Khỉ trong truyền thuyết và nghệ thuật Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản
khi
Khỉ trong truyền thuyết
và nghệ thuật Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản
Mark Schumacher
Truyền thuyết khỉ ở Ấn Độ
Từ Vanara trong tiếng Sanskrit
có nghĩa là khỉ hay người ở trong rừng. Những từ ngữ Sanskrit khác chỉ cho khỉ
bao gồm Makata và Kapi. Ở Ấn Độ, Vanara được biết phổ biến nhất là Hanuman, chiến
binh khỉ xuất hiện trong sử thi Ramayana (thế
kỷ V-IV trước TL). Ngay cả ngày nay, Hanuman là một vì thần
làng rất phổ biến ở miền Nam, Trung và Bắc Ấn Độ, và hình ảnh Hanuman vẫn có thể
dễ dàng được nhìn thấy ở Ấn Độ và những quốc gia khác ở Đông Nam Á.
Hanuman là một hiện thân
(avatar) của thần Śiva Ấn Độ giáo. Trong một phiên bản của câu chuyện, Śiva và
Parvati (con gái của núi) biến hóa thành hai con khỉ và làm trò ân ái trong rừng
với nhau và khi ấy Hanuman được thụ thai. Bởi vì sự kết hợp của họ xảy ra trong
hình hài khỉ, Śiva biết rằng con của bà sẽ giống như khỉ, và vì vậy chỉ thị Vayu
(thần gió) đem ký gửi cái bào thai mình đang mang ấy vào trong bụng của một con
khỉ cái tên là Anjana. Anjana nguyên thủy là một thiên nữ (apsara) có tên là
Punjisthala, nhưng một lời nguyền đã biến cô thành một con khỉ. Vayu bắt lấy
Anjana, và cô này sinh ra Hanuman. Hanuman như vậy cũng được gọi là Maruti (con
trai của gió) và Anjaneya (con trai của Anjana).
Truyền thuyết cho rằng
Hanuman, ngay sau khi sinh, đã nhầm mặt trời là một trái cây mà nó có thể ăn được.
Khi nó bay đến để vồ chụp mặt trời, nó bị Thần Indra đánh ngã song soái bằng một
tiếng sét vì sự ngu ngóc của nó. Sấm sét đã đánh Hanuman, cắt má của nó, và do
đó nó được gọi là Hanuman (trong tiếng Sanskrit “hanu” có nghĩa là má). Nó nằm
bất tỉnh mãi cho đến khi thần Indra rút thần lực sấm sét để làm nguôi giận thần
gió Vayu, người đã hút hết không khí của vũ trụ để thể hiện sự không bằng lòng
của mình với thần Indra. Để bồi thường và xoa dịu Vayu, các thần linh đã ban
cho Hanuman những thần lực đặc biệt. Khi Hanuman lớn lên, nó càng trở nên vô địch,
nhưng nó là một kẻ lừa gạt và cuối cùng bị các vị thần nguyền rủa vì sự tinh
quái của mình – nó bị làm cho quên đi những thần lực của mình mãi cho đến khi
được người khác nhắc cho nhớ lại. Trong sử thi Ramayana, những vanara bạn bè của Hanuman giúp nó nhớ lại thần lực
của mình, mà nó dùng để giúp đỡ Rama trong việc giải cứu vợ của Rama là Sita ra
khỏi Ravana ác độc (vua của Raksa). Hanuman tự chuộc lỗi, và trở thành một ẩn dụ
của sự can đảm, trung thành, và tận tâm với sự chính trực. Một vài học giả cho
rằng huyền thoại Hanuman có thể là nguồn gốc của con khỉ thần thông biến hóa
Tôn Ngộ Không, nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết Tây du kýđình đám của Trung Quốc.
