Đọc thơ BÍCH BỬU
doc thoĐặng Công Hanh
Trở lại Sài Gòn lần này, tôi có dịp đến thăm gia đình người bạn học
cũ từ đầu thập niên 60, thế kỷ trước, anh Đoàn Ngọc Tri và hiền thê, chị
Bích Bửu. Thời gian khá lâu, nên những ký ức thời học chung lớp gần như
vùi lấp trong lớp bụi mù phố thị, nhạt nhòa bởi tiếng vọng từ hí trường
giả dối, bập bềnh theo những giá trị phù hoa không thực chất. Tôi hơi
bối rối trước gia sản “đồ sộ” của anh chị – cái gia sản trải rộng theo
chiều ngang, một chiều kích mà theo tuyệt đa số mang ý nghĩa chinh phục:
tình yêu và hạnh phúc là lẽ sống; hoặc tiền tài danh vọng, hoặc quyền
lực là lẽ sống. Tất yếu là tự đày đọa tâm trí, làm khổ lụy hình hài để
đuổi bắt những gì được xem là “vị ngọt” , là tinh hoa đời sống.
Tuy nhiên, mỗi người ẩn chứa trong tự thân một “kho báu” vô
tận, có thể tự mình vạch một lối đi riêng, không lần bước theo vết mờ
của những người đi trước, bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm, để chính
bằng đôi mắt của mình, nhìn thấy rõ con đường đang đi chạy theo phương
vị nào.
Chập chờn giữa cuộc nhân sinh
Ngàn vạn ức triệu… như hình số không
(Phép tính cuộc đời)
Nhà thơ Bích Bửu, thay lời hôn phu đã nói như thế trong hai câu thơ
không màu sắc, không hoa mỹ, nhưng rất mạnh mẽ, rất khí phách trong
triết lý sống thực. Bởi vì, tuyệt đa số con người đều hướng ngoài để tìm
cầu, săn đuổi không ngừng nghĩ và dần dà bị tha hóa, bị vong thân, sống
với “mặt nạ bản ngã“, mà tưởng lầm đó là mình thật. Và chung
cuộc làm người khách phong trần, mỗi ngày mỗi xa cách quê hương. Quê
hương là nói đến hoài vọng trẻ trung, nơi ngụ ẩn tình của lịch sử. Đây
là cõi lưu đày miên viễn cho tất cả chúng ta, có phải?
Chị than thở thế thái nhân tình
Con chuồn chuồn biết báo mưa, báo bão
Sao con người lại nguội lạnh dững dưng?
(Có)
Trong một thoáng nghĩ tôi tự hỏi, bây giờ thực tế anh chị đang gặt
hái những thành công và rất thành công trên đường đời. Nếu nghĩ lại
những năm tháng tuổi trẻ, nhảy qua hố thẳm, tích tụ đầy bóng tối của
thời gian, anh có cho rằng mình đuổi bắt ảo ảnh. Và giữa hai đoạn đời
như thế, thật sự đâu là ảo ảnh?
Hiền thê của anh, nhà thơ Bích Bửu, rất bình dị trong đời sống. Hóa
ra, sự bình dị ấy, cùng với tháng ngày trôi đi trong thầm lặng, mà từ
trong sâu thẳm, tận cùng của sự bình dị ấy là một khoảng trời trầm mặc
bao la của vĩnh cửu, bổng thấy rạo rực với những ảo ảnh chập chờn, nghe
đâu đó có tiếng thì thầm:
Tình yêu huyền ảo, mong manh quá
Chiều sẽ tàn theo bóng tịch liêu!
(Bước thời gian)
Ý thơ của chị đẹp kinh hồn. Nó ngâm vang từ một phương trời đồng
vọng xa xăm, cơ hồ như chập chờn theo nỗi thăng trầm kiếp nhân sinh, bên
lề cuộc tồn sinh.
Một kiếp người lang thang
Qua bao nhiêu ngày tháng
Rồi đi đâu? Về đâu?
(Thiên nhiên và phận người)
Đó là một câu hỏi đặt ra từ thuở hồng hoang, mọi người đi tìm câu trả
lời trong các tôn giáo, trong các triết học. Người làm thơ đi tìm giải
đáp trong những mảnh vụn của đời sống thường nhật: ưu tư, khắc khoải,
sầu muộn, những ngôn từ chất đầy bóng tối não nùng trong các vầng thơ.
Trong cả tập thơ, trong mỗi bài thơ, tôi nhặt từng hạt sương, mà chợt
nghe lạnh giá, bởi vì đâu đó trong hoài niệm xa xôi, trong đôi mắt u
hoài đó, một đoạn đời đã thành thiên cổ.
