Phật giáo và quyền động vật
phat giao
Phật giáo và quyền của động vật
Giáo sư K.T.S. Sarao*
Trong việc đánh thức và cảnh báo về sự suy thoái môi trường và sự
hủy diệt một số lượng lớn những loài động vật, vấn đề trở nên cấp thiết đối với
loài người là đánh giá lại thái độ của mình đối với môi trường và động vật. Một
nên văn minh mà ở đó chúng ta giết hại và bóc lột những dạng đời sống khác để sống
thì không phải là một nền văn minh của những con người có tâm thức khỏe mạnh.
Các ngành khoa học xã hội rõ ràng xem con người là siêu việt và sự thật của vấn
đề là họ ít để ý hay không quan tâm đến lĩnh vực động vật không thuộc con người.
Do đó, muông thú được mô tả như là cơ giới mà còn lâu mới được xem là những tác
nhân hay chủ thể có quyền của riêng chúng, và chúng hầu như bị những nhà khoa học
xã hội phớt lờ. Chúng và mối liên hệ của chúng với con người có khuynh hướng được
xem như là không xứng đáng quan tâm ở trong khoa học xã hội. Do đó, những vấn đề
liên quan đến lợi ích của động vật khó có mặt trong những khoa học xã hội mà ở
đó động vật được xem như phần bổ sung của hệ sinh thái lấy con người làm trọng
tâm. Chúng ta cần hỏi chính mình câu hỏi trọng yếu về những việc làm khác nhau
của con người với muông thú là có hợp lý về đạo đức và phương diện sinh thái
hay không? (được xem từ quan điểm con người).
Ngoài những động vật mà chúng đóng chức năng như những yếu tố
sinh kế, có những động vật lại được sử dụng để phục vụ cho những mục đích không
phải sinh kế con người, ví dụ như những đối tượng của tế lễ hay như những
tô-tem. Động vật ở nơi tư cách này được phong cho ý nghĩa tôn giáo và với sức mạnh
biểu tượng và ẩn dụ. Thêm nữa, những nhà nhân loại học đã tập trung vào những
vai trò mà động vật đóng ở trong đời sống tôn giáo và nghi lễ của con người. Nhưng
quan tâm của nhân chủng học vào những tô-tem động vật hay những biểu tượng động
vật thì không bảo đảm cho việc chống lại một giải pháp xem con người là siêu việt.
Hiện tại, chủ nghĩa xem con người là ưu việt trong những khoa học xã hội rõ
ràng không bị thách thức. Lý do đối với điều này là quan điểm được hiểu chung rằng
động vật tự chúng không cống hiến được thứ gì cả vì theo họ tính xã hội và văn
hóa không tồn tại bên ngoài thế giới con người.
Trên tổng thể, hình ảnh động vật trong khoa học xã hội không chỉ
là những đối tượng cho chủ thể con người hành động trên đó mà cũng là những
tương phản mà theo khoa học xã hội tạo nên những con người. Trở ngại khác đối với
việc thừa nhận tính tiếp liên giữa con người-động vật là sự sợ hãi trong số những
nhà sinh học về việc bị buộc tội thuyết hình người, việc quy kết những đặc điểm
riêng của con người cho động vật. Về phía của mình, những nhà khoa học xã hội
đang canh giữ đầy đố kỵ những gì họ xem là lĩnh vực con người và vì vậy có
khuynh hướng ủng hộ nỗi sợ thuyết hình người của những nhà sinh học. Những gì
hiện bị lên án là thuyết hình người là những mô tả đặc điểm đó mà những nhà
khoa học xã hội kịch liệt dành riêng cho con người. Trong phê bình của họ về
thuyết tiền định sinh học, những nhà khoa học xã hội chỉ ngón tay buộc tội vào
bất kỳ ai mà họ công nhận động vật có tư cách con người. Tuy nhiên, có một vài
nhà khoa học động vật can đảm nói rằng động vật là giống con người hơn và ít vật
thể hơn mà khoa học của họ sẽ làm chúng ta tin.
Thuyết vật linh và thuyết hình người là phổ biến trong những người
Ấn cổ đại. Động vật được xem như là một hiện thân của thần linh, hay những vị
thần của chính tổ tiên họ. Tất nhiên, sự thật rằng bất kỳ con người nông nghiệp
nào cũng đều có một cảm thức về sức mạnh mà nó vận hành trong tự nhiên, và đi đến
nhân cách hóa mỗi sức mạnh riêng biệt. Sự thực, một số bản kinh Phật giáo sơ kỳ
cho thấy rằng động vật chia sẻ bản chất tôn giáo của con người, mà những hiện
tượng được quán sát như vậy là những bằng chứng rõ ràng về sự liên kết giữa con
người, muông thú và thần linh. Quan điểm của Phật giáo về luân hồi ngang qua
các loài sống làm giảm khoảng cách tinh thần giữa con người và động vật. Nghiên
cứu hiện đại đã chỉ ra rằng động vật trải nghiệm những suy nghĩ và cảm xúc có ý
thức, và bức tranh đời sống động vật như là sự hiện hữu không có ý thức là
không thể đứng vững được nữa. Thật không còn tin được và lỗi thời khi xem những
trải nghiệm tâm thức chủ quan như là lĩnh vực độc quyền của một loài hay thậm
chí như lĩnh vực độc quyền của một số loài với não bộ lớn. Khả năng của động vật
để phản ứng một cách thích hợp đối với những thay đổi hay thách thức minh chứng
cho tính hợp lý hay sự hợp lý thực tiễn về những hành động của nó.