Truyền thuyết khỉ trong những câu chuyện
Jataka Phật giáo (chuyện tiền thân Đức
Phật)
Truyền thuyết khỉ đóng một
vai trò nổi bật trong thời kỳ đầu của Phật giáo ở Ấn Độ. Trong số hàng trăm câu
chuyện ở trong Jataka – có lẽ đây là
bộ sưu tập chuyện dân gian Phật giáo hiện có cổ nhất có nguồn gốc ở Ấn Độ và
Sri Lanka vào khoảng thế kỷ III trước TL – Đức Phật lịch sử được cho là đã sống
nhiều tiền kiếp trong nhiều hình thức khác nhau trước khi đạt giác ngộ.
Trong những câu chuyện tiền
thân (Jataka), Ngài thường xuất hiện trong hình thức của một con khỉ (tức là
Nandiya), nhưng có khi là những con thú khác, và có khi là một con người, hay
thậm chí có khi là một vị thần. Nhưng khắp suốt, dù với hình thức nào, Ngài
luôn thực hành bố thí, thể hiện sự can đảm, công bằng và nhẫn nhục cho đến cuối
cùng đạt được Phật quả. Jataka ghi lại
Ngài đã từng có 123 kiếp quá khứ làm thú, 357 kiếp làm người, và 66 kiếp làm thần.
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), một người anh em họ của Đức Phật lịch sử, cũng xuất
hiện trong nhiều câu chuyện Jataka ở
trong nhiều thân tái sanh khác nhau, đặc biệt là những kẻ hung ác.
Bốn anh em hòa hợp
Câu chuyện Kapinjala là một câu chuyện tiền thân phổ
biến. Câu chuyện kể về bốn con thú sống trong rừng, đó là một con thỏ, một con
khỉ, một loại chim được gọi là Kapinjala, và một con voi. Chúng chọn Kapinjala
làm thủ lĩnh của mình và sống trong hòa hợp và tương kính. Kapinjala là tiền
thân của Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, con thỏ là tiền thân của Xá Lợi Phất
(Sariputta), con khỉ là tiền thân của Mục Kiền Liên (Maudgalyayana), và con voi
là A Nan (Ananda).
Chín con khỉ xấu ác trong giấc mơ của
vua Kriki (Cật Lý Chí Vương 訖哩枳王)
Có một vị vua là đệ tử
thuần thành của Đức Phật Ca Diếp (Kashyapa, Đức Phật quá khứ thứ sáu. Đức Phật
thứ bảy là Phật Thích Ca). Trong bản kinh mang tên Thủ hộ quốc giới chủ đà-la-nikinh (守護國界主陀羅尼經), vua Kriti lo lắng vì
những giấc mơ của mình và xin Đức Phật Ca Diếp làm sáng tỏ giúp. Một trong những
giấc mơ của vua liên quan đến mười con khỉ, chúng sống với nhau trong cùng một
đàn. Chín con trong số chúng thường quấy nhiễu dân chúng trong thành phố bằng
việc trộm cắp đồ ăn thức uống của họ. Con thứ mười không tham gia với chín con
kia và bằng lòng với những gì ít ỏi mà nó có được. Vì điều này, chín con khỉ
khác đã tẩy chay nó.
Đức Phật Ca Diếp giảng giải
rằng giấc mơ tượng trưng cho những điều kiện của thế giới Phật giáo mà nó sẽ thịnh
hành sau khi Đức Phật lịch sử nhập diệt. Mười con khỉ tượng trưng cho mười hạng
Tăng sĩ; con khỉ bị tẩy chay là người có ít tham dục và biết bằng lòng tượng
trưng cho hàng Tăng sĩ chân thực, người tìm cầu Pháp (Dharma). Chín hạng Tăng
sĩ khác, được tượng bằng những con khỉ tham lam, sẽ vu khống vị Tăng sĩ chân thực
với người cai trị và các đại thần của nhà nước. Họbuộc tội vị Tăng sĩ chân thật
thực hiện những hành vi xấu ác và vi phạm giới luật. Kết quả, người cai trị trục
xuất vị Tăng sĩ chân thật đó, và giáo huấn của Đức Phật lịch sử sau đó sẽ biến
mất. Những Tăng sĩ này có những động cơ thầm kín khác nhau, chẳng hạn như mong
muốn danh lợi. Saicho (Tối Trừng,最澄), người sáng lập Phật
giáo Thiên Thai (Tendai) ở Nhật Bản đề cập đến chín loại khỉ xấu xa xua đuổi
con khỉ tốt trong Kenkairon Engi (đầu
thế kỷ IX) của mình. Tuy nhiên, khỉ liên quan mật thiết với Tendai Shinto-bộ
phái mà Saicho thành lập trên núi Hiei.
