân chia (un tout non dissociable). Nhóm khuynh hướng Định Vị
(localisationnisme) đi tìm định vị những vùng não (aires cérébrales) cần thiết
để thi hành một nhiệm vụ.
Mỗi
nhà bác học đưa ra một giả thuyết khác nhau. Ông Francis Grick trước đó đã
nghĩ rằng tâm thức nằm ở những neurones ở lớp năm của vỏ não là lớp ở tầng sâu
nhất của sáu lớp mỏng chồng chất lên nhau tạo thành vỏ não. Nhưng ở cuối đời
ông đã bỏ ý tưởng này mà vẫn giữ quan điểm “có một định vị tâm thức trong
một thể tương giao các nơ-rôn (corrélats neuronaux de la conscience) ”.
Đối
với hai ông Stanislas Dehaene và
J.P.Changeux, thì tâm thức hoạt
động
trong “hai khoảng không gian khác
nhau” (les deux espaces de travail du cerveau): một khoảng gồm những
processeurs chuyên biệt, tự động và vô thức và
một khoảng hoạt động toàn bộ (espace global de travail) của các neurones; một
mặt vừa cho những tín hiệu cảm giác xâm nhập vào tâm thức từ dưới lên trên,
một mặt kiểm soát từ trên xuống dưới những tri giác chủ quan. Riêng ông Gerald
Edelmann (giải
Nobel Y học và Sinh học 1972) nhấn mạnh tới một vùng “nhân sinh động (noyau dynamique)
” tập hợp nhiều nhóm neurones, vào
một lúc nào đó chúng tác động lên nhau hơn là lên các nhóm neurones
khác để cùng thi hành một nhiệm vụ.
Phật giáo quan niệm hơi giống hai ông
Dehaene và Changeux là có một trường hoạt động chung và những trường hoạt động
chuyên biệt trong đó diễn ra những tiến trình tâm. Khi có cảnh (bên ngoài hoặc
bên trong) xuất hiện thì những tiến trình này biểu lộ ra ý thức, tiến trình sau
đuổi (tiếp nối) tiến trình trước, không ngừng biến đổi liên tục. Khi không có cảnh
thì tâm chìm vào vô thức, nhưng vẫn hoạt động tự động, âm thầm để giữ gìn sự
liên tục của dòng tâm thức, của cuộc sống óc não. Tuỳ
theo từng loạt liên tiếp các tiến trình (lộ trình) theo một nhịp điệu nhất định
nào đó, ta có một loại sinh hoạt nào đó của tâm cũng như muốn nhận biết bằng mắt (tri giác) một
đối tượng, phải có một lộ trình nhãn thức, tiếp theo là bốn lộ trình ý môn.
Các nhà tâm não học (neurosciences)
chưa định nghĩa được tâm, chưa biết nó vận hành như thế nào thì làm sao xác định
được tâm nằm ở đâu. Phật giáo có một cái nhìn khá toàn diện và đầy đủ về tâm,
cho ta biết tâm có bốn sắc thái:
1-
Một thuộc cảm tính (sensitivité = thọ)
trong đó bao gồm tình cảm (sentiments) và cảm xúc
(émotions).
Tình cảm thì có
ba loại: ưa thích (attractivité), ghét bỏ (répulsivité), và dửng dưng (indifférence).
Ba
loại tình cảm này xuất phát từ ba loại cảm giác: - dễ chịu (agréable),
khó chịu (désagréable),
và trung tính (neutre).
Cảm
xúc thì có nhiều loại,
chủ yếu có năm loại chính: vui, buồn, sợ hãi,
tức giận, lo âu (trong đó chỉ có vui là tích cực thôi).
2- Sắc thái
thuộc tri
giác (perception
= tưởng)
Tri giác là khả năng ghi nhớ, hình dung, diễn
dịch một hình ảnh, âm thanh, mùi vị, một cảm giác xúc chạm hay một biểu tượng
đã biết từ trước. (khả năng diễn dịch một cảm giác thành ý nghiã). Trong đó bao gồm:
- Trí nhớ là tưởng về quá khứ.
-
Tưởng tượng là
tưởng về tương lai.
-
Tri thức (connaissance)…
3-
Sắc thái thuộc hành động (formations mentales = hành)
Lời nói và hành động là kết quả của sự
làm việc của tâm thức. Trong nầy ta
tìm thấy:
- Ý định (intention)
-
Quyết định (décision)
-
Suy nghĩ tính toán (réflexion) v.v…
Đối với Phật giáo, sắc thái hành động này
rất quan trọng, khi tâm hành động với một ý định là nó đã tạo nghiệp, tùy ý định
này thiện hay bất thiện và sau đó sớm muộn quả sẽ trỗ tốt hay xấu.