Phật giáo đã chế định những giới luật quan trọng mà chúng khẳng
định rằng giết hại những chúng sanh khác là một sự vi phạm những quy tắc đạo đức
cơ bản nhất của vũ trụ. Giới đầu tiên là cam kết tránh hủy hoại đời sống. Đây
là một trách nhiệm đạo đức mà những người mới nhập đạo biết như một phận việc cốt
lõi của đời sống tôn giáo. Xã hội đối với một Phật tử, do đó, không được xem
trong nghĩa hẹp của xã hội loài người, mà ở trong nghĩa rộng hơn của một cộng đồng
bao gồm tất cả những loài sống hay những chúng sanh khác.
Những Phật tử thời kỳ đầu chấp nhận quan điểm rằng tất cả muông
thú thuộc về một lãnh vực mà nó thấp hơn lãnh vực của con người. Con người, mặc
dù được thừa nhận là ở trong cùng một thể với những động vật khác, được xem là
kiểu mẫu của những gì đời sống sinh học nên là. Một hệ quả của niềm tin này là
rằng trạng thái của con người là vượt lên xa trạng thái của bất kỳ động vật nào
khác. Điều quan trọng khác được đưa vào xem xét là niềm tin rằng bất kỳ vị trí
hiện hành nào của chúng sanh trong vòng quay luân hồi đều được quyết định bởi
luật nghiệp. Nói chung, động vật được hiểu là thua kém so với con người, một hệ
quả của điều đó là niềm tin rằng sự hiện hữu của những động vật khác là bất hạnh,
ít ra được so sánh với sự hiện hữu của con người.
Những câu chuyện tiền thân (Jātaka) của Phật giáo trình bày một
quan điểm thuyết hình người về động vật, cho thấy những phẩm chất người thật sự
của chúng, vừa tốt vừa xấu, vừa anh hùng vừa độc ác. Những câu chuyện tiền thân
bao gồm nhiều loại truyện, từ sự giảng đạo của giới tu sĩ và những truyện ngụ
ngôn muông thú đơn giản, đến những câu chuyện muông thú từ bi và những lát cắt
của những sử thi anh hùng lớn hơn. Trong cả Jātaka Pali và Jātakamala của
Ariyasura, Đức Phật được thể hiện không phải thoát ra khỏi cuộc đời mà là hành
động với từ bi và trí tuệ vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong các Jātaka,
chúng ta phát hiện cái cốt tủy của thái độ Phật giáo đối với đời sống – thái độ
của lòng từ bi phổ quát mà nó là sự thúc đẩy tự nhiên để giúp đở kẻ khác phát
ra từ sự hiểu biết của tổng thể nội tại.
Trong các Jātaka, chúng ta thấy rằng xa xưa, khi là một hươu
chúa, Bồ-tát đã hy sinh mạng sống của mình để giải cứu tất cả sinh vật ra khỏi
hiểm nạn; khi làm một con khỉ Ngài đã cứu một kẻ thợ săn vô ơn; khi làm một con
sư tử Ngài đã cứu tất cả những con thú hoảng sợ khỏi nỗi sợ hãi; khi làm một
con vẹt Ngài đã bất chấp tính mạng bay qua ngọn lửa để cứu tất cả những kẻ bị mắc
kẹt trong một khu rừng đang cháy; khi làm một con voi Ngài đã hy sinh đời mình
để những kẻ sắp chết đói có thể sống; khi là một vị vua Ngài đã dâng thịt của
chính mình để cứu một con chim bồ câu; khi làm một vị thái tử Ngài đã hy sinh mạng
sống của mình để một con cọp mẹ và bầy cọp con sắp chết đói có thể sống. Chúng
chứng minh những hoạt động tự nhiên của tâm Bồ-tát, và bằng việc làm như vậy,
đưa tất cả sự hiện hữu vào trong một lĩnh vực rộng lớn của nỗ lực tâm linh mà ở
đó không có hình thức đời sống nào là bên ngoài đạo. Tất cả chúng sanh được cho
thấy là những vị Phật và Bồ-tát sẽ thành. Vi trùng, chim sẻ, chó, khỉ, ngựa, cá
heo, con người: mỗi loài ở tại cấp độ của chính nó có thể cảm nhận sự thương
xót đối với khổ đau của kẻ khác và hành động một cách vị tha để làm giảm nỗi
đau của tất cả chúng sanh. Ở một vài khoảnh khắc trong đời sống, nó dường như,
mỗi loài được cung cấp một cơ hội và một sự chọn lựa. Bên cạnh khai mở tính Phật
ở trong con đường đạo của mình cho quả vị Phật, những Jātaka đồng thời xác nhận
và đưa ra lòng tin đối với cảm thức thương yêu tự nhiên của chính chúng ta và
hành động vị tha tự nguyện của chính chúng ta. Những câu chuyện này một cách lý
tưởng chỉ cho ta cách để sống trong một thế giới khổ đau, cũng như trao cho
chúng ta một cái nhìn tâm linh sâu sắc về bản chất của vũ trụ.
