Nhảy vào suối mát ta chơi
nhay
Nhảy vào suối mát ta chơi
Có lần vào một tiệm sách, thấy trên tường có treo một thư pháp thật đẹp viết “Dẫu biết vô thường sao lòng vẫn xót xa”.
Tôi chợt nghĩ, có phải “lòng ta cảm thấy xót xa” vì cuộc đời vô thường
và có nhiều thay đổi như câu thư pháp ấy viết không? Hay vì một nguyên
nhân nào khác?
Thay đổi là sự tự nhiên
Nơi tôi ở có bốn mùa
rõ rệt. Có những tháng tuyết rơi thật cao ngập trắng và xóa hết đường
phố, rồi mùa xuân có hoa nở đủ sắc màu với những cành lá non tươi màu
xanh mạ, và mùa hè về cây cỏ xanh rì soi bóng bên dòng suối trong mát.
Và vào tháng này trời nơi đây đã bắt đầu vào thu. Tôi biết vài tuần nữa
thôi, ngàn lá bên khu rừng nhỏ sau nhà sẽ đổi muôn màu, chúng rụng bay
khắp trời, để lại một rừng cây trơ trọi khi trời trở lạnh và ngày ngắn
đi hơn.
Tôi thấy rõ được
sự đổi thay của bốn mùa, nhưng tôi không cảm nhận nó là vô thường. Bốn
mùa thay đổi tự nhiên. Một buổi sáng vào thu nhìn những chiếc lá sắc màu
dưới bước chân đi, tôi cảm thấy cái đẹp nhiệm mầu của thiên nhiên, của
sự sống.
Tôi nghĩ, chúng ta
thường chỉ nhắc đến vô thường khi nào có những việc gì xảy đến bất ngờ
với mình. Một hôm trở về khu phố cũ, căn nhà ngày xưa giờ đã nhiều biến
đổi, nhìn cánh cửa sổ, tấm sáo quen thuộc ngày nào… tôi chợt cảm thấy
cuộc đời qua nhanh. Ta cảm thấy phiền muộn trước những đổi thay nào mà
mình không muốn, hoặc không chấp nhận. Và đó mới là nguyên nhân của khổ
đau.
Trong Kinh A Hàm, có lần ông Thôn trưởng Na Ca Dà hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào khích động các khổ?
Phật hỏi ông:
- Nếu trong thôn ông có người chết hoặc có người bị tai nạn, ông có buồn khổ không?
- Bạch Thế Tôn, có khi buồn khổ, có khi không.
- Tại sao?
-
Nếu những người chết hoặc bị tai nạn ấy là bà con thân quyến của con
thì con buồn khổ. Trái lại thì con không buồn khổ.
Phật đáp:
- Gốc của sự buồn khổ là do lòng dính mắc vậy.
Như vậy thì sự đổi thay, chưa chắc sẽ mang lại cho ta khổ đau, nhưng
chính những dính mắc của mình mới là nguyên nhân chánh.
Nghệ thuật buông xả
Và vì vậy, muốn có hạnh phúc và được an tĩnh trong cuộc sống chúng ta phải biết tập buông bỏ những vướng mắc, mong cầu trong tâm mình. Vì đó mới là nguyên nhân chính của khổ đau.
Nhưng chúng ta có thể buông bỏ được chăng? Các vị thiền sư thường dạy
chúng ta một phương cách buông xả tuyệt vời nhất là hãy để cho thực tại
được như nó là. Buông xả không phải là một phương cách để xử lý đối
tượng hay chuyển hóa hoàn cảnh xảy ra, mà là một thái độ tiếp nhận trong
sáng của tâm mình. Buông xả không phải là một sự dụng công nào của cái
tôi, của bản ngã, mà chỉ là một thái độ tự nhiên.
Khi đứng trước những mất mát thay đổi, nếu trong tâm không an tĩnh thì
ta thấy mình không an tĩnh, không sáng suốt thì thấy không sáng suốt,
tâm phiền não thì ta thấy tâm đang phiền não. Có như vậy ta mới trọn vẹn
được với thực tại đang là. Chứ ta không cần mong cầu nó được trở thành
trạng thái hoàn hảo hay lý tưởng nào khác theo ý của mình. Và chừng ấy
ta mới có thể thấy rõ được tuệ giác của lý vô thường. Những gì phải đến
trong cuộc sống thì sẽ đến và khi chúng đi thì tự nhiên sẽ qua đi.
Buông xả bằng tình thương không dính mắc
Nhưng
nếu như ta thấy mình vẫn còn phải cần làm một cái gì đó, thì đức Phật
cũng có chỉ dạy cho chúng ta những phương cách để tạm thời chuyển hóa
phiền não.
Thật ra, trong phạm vi tương đối của một thế giới tục đế này thì không
có gì là thật sự trống không hết. Một ly đầy nước, nhưng khi ta đổ hết
nước đi, thì ly ấy sẽ lại đầy không khí. Không cái này thì sẽ có một cái
kia. Vì vậy đức Phật cũng có dạy những phương cách thông thường để
buông xả rất hay.