Cha mẹ phân thân vào con từng mảnh
Thương mẹ cha!
Con giữ các mảnh ghép không rời.
Lời mẹ ru, lời cha dạy thuở còn bé bỏng để nghe và nhớ, cơ hồ như
những hoài niệm mông lung về một quá khứ huyền thoại hoang sơ, nó chập
chờn thoáng hiện trong từng khoảnh khắc suốt cả một đời thăng trầm dâu
bể.
Lớn lên theo năm tháng, như dòng suối trôi chảy qua bao nhiêu bến bờ
hoang vu, tĩnh lặng, rồi bất chợt đổ xuống ghềnh thác, qua phố thị tràn
ngập khói lửa. Phố thị với những khủng hoảng cơ giới. Rồi những đêm theo
dõi bóng trăng mờ, tìm về “ngõ cũ, vườn xưa, nhà vắng lạnh / Đâu người
ruột thịt đợi con về”. Sự sống được nuôi dưỡng, được lớn lên trong
những chuyển động hồn nhiên và dung dị như thế
Hơn hai vạn ngày con đã sống
Hai phần đời người
như giấc mộng thoáng qua.
…. …. …..
Còn cả vạn ngày tiếp sau, con bổng sợ
Biết làm sao, khi đời là phiên chợ mãi đông
Còn gì nữa chăng?
Bám vào bụi bờ, rong rêu.
làm sao con trụ vững
Giữa mênh mông bão tố của cuộc đời
(Tâm sự cùng cha)
Vẫn còn ngân vang mãi. Ấy là vì trong dòng biến dịch, thời gian hóa
thân thành lịch sử, mà lịch sử lại tiềm ẩn dậy sóng tình – thù. Nhà thơ
bị ném vào cuộc nhân sinh, âm thầm ghi dấu phong ba của thời đại.
Chong đèn mong nối ngày dài thêm
Ta với đèn thao thức lặng im
(Bước thời gian)
Thăng hay trầm trong cuộc sống, cái đó không làm ra thơ, không tạo
dựng nỗi cõi thơ trong tâm hồn tác giả. Thơ có thể mở rộng. Thơ là cánh
nhạn lạc bầy, đi tìm kiếm quê hương, mà quê hương vẫn đồng vọng trong
cách điệu không lời. Đứng bên này mà vọng đến bên kia, con mắt mõi mòn
trông đợi, thế là lao tâm khổ trí, là quằn quại hình hài. Quê hương với
ân tình thắm thiết, mới thực là đọa đày viễn mộng khách tha hương.
Có phải thế chăng?
Năm tháng bon chen nơi đất khách
Phút giây thầm lặng giữa quê hương
(Ngày trở về)
Lời thơ quả là dung dị và chí thành. Nơi đây ta nghe được tận cùng
những phấn đấu gian khổ của tồn sinh, những phẫn nộ thì không và những
ngậm ngùi cay đắng của tồn sinh thì có. Cõi thơ của tác giả vì vậy mà
mang mang heo hút. Sầu khổ thì có mà sầu hận thì chẳng bao giờ. Đó là
một điểm nhỏ trong thơ, mà là điểm cốt tủy trong cái phong vận tao nhã
bao la, điềm đạm, thấm đậm nồng nàn trong cõi nhân sinh của nhà thơ Bích
Bửu.
– Nếu cha hỏi: nơi cõi trần ô trọc
Con ngược xuôi vui buồn,
khổ nhọc ra sao?
Thưa cha! Con muốn thân tâm an lạc
thanh cao
– Nếu cha hỏi: trong tâm hồn, cuộc sống
Con có hận thù, mơ vọng cao xa?
Thưa cha! Con thích cuộc đời bình dị,
an hòa
Được tươi thắm như cỏ hoa chào
nắng sớm?
(Nếu cha hỏi)
“Nhất thiết hữu vi pháp, như huyễn, mộng, bào, ảnh”. Hiện
hữu của thế gian như hoa đốm giữa trời, không từng có sinh khởi, không
hề có hủy diệt, chỉ đều do tương quan. Quả thật, chúng ta vốn chỉ quen
với những giá trị được nhận thức bởi mắt, tai… Vượt qua giới hạn đó, là
thế giới huyễn hoặc, không tưởng. Chúng ta tương tự như con cá, nghe
những gì con rùa kể chuyện lại, sau chuyến du lịch trên mặt đất liền,
cho rằng đó là chuyện bịa đặt. Đối với con người thì sao, khi những gì
người khác tư duy và nhận thức khác ta? Chắc là trầm trọng lắm! Nhưng
chúng ta mong đợi tấm lòng bao dung quảng đại của họ.
