Giàu có và Hạnh phúc
giau co
GIÀU CÓ và HẠNH PHÚC
Liên Trí
Từ muôn thuở, con người vẫn luôn nuôi dưỡng
khát vọng lớn nhất và chung nhất, đó là khát vọng hạnh phúc. Hạnh phúc là trạng
thái tâm lý mãn nguyện, cảm giác đầy đủ và sung sướng khi nhu cầu được thỏa
mãn. Đây là một khái niệm thuộc phạm trù ý niệm, gắn liền với nhân sinh quan
nên mỗi cá nhân đều có tiêu chí riêng về hạnh phúc. Tuy nhiên, mẫu số chung của
hạnh phúc là trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, hài lòng và yên tâm.
Mối liên hệ giữa giàu có và hạnh phúc
Thông thường, rất nhiều người trong chúng ta
nghĩ rằng một người giàu có thường là người hạnh phúc, hay ít ra, họ dễ có cuộc
sống hạnh phúc hơn người khác. Vì tin như thế, trong cuộc sống, chúng ta lao
vào làm giàu và làm giàu không mệt mỏi để thực hiện khát vọng hạnh phúc của
mình. Thế nhưng, kết quả nghiên cứu trong nhiều năm qua cho thấy rằng, sự thật
không hẳn như vậy.
Trong một nghiên cứu ở Mỹ, Easterbrook (2003)
cho thấy rằng mặc dù với thu nhập cao hơn, các dịch vụ y tế tiện nghi hơn và
giáo dục ngày càng tốt hơn so với những năm trước, người ta vẫn cảm thấy rằng họ
kém hạnh phúc hơn trước. Như vậy, sự giàu có về của cải vật chất là yếu tố cần
thiết để duy trì cuộc sống cho tất cả con người chúng ta, nhưng nó không đủ để
đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc.
Người kỳ công nghiên cứu trong nhiều thập niên
về lĩnh vực này là Easterlin. Trong một thời gian dài (từ năm 1974 đến năm
2003), Easterlin đã thực hiện 30 nghiên cứu thống kê ở 19 nước và đi đến kết luận
rằng, khi những nhu cầu căn bản như ăn, mặc, ở và y tế được đáp ứng, sự giàu có
không liên quan đến mức độ hạnh phúc trong cuộc sống. Kết quả các nghiên cứu
này tưởng chừng khó tin đối với nhiều người trong chúng ta khi kết luận rằng sự
giàu có không đảm bảo cho chủ nhân nó một đời sống hạnh phúc.
Tại sao giàu có chưa chắc đem lại hạnh phúc?
Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra kết quả
tương tự và cố gắng tìm nguyên nhân để lý giải tại sao người lắm tiền nhiều của
lại không có hạnh phúc. Theo nghiên cứu của Argyle (1999), những người giàu thường
có ham muốn giàu có hơn và chính lòng ham muốn ấy làm cho họ ít được hạnh phúc
trọn vẹn và bền vững. Duesenberry (1949) làm một cuộc khảo sát, lấy ý kiến
trong công chúng ở Mỹ vào thập niên 40 của thế kỷ 20, kết luận rằng những người
có thu nhập cao có động cơ phải có thu nhập cao hơn nữa mới có thể làm cho những
người thân trong gia đình hạnh phúc. Đồng thời, họ cũng có tâm lý bất an thường
trực trong tâm, khi đồng hóa chính bản thân mình với của cải vật chất và bao phủ
mình với những thứ hào nhoáng bên ngoài để tạo hình ảnh giàu có trong mắt người
khác. Veblen (1967) thực hiện một nghiên cứu và kết luận rằng, người giàu có
coi việc tiêu xài là một tiêu chí để xác định vị trí xã hội của mình. Vì sỉ diện,
sự cạnh tranh trong mua sắm và chi xài của những người có thu nhập cao cũng tạo
nên tâm lý không bình an cho những người dư ăn dư để này. Mấy thập niên sau,
trong một thống kê của mình, Schor (1998) cho thấy rằng, hơn nửa dân số Mỹ, nơi
số lượng người giàu có nhiều nhất thế giới, nói rằng họ không thể nào thỏa mãn
được mọi thứ họ cần và họ cảm thấy không có hạnh phúc trọn vẹn vì cảm giác
‘chưa đủ’ này.