Truyền thuyết khỉ trong Hoàng đạo Trung
Quốc
Khỉ xuất hiện thường
xuyên trong thời kỳ tiền và hậu Phật giáo ở Trung Quốc. Trong những quốc gia
phương Tây, khỉ có lẽ được biết rộng rãi nhất như là con vật thứ chín trong 12
cung Hoàng đạo của Trung Quốc. Hầu hết các học giả tin rằng Hoàng đạo Trung Quốc
khởi đầu vào khoảng 1100 năm trước Tây lịch, trước sự đản sanh của Đức Phật
Thích Ca vào khoảng 500 năm.
Khi Phật giáo được truyền
bá vào Nhật Bản vào thế kỷ VI Tây lịch, người Nhật tích cực du nhập cả giáo lý
Phật giáo và lịch Hoàng đạo. Trong tiếng Nhật, Hoàng đạo được gọi là Kanshi hay
Eto (干支/ can chi | えと). Ở Nhật, chu kỳ Hoàng đạo
60 năm được Hoàng đế Suiko chọn vào năm 604, và được biết như là Jikkan Junishi
(十干十二支/Thập can thập nhị chi). Chu kỳ hiện nay bắt đầu vào năm
1984.
Ở đây, chúng tôi xin mạn
phép đề cập đến ngày Thân đại hung mà ở Nhật gọi là ngày Koushin (庚申,Canh Thân). Những ngày này xảy ra sáu lần hàng năm, và cứ mỗi
60 năm một lần (năm thứ 57 của chu kỳ). Những nghi lễ đặc biệt - ảnh hưởng sâu
sắc bởi niềm tin của Đạo giáo và Hoàng đạo Trung Quốc từ thời kỳ hậu Phật giáo
- được thực hiện vào những ngày này và vào năm thứ 57 (năm Canh Thân) để phòng
tránh những ảnh hưởng xấu. Một trong những nhân vật chính là con khỉ, vì từ
Canh Thân (庚申) được kết hợp từ hai chữ canh (Kou), gốc từ Hoàng đạo gắn
liền với Kim tinh, và Thân (Shin), chi thứ chín của Hoàng đạo Trung Quốc và chữ
chỉ cho “khỉ”. Những truyền thống Đạo giáo được đặt cơ sở trên lịch Hoàng đạo,
vào đêm của ngày Canh Thân, ba con sâu (三蟲tam trùng) được tin là đã
sống trong cơ thể con người sẽ trốn thoát ra khỏi cơ thể và đi lên Thiên đình để
trình báo về những tội lỗi của người đang ngủ ấy. Dựa vào sự trình báo này,
Thiên đình có thể rút ngắn mạng sống của người đó. Để ngăn ngừa điều này, người
ta thức suốt đêm vào những đêm Canh Thân, và tập quán này cuối cũng trở thành
được biết như là Koushin Machi (庚申會, Canh Thân hội). Những
niềm tin như vậy được ghi chép là vào cuối thời kỳ Heian, nhưng trở nên đặc biệt
phổ biến trong suốt thời kỳ Edo của Nhật Bản (1600-1868), khi người ta thường
xuyên cố gắng xác định thời gian hung kiết trước khi bắt đầu các hoạt động (chẳng
hạn như việc khởi sự kinh doanh hay cưới hỏi).