Thông điệp của các Jātaka là đặc biệt sâu sắc trong thời đại của chúng
ta. Khi chúng ta biết rõ hơn về những sự phá hoại, những dạng đời sống của thế
kỷ XXI mà chúng ta tạo nên trên hành tinh này, như cảnh ngộ khốn khổ của cá
voi, khỉ núi, chó sói, và những loài thú khác trong tình thế nguy hiểm, cũng
như sự đối xử thô bạo mà mèo, chó, thỏ, khỉ và chuột nhận lấy ở trong phòng thí
nghiệm của chúng ta, thì trở nên rõ ràng đối với chúng ta, những Jātaka càng có
ý nghĩa lớn hơn. Ai biết, như các Jātaka đề xuất, trong chính những động vật mà
chúng ta gây khổ cho chúng, giết thịt và ăn nuốt chúng, là những chúng sanh có
cảm thức và có khát vọng, là những Bồ-tát và Phật tương lai. Các Jātaka, mỗi
khi chạm đến được trái tim, sẽ chuyển đổi những tri giác của chúng ta.
Sau khi đi vào thế giới của các Jātaka, chúng ta không thể không
cảm nhận sâu sắc hơn đối với động vật. Nó cũng khó hơn để tin rằng chúng là thấp
hơn chúng ta – rằng chúng có mặt ở đây dành cho sự hưởng thụ và sử dụng của
chúng ta. Các Jātaka giúp chúng ta thấy rằng muông thú có đời sống riêng của
chúng, có nghiệp, những thử thách, mục đích và khát vọng riêng của chúng. Và,
vì thường đau khổ, vì đời sống của chúng có thể là như vậy, chúng cũng được ban
cho sự thanh sạch mà chúng ta chỉ có thể khiêm nhường kính trọng, và có lẽ thậm
chí đôi khi đố kỵ. Những Jātaka công nhận những cảm thức sâu sắc nhất của chúng
ta và giúp cho chúng ta ngày hôm nay có hiểu biết về trí tuệ vốn có trong tất cả
mọi dạng đời sống. Đánh mất sự kính trọng đối với tất cả những loài khác, trước
hết, là làm yếu đi cái cơ bản đầu tiên và chính yếu nhất của các giới – không
giết hại mà còn coi trọng tất cả mọi đời sống.
Nổi tiếng nhất là chuyện tiền thân Sata, kể về con thỏ sống trong rừng với một con khỉ, một con chó rừng
và một con rái cá. Câu chuyện liên quan đến sự quyết định của chúng để tiến
hành những thánh nhật và giới luật bằng việc bố thí. Quan sát ngày trăng tròn,
chúng quyết định xem ngày kế tiếp như một ngày trai giới và bố thí cho bất kỳ kẻ
ăn xin nào. Trong khi con khỉ, chó rừng và rái cá thu gom thức ăn để cho những
ai cần nó, con thỏ không thể thu gom thức ăn nên đã dâng thịt của chính mình.
Thỏ đã được tưởng thưởng là hình ảnh của nó được in lên mặt trăng. Con thú anh
hùng ở đây được xem như là một vị Bồ-tát ở trong một tiền kiếp. Câu chuyện đưa
ra một bức tranh nhân văn về những đặc tính động vật của nó.
Jātaka
Nandimagga là một câu chuyện về một con hươu đã
không sợ hãi đối mặt với một vị vua đang săn bắn; bằng cái nhìn bất động của
mình, nó đã thay đổi tâm của vị vua và cứu những con thú khác. Trong kinh Pháp cú, chúng ta thấy câu chuyện về
Dhanapalaka, một con voi chịu nỗi nhớ nhà sau khi bị tách ra khỏi mẹ của nó.