4- Sắc thái
thuộc về sự nhận thức
(conscience = thức) hay những cánh cửa mở vào
ý thức trường (porte d’entrée dans le champ de conscience). Chúng ta có:
- Năm thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
Năm thức này chỉ hoạt động khi có đối tượng xuất hiện từ thế giới bên ngoài.
- Ý thức (conscience) hoạt động khi có
cảnh bên ngoài hoặc bên trong.
- Vô thức (inconscience) hoạt động khi
không có cảnh, tâm phải tự tạo ra cảnh bằng cách lấy chất liệu từ những chủng tử
lưu truyền từ những tiền kiếp (A-lại-da thức hay tâm Hữu phần).
Năm thức hoạt động rất chuyên biệt, mỗi
thức cho ta nhận biết một đối tượng riêng biệt, không lẫn lộn: nhãn trần, nhĩ
trần, tỷ trần, thiệt trần và xúc trần.
Ngũ trần => tiếp xúc ngũ căn => ngũ thức.
Ở
đây tôi muốn nhấn mạnh tới xúc trần được
nhận biết qua cửa thân, là một đối tượng rất quan trọng trong thiền tập,
cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Nó cho ta biết những cảm giác sau: nóng, lạnh,
cứng, mềm, nặng, nhẹ, thô, mịn, đau, sướng, chuyển động, bất động. Hai cảm
giác đau, sướng có thể làm cho chúng ta dính mắc hay xa lìa thân xác, dục lạc.
Trong thiền tập, khi chúng ta tập trung
sự chú tâm vào hơi thở ở bụng hay ở mũi, hay tập
trung vào tư thế đi, đứng, ngồi, nằm là chúng ta đã sử dụng cửa thân.
Thỉnh
thoảng chúng ta nghe tiếng động là nhĩ trần đã tiếp xúc với nhĩ căn. Khi chúng ta nhìn là nhãn trần tiếp
xúc với nhãn căn… Khi chúng ta vọng
tưởng là
pháp trần đã đi vào ý
thức qua ngã ý căn. Phiền
não có thể xâm nhập ta qua sáu ngã. Bởi vậy ta phải canh chừng cả sáu cửa.
[Tâm
lý học Phật giáo cũng cho biết tâm vận hành theo luồng sóng (lộ trình). Mỗi lộ trình
có trung bình 17 sát-na tâm. Mỗi sát-na tâm là một đơn vị thời gian tâm ngắn
nhất mà một loại tâm có thể hiện hữu. Nhưng muốn hành động thì phải tập hợp thành lộ trình. Lộ trình ngắn nhất
như nhập thiền diệt thì cũng phải có 10 sát-na tâm.
Nhiều lộ trình tâm xảy diễn liên tiếp
theo một tiết nhịp (séquence) nào đó, sẽ tạo thành một sinh hoạt tinh thần nào
đó trong đời sống. Tâm có 455 cách vận hành, tuỳ theo tâm ở trong trạng thái
nào: thức, ngủ, chiêm bao, trong thiền, trong lúc chứng đắc… Như vậy có 455 trạng thái tâm căn bản làm khung cho
121 loại tâm làm việc, mỗi loại tâm trên sẽ cho ra một loại trạng thái tâm
riêng biệt.
Phật giáo cũng cho ta biết tâm có 14
nhiệm vụ trong một lộ trình: tử, tái
sanh, hộ kiếp, khán môn, 5 thức, tiếp thâu, quan
sát, quyết định, tác hành, lưu chép].
Trở lại tiến trình của cảm giác, sau
khi đi ngang qua một giác quan, nó được xử lý (traiter) bởi ý thức, được nhận
diện, được đặt tên và gắn cho nhiều thuộc tính (qualificatif): xấu, đẹp, đáng
ưa, đáng ghét, đáng buồn, đáng sợ,… từ đó nó trở thành một tri giác
(perception).
Tri
giác là sự diễn dịch một cảm giác thành ý nghĩa. Như khi ta nghe một âm thanh,
ta biết đó là tiếng chim hót, chứ không phải là tiếng chó sủa. Như khi ta nhìn
con gà, ta biết đó là con gà chứ không phải là con chim quốc (trông gà hóa quốc). Trừ phi bị chứng agnosie (sự mất nhận thức).