Truyền
thuyết khỉ trong Phật giáo Trung Quốc
Truyện Bắt bóng trăng
Câu chuyện Trung Quốc có tên Viên hầu tróc nguyệt (猿猴捉月) kể về một bầy khỉ cố sức bắt bóng trăng dưới nước, nhưng
rồi tất cả chúng đều bị chết đuối. Truyện ngụ ngôn này, được trình bày bên
dưới, là khó biết được niên đại chính xác. Phật giáo được truyền bá vào Trung
Quốc vào thế kỷ I và II Tây lịch, và câu chuyện ngụ ngôn này có thể bắt đầu vào
thời kỳ này hoặc ngay sau đó. Nhưng tôi không chắc – nó có thể được bắt đầu sớm
hơn, và không sau thế kỷ thứ VIII.
Chuyện kể rằng, một đêm nọ, một con khỉ đầu đàn nhìn thấy
bóng trăng sáng trong nước dưới cái cây mà nó đang ở. Nghĩ rằng mặt trăng đã
chết và rơi xuống nước, và e sợ rằng thế giới như vậy sẽ chìm vào trong bóng
tối, con khỉ này đã tập hợp bầy đàn của mình lại và ra lệnh chúng nối đuôi lại
với nhau và cùng kéo mặt trăng ra khỏi nước. Tuy nhiên, khi những con khỉ cố
gắng làm công việc này, trọng lượng cơ thể kết hợp lại của chúng quá lớn đã khiến
nhành cây bị gãy, khiến tất cả chúng rơi vào nước và chết đuối.
Bài học giản dị rút ra từ câu chuyện này là rằng, chớ cố
liều lĩnh thực hiện những công việc bất khả thi. Ở khía cạnh mang tính triết
học hơn, hình ảnh khỉ cố gắng bắt lấy bóng trăng là một ẩn dụ cho tâm bất giác
bị đánh lừa bởi những tướng trạng bên ngoài. Chủ đề này thường được miêu tả ở
trong những bức tranh vẻ bằng mực của Nhật Bản, thường là khỉ nhện có tay dài.
Những bức tranh của Shikibu (Thức Bộ/式部; Bảo tàng Quốc gia Kyoto) và Hasegawa Touhaku (長谷川等伯/ Trường Cốc Xuyên Đẳng Bá 1539-1610; tranh vẽ tại Konchiin 金地院/ Kim Địa viện,
Kyoto) là những đại diện.
Tây du ký (西遊記)
Tây du
ký là một câu chuyện nổi tiếng của Trung Quốc. Mặc dù được Ngô
Thừa Ân sưu tập vào thế kỷ XVI, truyện đã tồn tại lâu trước đó. Nó được dựa
trên một nhân vật có thật tên là Huyền Trang (602-664 TL), một Tăng sĩ Phật
giáo đã hành trình đến Ấn Độ để thỉnh kinh. Hộ tống ngài trong cuộc hành trình,
theo trong sách, là ba người đệ tử: một con khỉ có tên là Tôn Ngộ Không; một
con heo có tên là Trư Bát Giới; và Sa Tăng, một thủy quái. Sa Tăng được xem,
với một số người, có nguồn gốc từ thủy quái Nhật Bản có tên là Kappa.
Tây du
ký kể về cuộc nổi loạn của con khỉ chống lại Thiên đình, về
việc Đức Phật hàng phục nó, về việc nó bị ném ra khỏi thiên giới, và sau đó,
cách nó chuộc lỗi và đạt được sự bất tử bằng việc giúp Đường Tăng trên hành
trình của ngài đến Ấn Độ để thỉnh kinh. Bản dịch tiếng Anh tóm tắt đầu tiên của
câu chuyện này là do Arthur Waley dịch, được xuất bản vào năm 1942, và được đặt
tựa đề Khỉ: một câu chuyện dân gian Trung
Quốc (Monkey: A Folk-Tale of China). Waley chỉ dịch 30 trong số 100 chương
của chuyện. Bên dưới là một đoạn ngắn của câu chuyện do Wayne Kreger của Đại
học Saskatchewan viết:
“Sau khi gây ra nhiều phiền nhiễu cho những kẻ nắm quyền thế
gian và cõi trời, chúa khỉ được trình báo đến thiên đình. Nó bị triệu về thiên
giới, nơi Ngọc Hoàng (người cai trị thiên giới) cố gắng mua tính tự mãn của nó
bằng việc cho nó một cái gậy là một dụng cụ bảo vệ ở chuồng ngựa thiên giới.