Con voi bị bắt giữ đã từ chối thức ăn. Trong Jātaka Mahakapi, một con khỉ
cứu sống bộ tộc của nó bằng việc sử dụng thân thể của mình như một phần của một
chiếc cầu cho bầy khỉ vượt qua sông Hằng. Trong khi một vài Jātaka khác mô tả
những phẩm chất siêu nhiên biểu lộ đời sống của Bồ-tát, chúng cũng phản ánh khả
tính thương yêu, mà nó quan trọng như phẩm chất anh hùng là can đảm và hy sinh.
Mặc dù chúng ta không thể tìm ra một bộ luật đạo đức có cấu trúc trong các động
vật, chúng dường như biểu lộ một vài những đức hạnh có giá trị sâu sắc. Qua
quán sát thấy rằng, muông thú hy sinh cho con cái của chúng, cảm thông với đồng
loại của chúng, yêu mến bạn tình của chúng, và tương thuộc với cộng đồng của
chúng.
Có những lý do khác nhau về sự xuất hiện của động vật ở trong
văn học, điêu khắc và tranh vẻ Phật giáo. Trước hết, đây là bởi nghiệp ở đó con
người tái sanh lập đi lập lại trong những hình thức khác nhau. Lý do thứ hai là
khuynh hướng đối với thuyết vật linh, quan điểm rằng muông thú và thậm chí cỏ
cây mà chúng liên quan đến con người thì có đời sống trong một cách thức tương
tự như con người. Tư tưởng này dường như đã rất mạnh vào thời Đức Phật. Lý do
thứ ba là sự nhân cách hóa muông thú mà nó được phát triển mạnh vào thời điểm
đó. Nó là rất dễ để thích ứng những nhân cách hóa này cho những mục đích đạo đức
và như vậy những con thú và con người nói chuyện với nhau trên cùng một cơ sở.
Điều này xảy ra phần lớn ở trong những câu chuyện và ngụ ngôn. Việc sử dụng động
vật mà nó quen thuộc với mọi người là một phương pháp rất hay để phổ biến giáo
pháp. Nhiều ví dụ của phương pháp này được tìm thấy trong các Jātaka. Jātaka Ruru viết: Con trai của một
thương nhân giàu có, người sống một đời sống phóng đãng đã cố tự sát bằng việc
gieo mình vào sông Hằng. Một con nai có tên là Ruru đã cứu người thanh niên bằng
việc gây nguy hiểm cho tính mạng của nó. Sau đó, người thanh niên phản bội con
nai bằng việc đưa thông tin về chỗ ở của con nai. Nhưng từ việc ấy, con nai bị
bắt, nhà vua đến và biết về mối liên hệ giữa hai vị. Nhà vua để cho con nai đi
nhưng muốn giết người thanh niên. Con nai, tuy nhiên, cầu xin nhà vua để cho
người thanh niên đi.
Những ngụ ngôn được sử dụng cho việc dễ dàng lĩnh hội ý nghĩa của
giáo pháp. Có những trường hợp con người được so sánh với thú vật để chỉ cho sự
hùng dũng và tài trí của họ. Ví dụ, một người hùng dũng đôi khi được ví giống
như sư tử. Đây là một biệt danh dành cho một con người tài giỏi giữa con người,
giống như một con sư tử là đứng đầu tất cả muông thú. Đây cũng là một diễn tả
khác dành cho Đức Phật. Trong tư tưởng Ấn Độ, đời sống con người không kết thúc
với một đời mà được xem là tiếp tục ngang qua sức mạnh của nghiệp. Theo bản chất
nghiệp của ta, sự tái sanh xảy ra và ta chuyển đổi vào trong những hình thức hiện
hữu khác nhau. Điều này được gọi là luân hồi (samsara). Vì những loại nghiệp là
vô tận, nên những loài chúng sanh cũng như vậy.
Chúng sinh trên trái đất này là vô số và loài này khác với loài
kia. Đây là do sự khác nhau của nghiệp. Sanh làm thú được xem như một kết quả của
nghiệp xấu khi đời sống của một con thú được xem như đời sống mà nó đầy bạo lực,
thiếu lý trí và ít hạnh phúc. Những người mà phạm năm giới và mười nghiệp xấu
ác thì sanh làm muông thú và đời sống như một con thú thì vô cùng khốn khổ do loài
này phải làm mồi cho loài kia. Tuy nhiên, luôn có khả năng cho một con thú trở
thành một vị Bồ-tát và như vậy, bất kể ở nơi lĩnh vực ta tái sanh là gì, luôn
có khả năng cho việc đạt lấy Phật quả. Những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo tiêu
biểu nhất được tìm thấy ở Bharhut, Sanchi và Ajanta mô tả những câu chuyện vệ Đức
Phật Thích Ca như được trình bày trong các Jātaka. Trong số chúng là nhiều con
thú. Sư tử, bò, ngựa, voi là đặc biệt được đề cập ở đây.