Vượt qua định kiến hình thành từ nhận thức thường nghiệm, giới hạn
các quan năng, để tiến tới những giá trị tâm linh phổ quát, đó là thuận
tự trong quá trình tu dưỡng để khai phóng tâm tư. Đây cũng là điều kiện
cơ bản cho một thế giới có hòa bình.
Với tâm chí thành và những suy niệm khá nghiêm túc. Nếu đời người là một cuộc hành trình từ sinh đến tử, thì vọng ngã (tâm thức) hình thành trong quá trình này. Chị viết “Ta
tham lam / Ta lo lắng / Ta cay đắng / Ta giận hờn / Ta biết được nhiều
hơn / Ta cần luôn chiến thắng… Ta ơi! bạn ơi! Hãy thảnh thơi suy gẩm!”.
Cái “vọng” là cái “có thật” vì nó làm điên đảo cuộc đời này. Quả thật
hàng ngày chúng ta sinh hoạt với vọng ngã này. Vì có tồn tại ý niệm về
bản ngã thì mới duy trì sự sống được, nên thức ăn của nó chính là phiền
não
Thơ chị viết rằng:
Nghe bao nỗi khổ, nỗi buồn
Ghé vai, tâm sớt, yêu thương cho đời
Tâm người đặt ở nhiều nơi
Óc, tim, tai, mắt, miệng, rồi hai vai…
Đây chỉ là một đoạn trích trong bài thơ gồm 16 câu, phân 4 đoạn: “Vị trí của tâm“. Qủa thật công phu – nhà thơ hình như “tự đốt đuốc lên đường mà đi”, thể hiện một bản lãnh người chống cây “gậy của Đạo”
mà bước trong chốn hồng trần. Bài thơ có phân tích rành mạch, nhưng có
thể khái quát theo Phật học là có “7 thức tâm, y cứ trên 6 trú căn”.
Năm căn đầu có điểm tựa rõ ràng, còn ý căn nằm ở đâu trong thể này?. Đây
là vấn đề “bí hiểm, gay cấn” từ ngàn xưa. Trong tạng
A-Tỳ-Đạt-Ma (Abhidhamma) có nói rằng Đức Phật không xác định ý căn nằm ở
đâu (trong não, trong tim), mà Ngài chỉ nói “y cứ trên sắc pháp này“, mà tâm khởi sinh. Điều này hé lộ cho ta về giáo lý duyên khởi, một tư tưởng độc nhất vô nhị làm nền tảng cho giáo pháp.
Từ trăng sao, vũ trụ, cho đến một hạt vi trần, thảy thảy đều duyên
sinh, kết hợp. Lý tương duyên, tương sinh cho ta biết cái này có thì cái
kia có, cái này không thì cái kia không. Từ ý nghĩa này, sự thật này,
thì tâm – thức hay cái biết cũng do kết hợp mà có, nghĩa do
duyên sinh. Chẳng hạn khi nhìn một chiếc lá, ta nhận biết là chiếc lá:
tâm nhận biết chiếc lá có mặt do có nhãn căn tiếp xúc với chiếc lá
(sắc). Rõ hơn, do sự vận hành của căn, trần và thức. Căn là lục căn,
trần là lục trần và thức là lục thức. Tổ hợp lại thành 18 giới, là toàn
bộ vận hành của người và vũ trụ. Chẳng có cái nào trước, cái nào sau,
cái nào trong, cái nào ngoài, cái nào chủ, cái nào khách.
“Y cứ trên sắc pháp này” nghĩa là tâm ở đó, khi nào ý thức, nhận thức có mặt. Ngài Đạt Ma dạy Huệ Khả chỗ này: “Tâm tán loạn, tuệ tri tâm tán loạn; tâm không an, tuệ tri tâm không an“.
Chỉ tuệ tri như vậy thôi, không đánh giá, không phê phán thì lúc đó
mới gọi là thấy biết rõ thực tánh. Như vậy, nếu tất cả duyên khởi đều
được “tuệ tri như thực”. như tham, tuệ tri như tham; như sân, tuệ tri
như sân. Vậy chúng là chân, tâm (biết như thực), làm gì có vọng. Nhà
Phật gọi tâm vọng là vọng ngã. Đã nói đến chân tâm thì phải xét vọng
ngã. Cái này soi sáng cái kia. Chân thuộc về tiên thiên, mọi người sau
khi sinh ra đã sẵn có. Vọng thuộc hậu thiên. Vọng ngã là thành quả của
sự nuôi dưỡng, của giáo dục và kinh nghiệm bản thân trong quá trình
sống.