Điều này khiến chúa khỉ tức điên, và nó quay trở lại quả đất và tự tuyên bố là
“Đại thánh, ngang bằng thiên giới”. Những đội quân thiên giới được phái đi để
chinh phục chúa khỉ nhưng tất cả đều thất bại. Nó quay trở lại thiên giới và
tiếp tục quậy phá. Đức Phật được báo cho biết về vấn đề của con khỉ này, và đi
đến để thu phục con thú. Ngài đưa ra cho chúa khỉ một thách thức – nếu chúa khỉ
có thể nhảy ra khỏi lòng bàn tay của Ngài, nó sẽ được ở lại một mình cai trị
thiên giới. Chúa khỉ chế nhạo sự thách thức này, nghĩ đó là một chuyện đùa, và
nhảy đến đường biên của vũ trụ, nơi nó viết tên của nó và tiểu vào một trong
năm trụ cột. Sau đó nó quay trở lại gặp Đức Phật và khoe khoang kỳ tích của mình.
Khi ấy Đức Phật đưa tay của mình lên và cho thấy tên của chúa khỉ được viết
trên ngón tay của Ngài. Con khỉ biết nó đã bị đánh bại. Chúa khỉ bị giam cầm
500 năm mãi cho đến khi nó được Bồ-tát Quan Âm giải cứu để hộ tống Đường Tăng
sang Tây Trúc thỉnh kinh. Câu chuyện của cuộc hành trình này xây dựng nên phần
chính cho cuốn tiểu thuyết Tây du ký.”
Kẻ bảo
vệ ngựa
Trong những tác phẩm nghệ thuật của Trung Quốc và Nhật Bản,
khỉ thường được trình bày là đang cỡi ngựa. Biểu tượng này cũng xuất phát từ
câu chuyện cổ đại Trung Quốc Tây du ký,
ở đó Ngọc Hoàng trao cho con khỉ cây gậy của “kẻ bảo vệ những con ngựa” để bình
định lòng tham quyền lực và muốn được thừa nhận của con khỉ. Con khỉ ngay khi
hiểu rằng công việc của nó như là kẻ bảo vệ chuồng ngựa là rỗng tuếch (không có
quyền lực hay công lao thực thụ) đã quay trở lại con đường tác quái của mình,
gầy phiền nhiễu cho tất cả mãi cho đến khi được Đức Phật hàng phục.
Một nơi khác, trong Viên
thảo tử (Saru no Soshi 猿草子) của Nhật Bản, một cuộn tranh vẻ minh họa độc đáo từ cuối
thế kỷ XVI đã mô tả đám cưới của con gái khỉ tế trưởng đền Hiyoshi với một con
khỉ từ Yokawa, chúng ta thấy hai con khỉ đang thảo luận về phương cách đúng để
mang một ống tên. Vào ngày trước, ống tên của Nhật Bản thực sự có nắp đậy được
làm từ da khỉ. Da khỉ bao phủ được tin là để bảo vệ con ngựa của chiến sĩ chống
lại bệnh tật và thương tích.
Kẻ bảo vệ
chuồng ngựa của đền Toshogu, Nikko, Nhật Bản
Một bức khắc chạm nổi tiếng về ba con khỉ được tìm thấy vào
thế kỷ XVII ở đền Toshogu, một quần thể được xây dựng để tôn vinh Tokugawa
Ieyasu, người sáng lập Tokugawa Shogunate (1603-1868 TL). Bức khắc chạm nằm ở
trên mái hiên của Shinkyusha, lại phản ánh vai trò của khỉ như là kẻ bảo vệ
chuồng ngựa, một vai trò mà nó bắt nguồn từ tiểu thuyết Tây du ký của Trung Quốc. Tấm pa-nô được khắc chạm trên tường của
chuồng ngựa của ngôi đền. Tấm pa-nô được trình bày ở trên mô tả ba con khỉ
“không nghe điều xấu, không nói điều xấu và không nhìn điều xấu”.