Abhaya-dana (vô úy thí) là một loại bố thí mà nó có nghĩa là giúp
xua đi nỗi sợ của kẻ khác và mang lại sự bình an. Theo một truyền thống Phật
giáo, Abhaya-mudra được nói là đã bắt nguồn từ cử chỉ mà Đức Phật thể hiện khi
Ngài bị con voi say Nalagiri do Đề Bà Đạt Đa chủ mưu thả ở trên đường đe dọa.
Abhaya-dana được một số vị vua của những quốc gia Theravada thể hiện cụ thể,
theo cách của họ. Chúng ta có những ví dụ từ những bản khắc chữ của vua Ashoka
chẳng hạn như sắc lệnh thứ 2, thứ 5 và thứ 7 được viết trên trụ đá, mà ngày hôm
nay chúng ta biết như luật ngăn chặn sự thô bạo với muông thú. Mặc dù sắc lệnh
thứ năm không hoàn toàn cấm giết hại muông thú và chỉ đưa ra một cái nhìn hiện
thực về chủ đề, tuy nhiên, trong thực tế, không nghi ngờ rằng nó là một trường
hợp tích cực của vô úy thí. Cũng như vậy nó thật sự rõ ràng từ những nội dung của
bảng khắc song ngữ (gồm tiếng Hy Lạp và một ngôn ngữ vùng Cận Đông cổ đại) của
hoàng đế Ashoka được phát hiện gần đây ở Afghanistan. Mahavamsa đề cập rằng một vài vị vua của Sri Lanka đã cấm sát hại
thú vật, đôi khi tuyệt đối và tại những thời điểm khác ở trong một vài tình huống.
Amandgamani Abhaya (thế kỷ I TL) và Kassapa V (thế kỷ X TL) có thể được trích dẫn
như những ví dụ. Trong những thời đại về sau chúng ta có những ghi chép từ những
bản khắc chữ, như bản khắc chữ của Nissanka Malla của thế kỷ XII, người đã đem
lại sự an toàn sống cho muông thú chẳng hạn như cá trong bể, chim và thú rừng.
Cũng lưu ý ở đây rằng, không giống như những bản khắc chữ của Ashoka, từ ngữ thực
sự được sử dụng là abhaya-dana.
Trong Ấn Độ lịch sử, những vị thần muông thú có trước những vị
thần hình nhân. Trong suốt thời kỳ Mauryan, những bức tượng hoàn toàn thuộc về
thế giới muông thú. Trong thời kỳ theo sau, hình ảnh tập trung nhiều vào muông
thú hơn là con người. Muông thú chiếm ưu thế như là đặc điểm trong các câu chuyện
Jātaka và những vị anh hùng nói chung không phải con người mà là muông thú.
Thêm nữa, đây là những kẻ mang văn hóa. Nhân loại nhận nước từ một con rắn, lửa
từ một con ếch và giấc ngủ từ một con thằn lằn. Có lẽ con người nguyên thủy quá
sợ hãi bởi những khả năng siêu nhiên của những sinh vật khác. Những muông thú
mà chúng được khắc họa trong văn học và nghệ thuật Phật giáo luôn là những động
vật có tốc độ và sức mạnh ấn tượng – ngựa, trâu, hươu, cọp, sư tử, gấu, tê
giác. Nhưng động vật cũng có thể được đề cập như Bồ-tát chỉ bởi vì chúng không
giống như chúng ta, và do đó đầy những bí ẩn.
Sự xuất hiện của những vị thần muông thú là sản phẩm của sự trải
nghiệm văn hóa vượt qua hàng trăm thiên niên kỷ, mà trong đó con người đã sống
như muông thú trong số những sinh vật khác của đời sống hoang dã. Bởi vì những
sinh vật này dường như không còn kết nối với họ một cách trực tiếp, con người cố
với lấy những muông thú thông qua hình ảnh và ký hiệu. Những hình ảnh và ký hiệu
được mô tả trong văn học và nghệ thuật Phật giáo trên cơ sở kích cở, sức mạnh,
thói quen và tướng trạng của chúng trở thành những sinh vật thiêng liêng, được
tuyên bố bởi những thần linh hay con người. Thông qua những hình ảnh thiêng
liêng con người có thể vượt qua vực rộng giữa trải nghiệm và trí nhớ.
Đức Phật nhiệt thành biện luận tầm quan trọng của việc đối xử đạo
đức với tất cả chúng sanh như là một sự ưu tiên. Ngài phản đối tế lễ muông thú
và quan tâm đặc biệt đến nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng một hệ thống đạo
đức mà ở đó công bằng cho muông thú được xem như mô thức thay vì sự ngoại lệ. Đề
cập thường xuyên của Đức Phật đối với sự di chuyển luân hồi ngang qua những
loài sống làm giảm khoảng cách tinh thần giữa con người và những sinh vật khác.