Những công trình nghiên cứu được trưng dẫn ở
trên cho chúng ta một kết luận thuyết phục rằng, sự giàu có không đủ để đảm bảo
một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Với mớ của cải vật chất dù rất nhiều trong
tay, người giàu vẫn không hạnh phúc. Trong khi người nghèo thiếu hạnh phúc vì
các nhu cầu căn bản để duy trì sự sống chưa được thỏa mãn, người giàu, những tưởng
họ hạnh phúc vì lắm tiền của, thì lại khổ vì lòng mong cầu không biết đủ. Chính
lòng ham muốn làm cho con người khổ. Đây là ‘căn bệnh’ khó chữa và nếu để tâm
lý này phát triển tự nhiên, nó sẽ không có giới hạn mà ta quen gọi là “lòng
tham vô đáy”. Người bị tâm tham thúc bách không thể nào nếm được hương vị hạnh
phúc thật sự dù sống trên cả núi vàng. Ham muốn của con người là muôn thuở và
không bao giờ được thỏa mãn và chính tâm lý ‘không thỏa mãn’ làm con người cứ
mãi khổ đau và bất an. Chỉ khi nào ý thức được hạnh phúc tỷ lệ nghịch với lòng
ham muốn, con người mới biết cách tạo dựng hạnh phúc cho mình.
Khéo thọ dụng để được hạnh phúc
Những kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp
với lời Đức Phật dạy cách đây hai mươi sáu thế kỷ, rằng “các dục vui ít, khổ
nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn” (Trung bộ kinh số 22: Kinh ví dụ con rắn). Đức Phật dùng nhiều ví dụ
rất sinh động để diễn tả sự khổ đau do tâm tham dục gây nên: ham muốn được ví
như khúc xương, như miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng, như cơn mộng,
như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt, như gậy nhọn, như đầu rắn. Sẽ
không có ấn tượng nhiều nếu chúng ta chỉ đọc qua mười hình ảnh này. Tuy nhiên,
khi phân tích kỹ, chúng ta thật ấn tượng đến mức nó đủ mạnh để đánh động tâm lý
của mỗi người, dần nhẹ bớt và bỏ đi tham dục nếu muốn có được hạnh phúc thật sự.
Các
đối tượng của ham muốn như khúc xương: Qua sớ giải kinh Trung
bộ, chúng ta hiểu hơn về cách sử dụng hình ảnh minh họa của Đức Phật. Khi
dùng hình ảnh khúc xương để ví cho ham muốn, Đức Phật muốn chúng ta cảm nhận sự
vô dụng, vất vả và hoài công của một con chó đói lả và suy nhược ôm gặm một
khúc xương đã lóc sạch thịt, chỉ còn xương trắng, dính tí máu và bay chút mùi
thịt còn sót lại. Cứ thế, con chó gặm tới, gặm lui, lật qua, lật lại khúc xương
đến mệt nhoài mà không no được tí nào. Dù vậy, con chó không thể quăng đi khúc
xương. Nó có một sự hấp dẫn mà con chó không dễ dàng từ bỏ. Người nhiều ham muốn
cũng vậy. Bản chất của ham muốn là khổ đau chứ không phải hạnh phúc, vậy mà con
người không biết buông bỏ đúng pháp để có hạnh phúc.
Các
đối tượng của ham muốn như miếng thịt: miếng thịt là đối tượng để tranh giành và là nguồn gốc của
hiểm nguy, đau khổ. Khi một con chim giành được miếng thịt liền muốn giữ lấy
cho riêng mình mà bay bổng lên không trung, trong khi những con chim khác cũng đang
cố tìm mồi. Vì vậy, chúng đuổi theo để tranh giành miếng thịt. Chúng đánh nhau,
cấu xé lẫn nhau, để được miếng mồi, bất chấp nguy hiểm, thương vong, thậm chí đổi
lấy tính mạng cốt chỉ để giữ được miếng mồi và đoạt được miếng mồi. Ở con người
cũng vậy, mọi tranh giành quyền lợi cá nhân cho đến chiến tranh xảy ra đều bắt
nguồn từ lòng tham. Mọi xung đột với nhau, chiến tranh và chết chóc không ngừng
xảy ra trên cuộc đời này khi con người còn khát vọng chiếm hữu sai lầm và ngỡ rằng
nếu thành tựu, họ sẽ có hạnh phúc. An lạc, hạnh phúc chỉ có mặt trên thế giới
này khi và chỉ khi con người bỏ đi quan niệm sai lầm rằng hạnh phúc có thể tìm
thấy từ sự chiếm hữu và sở hữu vật chất, cũng như con chim chỉ được yên thân
khi nó vứt bỏ được miếng mồi kia, đó là thông điệp của Đức Phật trao gởi qua ẩn
dụ nầy.
