Từ cảm ứng Viên Lâm trong thơ thiền Trần Nhân Tông nghĩ về một vế đối khó

tu cam



VÕ PHƯỚC LỘC


 

1. Viên lâm nguyên nghĩa là vườn rừng. Nó cũng để chỉ hình thức tạo vườn cảnh theo quy luật sinh trưởng của tự nhiên và văn hóa tâm linh. Với các nước phương Đông, viên lâm được hiểu như hoàn cảnh sinh hoạt được xanh hóa. Hoàn cảnh ấy do con người nghiệm ra mà sắp đặt cụ thể, trong một phạm vi nhất định. Nó khác vời phong cảnh thiên nhiên, loại vườn nuôi trồng theo mc đích sử dụng (vườn rau, thú, săn bắn...). Cội nguồn của nghệ thuật viên lâm là sự mô phỏng tự nhiên. Về sau, trong cách nhìn của giới trí thức văn nhân, nó bao gồm: thông qua tự nhiên, họ muốn đạt đạo Lão-Trang, trở về với tính chất phác của con người. Mặt khác, các nhà Nho vốn có tư tưởng: Cùng đức vời trời đất, cùng sáng với mặt trời mặt trăng, cùng theo thứ tự bốn mùa”(Dịch: Càn quái). Các nhà theo đạo Phật, có tư tưởng siêu nhiên thế ngoại, cầu giải thoát… Các sĩ đại phu tri thức kết hợp hai tư tưởng ấy lại, tiếp thu cả hai một cách phổ biến”[1,721]. Do vậy, khi bàn về cảm hứng viên lâm trong thơ cổ, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh khía cạnh yêu thích tự nhiên hoặc phản ánh một thái độ sống (chán công danh, đô hội, thích ở ẩn). Thật ra với nhà Thiền, cảm nghiệm về nhịp sống viên lâm qua thơ không đơn thuần như vậy. Nó là sự nắm bắt, thụ cảm nhịp sống vĩnh cửu (phổ quát) của con người và vạn vật (hoàn cảnh sống xung quanh); ở đó, con người và vạn vật là một thực thể luôn lặng lẽ hành cuộc chuyển sinh. Và như vậy là thể nhập toàn bộ nhịp sống thực tại vận hành, toàn bộ bầu trí quyển sinh thái của chúng ta (vạn vật đồng nhất thể, tịnh hành tinh tấn).

Phái Lão-Trang và Đạo gia vốn chủ trương theo tự nhiên mà hành đạo, cảm hứng viên lâm của họ hướng đến cái đẹp hồn nhiên nhập cảnh. Chuộng vô vi họ ẩn nơi rừng sâu, núi cao, hình tích thoắt ẩn hiện; nhà là hang động, lều cỏ tạm bợ không cố định. Nhà Nho lúc phải thời xem thường lao động chân tay; lúc về vườn, việc chính vẫn là vui để dạy học. Từ đó họ làm thơ truy tìm cái đẹp hài hòa của tình thú thưởng cảnh thiên nhiên, tìm yên trong cái nhàn. Nhà Thiền khởi từ Bách Trượng (720-814), Hoàng Bá (?-850) hình thành giới luật, quy định phải lao động, nuôi trồng để sống và thể nghiệm ngộ đạo. Thi ca và Thiền sử còn ghi lại nhiều câu chuyện các Thiền sư hái trà, trồng tùng, giã gạo, đẵn tre, nghe trúc khua, thấy gà nhảy lên lan can mà đại ngộ. Từ đó hình thành kinh nghiệm thẩm mỹ, đúc kết lý luận, xác lập một nguyên tắc thẩm mĩ trong sáng tác thi ca. Qua ngôn ngữ, hình tượng mà thể hiện cái đẹp của toàn bộ tinh thần thực tại (nhịp sống sinh linh, tình cảm chúng sinh), trong một trường nhìn nhất định (tính trực cảm thị phạm). Như vậy, cảm hứng viên lâm trong thơ ca Thiền có được là do tình yêu thiên nhiên của nhà Thiền và tầm ảnh hưởng của lý luận nghệ thuật vườn cảnh.