Trong bài viết này, một nổ lực được thực hiện để tỏ rõ trên cơ sở của văn học
Phật giáo sơ kỳ mà muông thú trong Phật giáo không chỉ bị dồn đuổi bởi những
thúc đẩy vượt qua khỏi sự kiểm soát của chúng và rằng chúng có khả năng cảm xúc
và động cơ tự nguyện. Khi những quyền của động vật/ phong trào phúc lợi đang
phát triển mạnh mẽ hơn từng ngày, ngang qua bài viết này đã cho thấy rằng Phật
giáo có nhiều bài học quan trọng đáp ứng ở trong lĩnh vực này.
Phật giáo không phân biệt muông thú và con người một cách rõ
ràng như những tín ngưỡng Do Thái-Thiên Chúa giáo, và những vị thần Phật giáo
thường được miêu tả trong hình thức muông thú. Một số lượng lớn những vị Bồ-tát
muông thú là chứng cớ của điều này. Sư tử, bò, voi vẫn liên kết trực tiếp với Đức
Phật. Có nhiều câu chuyện Jātaka mà chúng có thể đã phục vụ để đồng hóa những
sùng bái muông thú địa phương vào trong Phật giáo. Những sùng bái muông thú xa
xưa vẫn là một phần của truyền thuyết dân gian vào thời Đức Phật, và Ngài cho
thấy đã hòa trộn những những đặc điểm động vật với những đặc điểm con người
trong khi gộp chúng vào trong hệ thống
Phật giáo. Chúng ta cần những nhân vật gây cảm hứng mà chúng không phải là hình
nhân để nhắc chúng ta rằng thế giới không chỉ tạo ra cho con người, mà rằng những
sinh vật khác cũng cần được kính trọng. Thêm nữa, nhận thức những thần tính mà
đó không phải là thuyết hình người có thể khuếch tán và hòa giải sự căng thẳng
mà nó xuất phát từ việc xem thần tính chỉ có dưới dạng người nam và người nữ.
Đức Phật đại diện cho một mối liên hệ giữa con người và muông thú
được đặc cơ sở trên đạo đức. Quan điểm về sự tiếp tục của đời sống giữa đời sống
con người và muông thú là ẩn tàng trong những khái niệm Phật giáo chẳng hạn như
khái niệm nghiệp và tái sanh. Đức Phật chỉ ra rằng chúng sanh thấp kém hay cao
quý, xinh đẹp hay xấu xí, khỏe mạnh hay ốm yếu, là do nghiệp của họ. Chúng sinh
trải từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác là tái sanh tương ứng với bản chất
hành vi của họ. Nghiệp của một chúng sanh đưa vị ấy trải từ sự hiện hữu này đến
sự hiện hữu khác tùy thuộc nó thiện hay bất thiện. Sau khi chết, thân xác tan
rã và một cá nhân tái sanh trong một trạng thái hiện hữu thỏa đáng (sugati) chẳng
hạn là một con người nếu hành vi của nó là tương đối tốt hay một trạng thái hiện
hữu đau khổ (duggati) chẳng hạn như một con thú hay thậm chí tệ hơn nếu hành vi
của nó là xấu. Như vậy, những cá nhân mà họ đi cùng với đời sống này, thì nếu họ
là những thợ săn tay đẫm máu, hay những tên trộm, hay những loại người đại loại
giống vậy, thì có khả năng tái sanh vào trong hình thức của một sinh vật vụng
trộm hay bò trườn như một con rắn, một con bò cạp, một con rết, một con cầy
mangut, một con mèo, một con chuột, một con cú và v.v… Theo cách khác một con
thú có thể sanh làm một con người.
Muông thú cũng được Phật giáo xem như là chủ đề đối với nghiệp của
họ. Một số lớn Jātaka coi nghiệp tốt và xấu được thực hiện trong quá khứ bởi những
loại thú khác nhau. Những nghiệp này sau đó nối kết với hiện tại, những sinh vật
tốt được nhận biết thông qua tiến trình tái sanh với Phật và những đệ tử của
Ngài, còn những kẻ xấu với Đề Bà Đạt Đa và những người như vậy. Do đó, một người
có thể sanh làm thú và ngược lại tùy thuộc vào nghiệp. Như vậy, Phật giáo xem
muông thú và con người như là phần của cùng một chuỗi hình thành, cùng một dòng
vũ trụ trong quan điểm Phật giáo cấu thành nên sự hiện hữu hiện tượng. Điều này
thể hiện rõ trong một lời nói của Đức Phật khi Ngài cho rằng thật không dễ gì để
tìm ra một chúng sanh nào mà đó không phải là mẹ, cha, anh, chị, con cái của
chúng ta…(do vì) sự diễn tiến của tái sanh.