Không có sự thống nhất về nguồn gốc của mô-típ ba con khỉ.
Nó có nguồn gốc từ Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, hay Nhật Bản? Tác giả bài này
cho rằng mô-típ ba con khỉ là một sự cách tân được quy cho phái Thiên Thai của
Nhật Bản. Mô-típ này có thể đã phát triển từ thể thức tam thần tam Phật của
Phật giáo Thiên Thai Nhật Bản ở núi Hiei, hoặc có thể từ nguyên tắc cốt tủy của
Thiên Thai về tam học (三学) 1.
Tất cả các pháp là không và không có thực tính; 2. Tất cả các pháp có một thực
tính tạm thời; 3. Tất cả các pháp cùng lúc vừa hoàn toàn không thực và vừa có thực
tạm thời. Một cách khác, ba con khỉ có thể tượng trưng cho ba chân lý của Phật
giáo, đó là 1. Cuộc đời là khổ; 2. Khổ đau gây ra bởi tham dục của chúng ta; và
3. Đoạn trừ tham dục và nhờ đó đoạn trừ khổ đau. Hoặc có thể nó xuất phát từ
chòm ba ngôi sao được đặt tên là Sandaisei (三台星) mà sau nó phái Thiên Thai chính nó được đặt tên. Nhưng hầu
như có khả năng (theo suy nghĩ của tôi), ba con khỉ là một sáng tạo của người
Nhật liên quan đến ba con sâu trong nghi lễ Kōshin của Đạo giáo (từ Trung Quốc,
nhưng sau đó được người Nhật du nhập). Con số ba là rất quan trọng đối với các
Phật tử ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và những quốc gia khác ở Á châu. Thật vậy,
có rất nhiều những khái niệm quan trọng khác nhau liên quan đến con số 3, khiến
nó cực kỳ khó khăn để xác định nguồn gốc của mô-típ ba con khỉ.
Tóm tắt
Thần thoại khỉ là một phần
quan trọng trong cả truyền thuyết Ấn giáo/ Phật giáo (Ấn Độ) và Hoàng đạo/ Đạo
giáo và Phật giáo (Trung Quốc). Trong nhiều câu chuyện được trình bày bên trên,
khỉ vốn được miêu tả như là ngu ngóc, kiêu ngạo và ranh mãnh. Tuy nhiên, trong
mỗi truyền thống, khỉ học những bài học có giá trị dọc theo con đường nó đi,
làm những thay đổi, và cuối cùng đạt được sự cứu độ. Khỉ như vậy biểu trưng cho
những đề tài của hối lỗi, trách nhiệm, tận tâm, và hứa hẹn giải thoát cho tất cả
những ai chân thành tìm kiếm nó. Biểu tượng này vẫn còn phổ biến trong Phật giáo
như được thực hành ngày nay. Trong những thực hành thiền hiện đại, trong nhiều
bộ phái Phật giáo, ta trước hết phải khuất phục “tâm viên” trước khi thiền định
có thể đem lại kết quả. Mục đích là để vượt qua tâm viên suy nghĩ không yên,
ngưng lại việc nhảy từ cành này sang cành khác, ngưng lại việc vồ lấy bất cứ thứ
trái cây gì nhìn thấy, ngưng lại sự hiện hữu bị đánh lừa chỉ bởi tướng trạng
bên ngoài. Giải thoát là ở trong tầm tay của tất cả những ai tìm kiếm nó với sự
thành khẩn, chân thành và tận tâm.
Nguyên Hiệp lược dịch
Nguồn: Onmarkproductions.com