Các
đối tượng của ham muốn như bó đuốc cỏ khô: cỏ khô là vật liệu rất dễ gây cháy, bắt lửa mạnh. Một
người cầm bó đuốc cỏ đang cháy rực mà đi ngược gió thì rất là nguy hiểm, lửa sẽ
tạt vào phía mình và người ấy đã bị cháy tay, cháy mặt và các bộ phận khác, bỏng
nặng và có thể dẫn đến tử vong. Người không có trí tuệ, tham đắm dục lạc cũng
như vậy, tự rước họa vào mình, đến khi nhận ra vấn đề thì đã quá trễ.
Các
đối tượng của ham muốn như hố than hừng: Ẩn dụ này được giải thích tỉ mỉ ở kinh số 75: kinh Magandiya
của Trung bộ kinh, rằng có một người
bị bệnh cùi thân thể lở lói, các loài trùng đục khoét các vết thương. Để dịu đi
cơn ngứa, người này hơ đốt thân mình trên hố than hừng cháy, nhờ đó cảm thấy dễ
chịu, thỏa thích, đã ngứa. Tuy nhiên vì nguyên nhân ấy mà các vết thương càng
đau nhức, càng lở lói và không thể nào lành được, bệnh tình người ấy sẽ trở nên
trầm trọng suýt chết và cũng có thể dẫn đến cái chết. Sự thỏa thích dễ chịu nhờ
hố than hừng như vậy đã đồng nghĩa với sự hiểm nguy. Người lòng nhiều ham muốn
thì “càng thâu càng đắm, càng làm càng say” (Ni
trưởng Huỳnh Liên- Thân) mà không hề ý thức được đó là nguồn gốc của khổ
đau.
Các
đối tượng ham muốn như giấc mộng:
những gì ta thấy trong mơ thường đẹp đẽ, lung linh, khi thức giấc thì thực tế
không còn gì. Ham muốn vật chất chẳng khác nào chơi trò cút bắt và cái ta được
là cái bóng của hạnh phúc cứ vờn trước mặt, còn mình thì mệt nhoài và cái kết
là đắng cay đau khổ.
Các
đối tượng ham muốn như vật mượn xài: vật đi mượn để dùng xài rồi phải trả, khi trả xong, không
còn gì là của mình. Nếu ai lầm chấp vật mượn là của mình, sẽ hụt hẫng, khổ đau.
Nếu chấp vật chất thế gian là của mình, một khi vô thường biến hoại diễn ra, ta
chịu nhiều đau khổ, căng thẳng, bất an và sầu muộn.
Các
đối tượng ham muốn như trái cây:
trái cây thu hút nhiều người đến, thế là họ thi nhau hái bằng mọi cách, rồi họ
mang theo cả rựa, búa chặt luôn cả cây để hái được nhiều trái, rồi nhánh cây,
gốc cậy bật đè bị thương, gãy tay gãy chân, có khi đến chết. Sự ham muốn trái
cây không hề đem lại cho người ham muốn chút an ổn nào cả. Người đam mê dục lạc
cũng tự chuốc lấy nguy hiểm, bất an và đau khổ.
Các
đối tượng ham muốn như lò thịt: nơi
lò thịt, bao con vật bị kết liễu cuộc đời mà trước đó chúng không hề được báo
trước. Những con vật sắp vào lò vẫn vui với những hạt lúa, hạt bắp, hay bữa ăn
rau cám mà không biết khi nào mạng sống mình bị đoạt mất. Con người trong cuộc
đời này cũng thế, đam mê dục lạc đến mức không hề hay biết vô thường không hẹn
trước. Khi đối mặt với cái chết thì mọi thứ quá muộn màng, chút niềm vui tạm bợ
mong manh do dục lạc đem lại không đủ giúp chúng ta vượt qua khổ đau của một kiếp
người.
Các
đối tượng ham muốn như gậy nhọn:
cây gậy nhọn có nhiều tác dụng trong cuộc sống, thế nhưng nếu không cẩn thận,
sơ sẩy một tí thì chính chiếc gậy đó trở lại gây họa cho mình, ví như sử dụng
xà beng, càng bén càng dễ đào đất nhưng gây thương tích càng nguy hiểm nếu bất
cẩn. Khi thọ dụng các món vật chất, cần thận trọng nếu không muốn chuốc lấy khổ
đau lâu dài vì chúng nguy hiểm như gậy nhọn.