Mỗi người có một cái nhìn khác nhau về
cùng một sự vật, tuỳ theo sự hiểu biết, trình độ văn hóa và tâm linh hay tâm trạng
của người quan sát (người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ). Thí dụ: khi đưa một đồng 10
Euros bằng bạc cho một đứa bé 5-6 tháng thì nó chẳng biết đó là cái gì,
mặc dù hình ảnh trên võng mô (rétine) của nó giống y hệt hình ảnh trên võng mô
của ta. Nó có thể đưa vào miệng để gậm. Đưa cho một em bé 5-6 tuổi, nó biết đó
là một đồng tiền nhưng chưa biết giá trị đích thực. Đưa cho một người lớn bình
thường họ biết đồng tiền này có thể mua một vé ciné. Đưa cho một người có đầu
óc sưu tầm (collectionneur), họ biết được đồng bạc này có giá trị hơn 10 Euros
nếu biết để dành. Nếu là một vật tốt đẹp, quý giá thì lòng tham có thể nổi dậy
và tâm sanh ra tư tưởng làm sao để có được hoặc chiếm hữu. Nếu là một đối tượng
trái ý, nghịch lòng thì tâm sân sẽ nổi lên và sẽ có ý tưởng ghét bỏ, loại trừ,
tiêu diệt đối tượng.
Tư tưởng là sản phẩm của ý căn. Tới đây hành
trình tư tưởng sẽ chia ra hai ngã. Một ngã, chúng ta có những tà tư duy, những ý tưởng
tiêu cực (négatif), xấu xa đen tối. Những ý
tưởng này làm khởi sanh những cảm xúc
tiêu cực như: tức giận, sợ hãi, đau buồn hoặc lo âu. Rồi những cảm xúc này,
tới phiên chúng gây ra những phản ứng xuẩn động: mắng chửi, đánh đập, tàn hại hay tự mình
làm khổ mình, khổ người. Con người bị giam hãm trong cái vòng lẫn quẫn đen tối: tà tư duy <=> cảm xúc <=> phản ứng. Cái này
sinh ra cái kia và ngược lại. Con người bị nhốt chặt trong ý nghĩ, cảm xúc
và phản ứng của chính mình.
Ngã
thứ hai là ngã chánh đạo: con
người sẽ có tư tưởng thiện lành (chánh tư duy), có những lời chân chánh dịu
dàng (chánh ngữ), có những hành động hướng thiện (chánh nghiệp).
Cái gì có thể phá vỡ cái vòng lẫn quẫn
đen tối trên và chuyển đổi, ngăn chặn ta đi theo đường tà?
-1/
Đó là cái ý hướng không theo tà hạnh (bonne volition), cái ý chí muốn
hành động làm chủ cuộc đời mình, chứ không bị động quay cuồng trong vòng cảm
xúc, xuẩn động.
Cái ý chí này Phật giáo gọi là tinh tấn
(xin xem lại 4 chi của tinh tấn).
-
2/ Đó là sự chú tâm (attention) ghi nhận các ngũ trần khi nó vừa
lọt vào ngủ căn hoặc cả pháp trần khi nó lọt vào ý thức trường.
-
3/ Đó là sự sáng suốt, tỉnh giác (vigilance) không để tham sân và
vô minh
chi phối tâm mình.
Ba yếu tố này là nền tảng căn bản của
thiền Tứ niệm xứ, sẽ được rèn luyện, dùi mài khi ta thực hành thiền trên. Lâu
ngày chày tháng ba yếu tố trên sẽ trở thành phản xạ, sẽ gắn liền với tâm tư,
ngôn ngữ và hành động của ta, giúp ta sống “cư trần, lạc đạo” trong giòng đời
quay cuồng biến đổi và giúp ta một ngày nào đó sẽ thoát giòng tục luỵ đau khổ này.
Sơ đồ tâm thức này là kết quả của sự
suy nghĩ kết hợp giữa Phật giáo và khoa học. Phật giáo đã đi trước khoa học hơn
2.000 năm. Vi diệu pháp (hay tạng Luận)
là tác phẩm tâm lý học đầu tiên của con người, đến nay vẫn còn giá trị.
Có nhiều điều Phật giáo biết mà khoa học
tâm não chưa biết. Có những điều khoa học biết mà trong kinh sách không thấy
nói. Do đó phải dùng Phật giáo để hỗ trợ cho khoa học và dùng khoa học để hiểu
rõ Phật giáo. Điều này chỉ có một ít nhà khoa học hiểu thôi, như Mathieu
Ricard, Francisco J.Varela, Trịnh Xuân
Thuận..., với điều kiện họ phải để tâm nghiên cứu Phật pháp và biết đối chiếu
giữa hai bên.
BS
Nguyễn Tối Thiện