2. Cảm nhận về thiên nhiên, thơ Trần Nhân Tông thể hiện cách nhìn của nghệ thuật vườn cảnh rất lớn.

Trong số 20 bài thơ (kể cả thơ trong ngữ lục) nhà vua viết về đề tài thiên nhiên, có đủ các loại hình vườn cảnh: vườn quê: Thiên Trường vãn vọng, Lạng châu vãn cảnh; vườn ngự: Xuân hiểu, Xuân cảnh, Xuân vãn; vườn chùa: Cổ châu hương thôn tự, Đại lãm Thần Quang tự; vườn thủy tạ: Phổ Minh tự thủy tạ; viên lâm toàn cảnh: Thiên Trường Phủ, Sơn phòng mạn hứng, Vũ lâm thu vãn... Có đến 10 bài thơ Trần Nhân Tông tả cảnh theo nguyên tắc nghệ thuật vườn cảnh: 3 lần nhìn ra khung cửa sổ, 2 lần tựa lan can ngắm sân vườn, 5 lần trong nhà quan sát cảnh vật bên ngoài (giới hạn khung cảnh miêu tả từ hiên nhà đến cổng vườn 2 lần). Nó đủ để minh chứng nhà vua bị ám ảnh bởi cảm hứng không gian vườn cảnh. Trong bài Chùa Thần Quang trên núi Đại Lãm ông nêu rõ:

Thập nhị lâu đài khai họa trục,

Tam thiên thế giới nhập thi mâu.

(Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ,

Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ).

Chỉ một chữ “ khai-mở ra”, cho thấy nó là cái nhìn theo nguyên tắc “Viên lâm toàn đồ-toàn bản vẽ vườn cảnh” (Viên lâm họa trục). Lý luận nghệ thuật vườn cảnh và các họa gia thời Đường-Tống xác lập nguyên tắc ấy, qua các họa phẩm kinh điển. Không gian vườn được thu gọn trong một khung cảnh bày trí cụ thể, để thiên nhiên tự thể hiện với ý nghĩa làm đẹp hơn cho người và tạo vật. Khác với các họa phẩm của nhà Nho thuộc phái Sơn Thủy Điền Viên: cắt xén một mảng ý cảnh phù hợp với lòng mình, không có dấu hiệu chỉ sự giới hạn không gian cụ thể. Nó để lại dấu ấn đậm nét trong thơ viết về đề tài thiên nhiên. Thường thơ các nhà Nho chỉ tả đơn sơ một vài khóm trúc, luống hoa... Ngôn từ và hình ảnh theo quy cách của không gian ước lệ-tượng trưng. Nó phát huy tư duy quan hệ với ý nghĩa thiên nhiên hữu tình, cộng sinh liên đới với người. Theo thiển ý, thi ca và họa phẩm Thiền vận dụng ưu thế của cái nhìn trực cảm thấy biết (trực cảm thị phạm) của nghệ thuật vườn cảnh và cái nhìn cộng sinh liên đới của phái thơ Sơn Thủy để xây dựng nguyên tắc sáng tạo cảnh trí thấy biết bởi trí tuệ trực giác (tuệ tri thẩm mỹ). Trước tiên, mượn giới hạn của cái đơn nhất để gợi ý nắm bắt cái muôn màu muôn vẻ (vô cùng).

Tục đa biến thái vân thương cẩu,

Tùng bất tri niên tăng bạc đầu. (Đại Lãm Thần Quang tự)

(Biển hóa thành dâu luôn thói tục,

Tùng không biết tuổi bạc đầu sư).