Tuy nhiên, muông thú vốn không được xem là có khả năng thăng tiến
trong giáo pháp. Phật giáo đánh giá thấp những phẩm chất tâm linh của muông thú
và có thể nói rằng muông thú trên tổng thể nói chung được xem là nhiều bạo lực,
ít thông minh, và sự hiện hữu của chúng là ít thõa mãn hơn sự hiện hữu của con
người. Nhưng, vẫn có thể nói rằng bên trong chuỗi luân hồi không có sự tách biệt
cố định hay cuối cùng giữa các chúng sanh bên trong hai dòng hiện hữu.
Trong những giới luật của Luật tạng, giới không được sát sanh có
thay đổi theo một cách thức đáng kể. Không được tước đoạt mạng người được liệt ở
đây như là giới thứ ba của parajika (ba-la-di), loại phạm tội nghiêm trọng nhất,
đưa đến bị tẩn xuất khỏi Tăng đoàn vì sự bạo lực của nó. Điều này phân biệt với
sự hủy hoại đời sống chúng sanh không phải con người, mà nó được phân loại
trong pacittiya (ba-dật-đề) ít nghiêm trọng hơn mà nó cấm Tăng sĩ sử dụng nước
có chứa sinh linh làm rõ ràng ý định áp dụng luật chống lại sự hủy hoại đời sống
ngay cho dù với côn trung và những loại sinh vật đơn bào nhỏ nhất. Một số văn bản
về sau có những bước đi dài hơn khi ghép những người hủy hoại những loại đời sống
muông thú khác nhau dưới những tình huống khác nhau với những địa ngục tương xứng.
Kinh Saddharmasm-tyupasthana, một bản
kinh Sanskrit có niên đại thế kỷ IV-V TL, là một trường hợp sớm của kiểu mẫu
này. Theo văn bản này, những người giết hại chim hay hươu mà không hối hận thì
bị đọa vào một địa ngục thấp được gọi là địa ngục Phân dơ; những người nấu sống
lạc đà, heo, cừu, thỏ, gấu, và những loài như vậy thì bị trừng phạt trong địa
ngục Vạc nấu; những người mà đánh đập rùa hay bóp chết cừu thì bị đày vào địa
ngục Tối tăm. Thậm chí làm bị thương một con thú là hành vi không thể chấp nhận
được. Được quy định rằng nếu một Tăng sĩ đào một cái hố và một con thú rơi vào
trong đó, có một sự phạm tội về việc làm sai trái. Trong trường hợp con thú chết,
tội buộc phải sám hối.
Đức Phật phê bình mạnh mẽ những thực hành tế lễ muông vật cũng
như lấy săn bắn để tiêu khiển của vua chúa. Ngài không khuyến khích chiến tranh
như một phương thức bình định bất đồng và chứng minh sự hoàn toàn vô ích của
nó. Vấn đề này được mở rộng đến những sinh vật nhỏ nhất. Giới luật dành cho
Tăng sĩ cấm chặt phá cây cối. Hủy diệt cây cối, đào đất v.v… có thể được giải
thích như một cảnh báo rằng những dạng đời sống nhỏ nhiệm có thể bị hủy diệt bởi
những hành động như vậy. Một số dạng đời sống được gọi là ekindriya jiva cư trú
trên cây cỏ và đất đai, và thậm chí nước có thể có những sinh vật (sappanaka
udaka) ở trong đó. Một vị vua lý tưởng, như được đề cập ở trong kinh Cakkavattisihanada, nên bảo vệ không chỉ
con người, mà cũng cả thú rừng và chim chóc.
Quan tâm của Đức Phật về giá trị của đời sống phát xuất từ lòng
từ bi, đó là tại sao Ngài phê bình việc tử hình, chiến tranh, săn bắn, tế lễ
muông thú, tự tử và sự nhẫn tâm đối với chúng sanh. Agni, thần Lửa của Vệ-đà,
có lẽ bị đối xử khinh bỉ nhất trong số những vị thần Vệ-đà được đề cập đến
trong văn học Pali Phật giáo sơ kỳ, không giống như những vị thần khác như
Indra (Sakka) và Phạm thiên (Brahma). Những tác giả Phật giáo thời kỳ đầu không
nhầm lẫn về việc xác định hay kết hợp vị thần này bằng những tế lễ (brahmana) với
nghi lễ lửa của Vệ-đà, điều mà, đặc biệt liên quan đến tế lễ muông thú, những
Phật tử luôn hoàn toàn chê trách. Sự khinh miệt đối với nghi lễ này có lẽ liên
quan đến sự thật rằng thần Agni của Vệ-đà chia sẻ những đặc điểm chung với tu
sĩ tế lễ, mà đối với họ những tác gia Tăng sĩ của Phật giáo sơ kỳ dường như
không có điều gì ngoài sự nhạo báng và khinh miệt.