Tôi nhớ trong bài kinh An Trú Tầm, Vtakkasanthàna sutta,
Phật có dạy một cách buông bỏ bằng cách thay vào đó một cái gì tốt lành
hơn. Ta có thể tạm buông bỏ một phiền não bằng cách thay vào đó bằng
một niệm an vui. Lấy một hơi thở thay cho một bất an. Lấy một câu niệm
Phật thay vào một tâm sợ hãi. Lấy một việc làm thiện lành thay cho một
hành động xấu ác. Trong kinh, Phật có cho ví dụ như một người thợ mộc
thay những con chốt (a peg) hư xấu của một chiếc bàn, bằng cách dùng một
con chốt mới khác để đánh bật con chốt hư xấu ra ngoài, và thay vào đó
bằng một con chốt tốt đẹp hơn.
Mà bạn biết không, tình thương là một con chốt tốt lành có thể đánh bật
ra hết những muộn phiền, hờn giận, sợ hãi trong ta, và nó sẽ thay vào
đó bằng một sự chấp nhận, an tĩnh, và hạnh phúc. Một tình thương lớn
giúp cho ta có được một khả năng buông xả. Trong
tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ và xả, thì một tình thương sâu xa sẽ dẫn
dắt ta đến sự xả bỏ, tha thứ và tiếp nhận được hết tất cả, ngay cả những
khổ đau của chính mình. Tình thương nhỏ khiến ta bị dính mắc, nhưng với
một tình thương lớn thì tâm ta sẽ không còn bị vướng vào một nơi nào
hết.
Một bầu trời đầy sao sáng
Ngày
xưa tôi nghĩ giáo lý của Phật quá siêu việt, với những lý Bát nhã,
Trung quán, tánh Không, hay Bất nhị… cao xa quá, nên khó ai có thể hiểu
thấu được. Nhưng bây giờ tôi nghĩ khác, đức Phật thường nhắc nhở rằng,
khác với những vị đạo sư khác, ngài dạy chúng ta với một bàn tay mở rộng
trọn vẹn. Ngài không dấu diếm hay giữ lại một điều gì có thể giúp ta
chuyển hóa được khổ đau. Lời dạy của ngài đơn giản và trong sáng như bầu
trời. Khó là ở chỗ ta có chịu quay về và nhìn lại chính nơi mình. Mà
mấy ai muốn nhìn lại để thấy được nguyên nhân của khổ đau là do những
ham muốn, thù hận và cố chấp của chính mình mà thôi.
Có lần tôi đọc một câu chuyện vui về ông Nasrudin, một nhà hiền triết
Trung Đông. Một hôm ông và người bạn rủ nhau đi cắm trại ngoài sa mạc.
Tối đến cả hai chun vào lều ngủ. Đến nữa khuya người bạn đánh thức ông
dậy và nói: “Này anh, nhìn lên trên kìa, anh có thấy gì không?” Nasrudin
nói: “À, bầu trời ngoài sa mạc đầy sao sáng, đẹp quá!” Anh bạn hỏi,
“Anh thấy như vậy là có nghĩa gì không?” “Nhìn vô số những vì tinh tú
trên bầu trời đêm, tôi thấy chúng ta quá nhỏ nhoi, kiếp người thật vô
nghĩa.” Người bạn hỏi tiếp, “Nhưng anh không thấy gì nữa sao?” “Nếu mà
theo quan điểm của chiêm tinh học, thì nhìn vị trí của các vì sao tôi có
thể đoán là bây giờ khoảng hơn nửa khuya. Còn theo anh thì nó có nghĩa
là gì?” Người bạn đáp, “Tôi thấy là ai đã đánh cắp chiếc lều của chúng
ta mất rồi!”
Trên con đường tu học cũng vậy, nhiều khi chúng ta lo tìm kiếm và mong
cầu xa xôi quá mà quên thấy được những gì đang có mặt, những nguyên nhân
của khổ đau, ngay trước mắt mình.
Kinh kệ mệt hơi
Có
lần đến thăm một tự viện nọ, vào thư quán tôi thấy khuất trong một góc
bụi bậm trên một kệ sách có để một tượng Phật nhỏ ngồi thiền, rất đơn sơ
không sơn phết. Hình dạng của tượng Phật thiếu cân xứng, lại có một
dáng ngồi không thẳng và trang nghiêm như những tượng Phật khác. Người
bán hàng nói rằng có một Phật tử đi Thái Lan về và tặng cho nhà sách để
bán, thế nhưng không ai thỉnh vì tượng không được đẹp. Đa số ai cũng
muốn thỉnh những tượng Phật có tướng tốt lành, và nhất là được làm bằng
gỗ hay đá quý. Người bán hàng nói, nếu muốn chị sẽ biếu tặng tôi chiếc
tượng ấy.
Và tôi thỉnh tượng Phật nhỏ ấy về đặt trên bàn viết của mình. Mỗi lần
nhìn chiếc tượng nhỏ ấy, tôi cảm thấy đức Phật rất bình thường và gần
gũi với mình. Nó nhắc nhở tôi xả bỏ hết những tự ti và tha thứ cho sự
bất toàn của ta. Tôi cảm nhận được một tình thương và sự buông xả. Nhớ
bài haiku của Thiền sư Nhật Giun,
Kinh kệ mệt hơi
Tám mốt tuổi rồi
Gần đất xa trời
Nhảy vào suối mát ta chơi
Đời sống luôn thay đổi và cũng nhiều vướng mắc. Hãy sống với một tình
thương lớn. Sáng nay, dưới bước chân ta đi một chiếc lá thu rụng, hãy
buông thả hết và cứ rong chơi đi bạn nhé…
Nguyễn Duy Nhiên