Các
đối tượng ham muốn như đầu rắn: ví
dụ này được giải thích rất kỹ trong chính bài kinh này. Một người nông dân tìm
bắt con rắn nước, do không bắt ở đầu mà bắt ở đuôi hay ở thân giữa nên bị con rắn
nước cắn lại người đó đến nỗi bị thương, và có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Chính vì bắt rắn không đúng phương pháp mà dẫn đến điều đáng tiếc trên. Dụ này
dùng để chỉ cho việc thọ dụng dục lạc cần phải có một lập trường, một phong
thái, một phương pháp đúng đắn mới không bị dục lạc nắm lấy vị trí làm chủ quay
lại hại mình.
Những ví dụ điển hình trên đây cho ta ý niệm rằng,
chúng ta vẫn có thể sử dụng những món vật chất thế gian khi có nhu cầu, nhưng cần
phải chánh niệm đừng để tâm tham dục trỗi dậy, điều động và chi phối, mà chỉ
xem đó chỉ là phương tiện để nuôi thân, để bảo dưỡng tâm và có đủ điều kiện để
tiến bộ trên con đường trau giồi tâm linh. Sau mỗi ví dụ, Đức Phật đều nhấn mạnh
rằng “do vậy, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm còn nhiều hơn”
để mỗi hành giả khắc ghi điều này trong cuộc sống khi thọ dụng các phương tiện
đáp ứng nhu cầu của con người mà vẫn thong dong tự tại. Hạnh phúc không phải do
từ bên ngoài đi vào mà được chiết xuất từ bên trong mỗi con người vậy.
Hạnh phúc đích thực đến từ nội tâm
Trong cuộc sống, cái mà con người thực sự cần
là hạnh phúc, chứ không phải tài sản. Hạnh phúc là một cảm nhận hoàn toàn chủ
quan, được thể hiện qua sự hài lòng, thanh thản, bình yên, chứ không cần quá
nhiều tiền bạc vật chất bên ngoài. Để có hạnh phúc, chúng ta cần một đời sống
tâm linh phong phú để biết điều phục tâm, tiết chế trong các ham muốn phàm tình,
để khi thọ dụng vật chất, không để tâm dính mắc. Đức Phật dạy, không thể tìm thấy
hạnh phúc từ lợi dưỡng thế gian mà hạnh phúc ở ngay trong tâm mỗi con người:
Khó
nắm giữ, khinh động,
Theo
các dục quay cuồng.
Lành
thay, điều phục tâm ;
Tâm điều, an lạc đến (Pháp cú câu 35).
Ai sớm nhận ra điều này thì ngay lúc ấy, họ nắm
giữ chìa khóa để mở cánh cửa hạnh phúc đời mình.
Trên quan điểm này, người dân xứ Bhutan, một đất
nước chịu ảnh hưởng sâu sắc truyền thống Phật giáo, thay vì coi GNP (tổng thu
nhập quốc gia) là tiêu chí, đã đánh giá sự phát triển của đất nước này bằng một
tiêu chí khác là GNH (tổng hạnh phúc quốc gia). Người Bhutan quan niệm rằng một
đất nước phát triển là một nước mà người dân có được hạnh phúc. Ý niệm này đã
có mặt trên đất nước Bhutan nhỏ bé từ nhiều thế kỷ trước, nhưng phát triển ý tưởng
này thành khái niệm ‘tổng hạnh phúc quốc gia’ là sáng kiến của vua Jigme Singye
Wangchuck vào năm 1972. Khái niệm ‘hạnh phúc’ này được thẩm định trên các yếu tố
khách quan và chủ quan, căn cứ trên bốn lãnh vực gồm (i) sự phát triển kinh tế xã hội, (ii) kế thừa và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc, (iii) tôn trọng tất cả các sinh vật, bảo vệ
và sống thân thiện với môi trường, và (iv) tổ chức quản lý xã hội để đảm bảo sức
khoẻ và tuổi thọ cá nhân. Chỉ khi nào có sự phát triển cân đối hài hòa bốn yếu
tố này trong cuộc sống, con người mới có được hạnh phúc thật sự và bền vững.
Như vậy, sự phát triển kinh tế xã hội, với người dân Bhutan, chỉ là một trong bốn
tiêu chí của một cuộc sống hạnh phúc. Giàu có, với họ, vẫn chưa đảm bảo cuộc sống
hạnh phúc cho từng cá nhân cũng như cho quốc gia.