Trong hệ thống thờ phượng Vệ-đà, Thần Agni, một thầy tế của các
thần linh, là biểu tượng thiêng liêng của giới tư tế. Một thái độ chỉ trích có
mặt khắp trong tất cả những đề cập đến Agni trong văn học Pali Phật giáo. Lý do
cho điều này là rằng trong tâm người Phật tử nghi lễ luôn được kết hợp với tế lễ
sinh mạng muông thú. Những điên cuồng của tế lễ được miêu tả nhấn mạnh ở trong
kinh Aggi. Đức Phật kịch liệt chống lại
những tế lễ muông thú. Ngài chỉ ra rằng những tế lễ như Asvamedha mang lại những
tai họa to lớn. Tế lễ muông thú là một đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng
Bà-la-môn trước và vào thời Đức Phật. Đức Phật công khai bác bỏ một sự thực
hành tai hại như vậy.
Trong liệt kê năm loại buôn bán mà tất cả Phật tử hoàn toàn bị cấm
tham gia vào, có hai loại buôn bán liên quan đến thú vật và đó là kinh doanh thịt,
và kinh doanh chúng sinh. Công việc giết mổ cừu, giết lợn, ngư phủ, bẫy thú được
xem là quá tàn ác đến độ chúng được xếp cùng với trộm cắp và đao phủ. Phật giáo
khuyên tín đồ của mình đối xử với muông thú bằng những nguyên tắc đạo đức tích
cực và phổ quát (các phạm trú) mà chúng chi phối mối liên hệ hỗ tương của con
người, tức là những đức hạnh này bao gồm từ (metta), bi (karuna), hỷ (mudita)
và xả (upekkha) có ý định được áp dụng đối với tất cả chúng sanh. Phật giáo có
đầy đủ những ví dụ về sự cộng sinh của con người với những động vật khác và những
cách sống thân thiện với môi trường.
Trong một vài truyền thống Phật giáo, ăn thịt là hoàn toàn bị cấm.
Trong Phật giáo Theravada ăn thịt được phép nhưng dưới một vài điều kiện. Trong
mọi trường hợp, ngay dù cả Phật giáo Theravada, như được chỉ ra trong kinh Puttamamsa, rằng thực phẩm vật chất
(kabalinkara ahara) nên được thọ nhận không phải vị sự thích thú (davaya), hay
sự ham thích (madaya), hay sự sung sướng cá nhân (mandayana), mà chỉ vì sự cần
thiết để sống. Trong khi thực phẩm được thừa nhận là điều kiện tiên quyết chính
cho sự tồn tại, nó cũng được biết như một nguồn cám dỗ, như một đối tượng mà
thông qua nó vị giác phát triển thèm muốn. Do đó, trong vô số lý do, sự điều độ
liên quan đến thực thẩm được ủng hộ, mặc dù không bao giờ đến mức hành xác
(attakilamatha). Vị Tăng lý tưởng được mô tả là người kiểm soát được hành vi và
lời nói, tiết chế và điều độ trong thọ nhận thực phẩm, dễ dàng thỏa mãn. Ngược
lại, một người không điều độ với thực phẩm được mô tả như là người thiếu suy
nghĩ và thiếu khôn ngoan.
Trong Phật giáo, giết hại hay làm tổn thương chúng sanh được xem
là bất thiện và về bản chất là thiếu đạo đức; vì, một mặt, giết hại hay làm tổn
thương chúng là nghiệp xấu mà nó đưa đến những kết quả xấu ác cho kẻ gây ra sau
khi chết, và mặt khác tất cả mọi chúng sinh khác đều sợ chết và muốn tránh khổ
đau giống như chúng ta.
Phật giáo không xem con người như một sáng tạo đặc biệt của
Thiên Chúa, hay được trao cho quyền lực hay cương vị quản lý muông thú v.v… Mặc
dù con người có một sự tự do và khả năng hiểu biết lớn hơn muông thú, thì giống
như tất cả những chúng sanh khác, con người cũng luẩn quẩn ở trong lĩnh vực giới
hạn và có điều kiện của thế giới luân hồi. Tuy nhiên, khả năng và hiểu biết lớn
hơn không có nghĩa là ta có quyền bóc lột, mà cần có một thái độ tử tế với những
loài sống thấp kém hơn. Cần hiểu rằng, vị trí may mắn hiện tại của chúng ta là
một con người chỉ là một trạng thái tạm thời, tùy thuộc vào nghiệp thiện quá khứ.
Ta không thể tách mình ra khỏi cảnh khốn khổ của thú vật, khi chính ta đã trải
nghiệm điều đó, giống như những muông thú đã trải qua những kiếp làm người.
Thêm nữa, ở trong vòng luân hồi vô tân, mỗi chúng sanh đôi khi đã là một người
bạn hay một người thân, và đã từng rất tốt với ta. Mang điều này trong tâm, ta
nên quan tâm hơn đến muông thú và quyền sống của chúng.
Nguyên Hiệp dịch
Nguồn: buddhachannel.tv
*Trưởng
khoa Phật học, Đại học Delhi, Ấn Độ.