Đức Phật dạy rằng, cội nguồn của điên đảo khổ đau là vọng ngã. Vọng
ngã che lấp chân tâm. Ta mù vì tâm vọng. Vọng ngã là hậu thiên do ta xây
dựng nên trong quá trình sống.
Kinh Phật chỉ ra rằng cái biết (cái tâm) do duyên sinh trong sự vận
động trùng trùng của căn – trần – thức. Và nếu duyên khởi thì đều là
vọng, nghĩa là có duyên thì nó khởi. và khi khởi thì trùng trùng. Hơn
thế nữa, trong tâm chúng sinh đang tích tụ vô lượng hạt giống, tốt có,
xấu có, ở trạng thái năng lực ngầm ẩn (tùy niên kiết sử). Vậy nếu có
khởi thì khởi làm việc lành, việc tốt, thọ trì tam quy, ngũ giới…
Tài sản quý trên đời là đạo đức
Là nghĩa nhân lễ trí tín làm người
Dù giàu sang, hay thất vọng lỡ thời
Các con nhớ giữ tấm lòng trung thực
(Gia tài cho con)
Thế gian triết lý, khoa học vật lý, văn hóa, xã hội, nhân sinh, kinh
tế thị trường, thảy thảy đều đã ôm vật mà quên cả tâm chăng? Nói cách
khác, thiên hạ đã chạy theo vật lý “với cảnh ngựa xe như nước, áo quần
như nêm” mà bỏ quên đạo lý chăng? Nhà thơ Bích Bửu thì không, không cả
cho gia đình và con cái. Sống trong tỉnh thức, tỉnh thức để buông xả.
Tỉnh thức cũng là trực nhận vọng ngã. Trực nhận là sống ý thức ở mỗi
thời điểm. Một thời điểm thì không đo lường được nên không thể diễn tả
đầy đủ cái xảy ra ở thời điểm bằng lời. Nó vô ngôn, nhưng thực sự hiện
hữu ở thời điểm nó xảy ra. Bản chất nó là phù du, qua nhanh như chớp,
không nắm bắt được. Tỉnh thức là đốt ngọn đuốc bên trong, ánh sáng đến
đâu là thấy đến đó. Tỉnh thức là luôn luôn cật vấn về chân và vọng.
*
* *
Lời Phật, Tổ đã dạy: ‘tùng Tướng nhập Tánh”. Thế nên, khi nghĩ đến
cái gia sản “đồ sộ” đó, nó không những trải rộng theo chiều ngang, mà
còn trải sâu theo chiều dọc. Bởi vì, thế giới của thơ hay cõi thơ và thế
giới sống của người làm thơ không là một, mà chẳng phải hai.
Buồn vui với chính mình, với tình người, với tình đời, người làm thơ
trong khoảnh khắc tan biến vào một thế giới hoang liêu. Hãy đi vào hồn
thơ: Nó là tiếng lòng, là cảm nghiệm riêng tư, cô đơn, cô tịch. Đừng
nói bội lý, đừng nói phi lý vì nói vậy là nương vào lập định phạm trù
của lý trí phân tích, lạnh lùng xơ cứng và mệt mỏi. Mỗi mỗi tâm – cảnh
tương quan trùng trùng duyên khởi. Những cảm xúc vi tế, mong manh dễ
nức, dễ vỡ ấy… nó làm ra thơ. Nó chính là thơ. Hoa nở đâu cần công phu,
đâu cần kỷ xảo. Và trăng sáng kia đâu có cần tuyên ngôn, vị nghệ thuật
hay vị nhân sinh!
Ánh trăng trong như lòng nhân ái
Xua tăm tối, gieo niềm tin hy vọng
… … …
Dưới trăng mờ, được tắm gội trong lành
Lòng hoan vui, thanh thản, yên lành
(Trăng khuya)
Thở ra, gấp sách lại, tôi không biết nói gì. Chỉ đọc, lắng nghe và
cảm nhận. Đưa mắt nhìn qua cửa sổ thấy trăng rằm treo lơ lửng trên
khoảng không mênh mông xanh biếc vô tận
Trầm luân từ buổi ban sơ
Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường
(Tuệ Sỹ)
Đà Nẵng, ngày 20/5/2016