Thấm nhuần triết lý Phật giáo trong nếp nghĩ
và cách sống của mình, người Bhutan đã có ý thức rất rõ việc bảo vệ và phát triển
đất nước nhỏ bé xinh đẹp của họ theo một tiêu chí toàn diện, đa phương bao gồm
nhiều phương diện trong cuộc sống chứ không chỉ phát triển kinh tế. Do đó, mặc
dù người dân Bhutan còn nghèo về vật chất, họ hài lòng với một cuộc sống mà
quan niệm hạnh phúc không chỉ đo lường bằng kinh tế. Mặc dù khổ đau luôn tồn tại
ở nhiều hình thức và mức độ khác nhau như là một phần của cuộc sống, người dân
Bhutan tìm hạnh phúc trong cuộc sống hài hòa giữa nội tâm và ngoại cảnh, giữa
kinh tế, xã hội và văn hóa tâm linh.
Ở phạm vi cá nhân, mỗi người đều có thể kiến tạo
cho mình một cuộc sống hạnh phúc trên cơ sở bốn tiêu chí nêu trên của người
Bhutan. Từ kết quả nghiên cứu và thực tế ở đất nước Bhutan, chúng ta có thể nói
rằng, khi tâm con người hướng ngoại với tham vọng chinh phục, hạnh phúc xa vời
tầm tay dù giàu có. Ngược lại, khi biết hướng vào nội tâm, lấy đời sống tâm
linh làm nền tảng để điều chỉnh những ham muốn của mình, biết hài lòng với những
gì họ đang có và nối nhịp cầu hài hòa giữa con người và môi trường thiên nhiên
cũng như môi trường văn hóa xã hội, họ có thể tạo dựng cuộc sống hạnh phúc lâu
dài. Giáo lý Phật giáo về nhân quả, duyên sinh và vô thường đã giúp chúng ta hiểu
rằng, để có được hạnh phúc thật sự, con người cần phải quay về với bản tâm của
mình để có sự bình an nội tại và đặt mình trong mối tương duyên với tất cả các
sự vật hiện tượng bên ngoài.
Kiến tạo hạnh phúc đích thực
Khái niệm hạnh phúc của người Bhutan giúp
chúng ta suy nghĩ lại rằng, khi người ta đồng hóa hạnh phúc với của cải vật chất
và cố công đi tìm thứ hạnh phúc ấy thì oái oăm thay, càng tìm kiếm, hạnh phúc
càng xa vời. Nhiều người giàu có, nếu chịu khó suy nghĩ, trong những thăng trầm
của cuộc đời, sẽ thấm thía nỗi đau nhân thế và cảm nhận sâu sắc những bất hạnh của
người giàu. Có khi tự nghiệm bản thân cùng những mối quan hệ xã hội xung quanh,
người trong cuộc cũng có thể nhận ra sự khổ đau và bất hạnh lồ lộ ngay khi vầng
hào quang của tiền bạc danh vọng vẫn còn đang tỏa sáng.
Cuộc sống hiện tại đang thay đổi quá nhanh, xu
hướng chuộng vật chất như là một trào lưu đang tạo ra những hiểm họa khôn lường
mà toàn xã hội đã và đang lên tiếng báo động. Với con người, kinh tế và văn hóa
đều cần thiết như hai cánh của một con chim. Chim muốn bay xa và an toàn thì cần
cả hai cánh, người muốn hoàn thiện và hạnh phúc không chỉ phát triển kinh tế mà
cần phát triển văn hóa, nhất là văn hóa tâm linh. Mỗi cá nhân đều chịu trách
nhiệm như một kiến trúc sư của chính cuộc đời mình để trọn quyền quyết định hạnh
phúc hay khổ đau cho bản thân. Người Bhutan đã biết sống theo triết lý Đạo Phật
để được hạnh phúc, dù họ chưa giàu có về kinh tế. Tại sao chúng ta lại không áp
dụng tinh thần Đạo Phật để cuộc sống thêm ý nghĩa và thanh thoát hơn?
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Argyle, M. (1999). Causes and correlates of
happiness. In D. Kahneman, E. Diener & N. Schwarz (eds). Well-Being: The
foundations of hedonic psychology. New York: Russell Sage.
Duesenberry, J.
(1949). Income, Savings, and the Theory
of Human Behavior. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Easterbrook, G.
(2003). The Progress paradox: How life gets better while people feel worse. New
York: Random House.
Easterlin, R. A.
(1974). Does economic growth improve the human lot? Some empirical evidence. In
P. A. David & M. W. Reder, eds., Nations and households in economic
growth. New York: Academic Press.
Easterlin, R. A. (2003). Explaining happiness. Proceedings of the National Academy of
Sciences100 (19), 11176–83.
Schor, J. (1998). The Overspent american: why we want what we don’t need. New York:
Basic Books.
Veblen, T. (1967). The Theory of the
leisure class. New York: Viking Penguin.