Thơ gợi tả thời gian, không gian vô thủy vô chung cùng ý tứ với Mãn Giác (Lý) “Trước mắt việc đi mãi; trên đầu già đến rồi” (Cáo tật thị chúng). Khác với cách mượn cảnh ngụ tình của thơ Nho:

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Giữa trời vách đá cheo leo,

Ai mà chịu rét thì trèo với thông. (Vịnh cây thông)

Nguyễn Công Trứ tách hẳn thông ra khỏi cảnh trí, ở chỗ “chịu rét” vừa ý hợp lòng người quân tử.

Thứ hai, từ ý nghĩa tượng trưng, điểm xuyết toàn cảnh gợi tả nhằm chỉ cho ta nhịp sống luôn chuyển động là một thực tại vĩnh viễn (hóa sinh liên diễn).

Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc,

Thấp vân như mộng viễn chung thanh. (Vũ Lâm thu vãn)

Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ,

Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa.

Cảnh trí tàn thu được tả bởi các hình ảnh tượng trưng như “điểm nhấn”: nghìn non, lá hồng rụng, mây giăng, chuông ngân... Một ngày mùa thu dần xa vắng, chỉ lặng lẽ giao mùa chuyển sinh là đng lại cùng người.

Dẫn dắt thể nhập đồng nhịp sống thực tại, thơ Thiền gần với nghệ thuật vườn cảnh hơn hội họa ở chỗ ít qua trung gian trí tưởng tượng, suy luận liên tưởng để nắm bắt ý nghĩa hình tượng.

3. Nhân bàn về cảm hứng viên lâm trong thơ Thiền cùng nguyên tắc nghệ thuật của nó, người viết xin mạo muội đề xuất một lời giải cho vế đối của ông Đặng Công Nhân (Đà Nẵng), in trên Kiến Thức Ngày Nay khá lâu:

 

六木森森:桃梅竹松柏柳

Lục mộc sâm sâm: đào, mai, trúc, tùng, bá, liễu.

Sáu cây um tùm: đào, mai, trúc, tùng, bách, liễu.

Chỗ khó của xuất đối (gần như nan giải) là ở phần sau rất hóc hiểm; vừa chơi chữ vừa buộc đối lại phải liệt kê đủ sáu sự vật. Trong chừng mực nhất định, dựa vào phép đăng đối bày trí cây cảnh hóa thú (cây cảnh sửa gốc theo hình thú), ta có thể đề xuất:

四靈好好:龍麟龜鳳鸞蛟

Tứ linh hiếu hảo (hảo hảo): long, lân, quy, phụng, loan, giao.

Bốn linh hiếu hảo: rồng, lân, rùa, phượng, loan, giao.

Trộm nghĩ, xuất đối chơi chữ: hai chữ sâm () hình thể ghép bộ mộc (), do vậy mỗi loài phía sau đều là thảo mộc. Tổng quan, sáu loại cây nhưng chỉ thuộc bốn “họ”: đào, trúc, tùng, liễu. Bởi lẽ trong văn chương đào mai, tùng bách cùng trường nghĩa tượng trưng cho cốt cách con người. Vế đề xuất của người viết nêu bốn linh vật giao hòa cho nên “hiếu hảo” (), hình thể giống nhau (bộ nữ và tử, nam nữ, trống mái). Theo truyền thuyết loan là chim trống giống phượng. Giao là giống rồng biến hóa ở biển (con thuồng luồng). Do đầu câu dùng “hiếu hảo” nên cuối câu chữ giao cũng hàm ý chơi chữ với nghĩa giao tiếp. Nó cũng có ý đối liên châu, hai từ cuối “bá liễu” ở vế xuất là hai loại cây tượng trưng cho nam nữ tình vừa ý đẹp. Các linh vật cùng trường nghĩa tượng trưng cho tâm hồn hòa hợp, hiếu thuận, linh ứng. Cho nên, bài viết cố gắng tạo dựng một đáp án trong thế có thể.

Mỹ Tho, 20.9.2015

Tài liệu tham khảo

1.Đàm Gia Kiện (1983), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

2.Kiến Thức Ngày Nay (số 179,183), mục Chuyện Đông chuyện Tây của An Chi.

3.Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý-Trần, tập 2, quyển thượng, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

 

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle