Hãy đến với Đức Phật để chữa trị bệnh tật
hay den
(Guérir avec le Bouddha)
Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch:
Tập san Hướng nhìn Phật giáo (Regard Bouddhique)
của Pháp số tháng 3 và 5, 2015 với chủ đề "Phật giáo và việc chữa trị
bệnh tật" và mở đầu là bài viết này của Philippe Cornu. Ông là một
giảng sư người Pháp, tốt nghiệp đại học, đã tu tập theo Phật giáo Tây
Tạng từ nhiều chục năm nay, chuyên dịch thuật kinh sách Phật Giáo Tây
Tạng và cả các kinh sách của các học phái và tông phái khác (ông thành thạo nhiều ngôn ngữ Đông Phương : Pa-li, Phạn, Tây Tạng, Hán, Nhật...).
Philip Cornu hiện là chủ tịch Viện Phật Học Âu Châu (IBE/Institut
Bouddhique Européen) và cũng là giảng sư của trường INALCO (Institut
national des langues et des civilisations orientales/Học Viện Quốc Gia
về Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương). Ông là tác giả của nhiều công
trình trước tác, trong số này có quyển Tự Điển Bách Khoa Phật Giáo (Dictionnaire Encyclopédique, Seuil, 2006) (đã
được sửa chữa và tái bản lần thứ hai và đã được dịch sang tiếng Tây Ban
Nha, thế nhưng rất tiếc là chưa thấy bản dịch tiếng Anh nào) và quyển Phải chăng Phật giáo là một triết thuyết về hạnh phúc (Le Bouddhisme, une philosophie du bonheur? Seuil, 2013).
Philipe Cornu
(ảnh
chụp ngày 28.04.13, trong một cuộc phỏng vấn của đài truyền hình
quốc gia Pháp về các khó khăn trong việc dịch thuật kinh sách Phật Giáo)
*****
HÃY ĐẾN VỚI ĐỨC PHẬT ĐỂ CHỮA TRỊ BỆNH TẬT
Philippe Cornu
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều
này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật
giáo, và trên thực tế thì cũng đúng như thế. Tuy nhiên người ta cũng có
thể tự hỏi việc chữa trị ấy là nhằm vào những thứ bệnh tật gì? Dầu sao
cũng phải nhấn mạnh một điều là Phật giáo không hề là một xảo thuật y
khoa mà là một con đường tu tập tâm linh thật toàn vẹn.
Chữa bệnh theo phương pháp Bốn Sự Thật Cao Quý
Qua bài giảng đầu tiên ở Ba-la-nại (Bénarès) Đức Phật đã tỏ ra mình là
một vị Lương Y. Bốn Sự Thật Cao Quý được Ngài nêu lên như là một cách
"chẩn bệnh". Sự Thật thứ nhất là Sự Thật về Khổ Đau, là sự phát hiện ra
căn bệnh mà chúng ta đang mắc phải: đó là những sự khổ đau và bất an
hiện ra trong sự hiện hữu trói buộc của chính mình, một sự hiện hữu bị
tàn phá bởi những sự bất toại nguyện(frustration/mọi thứ xảy ra không đúng với sự mong muốn của mình),
vô thường và các hậu quả phát sinh từ các hành động của mình trong quá
khứ. Kết quả chẩn bệnh ấy của Đức Phật cho thấy thật rõ ràng bệnh trạng
mà chúng ta đang mắc phải. Đối với Sự Thật thứ hai là nguyên nhân mang
lại khổ đau, thì Đức Phật cho biết là do đâu mà căn bệnh ấy đã phát
sinh, chẳng qua là vì phải khám phá ra nguyên nhân làm phát sinh ra căn
bệnh thì mới mong chữa lành được. Đức Phật cho biết sở dĩ chúng ta khổ
đau là vì luôn thèm khát được hiện hữu, có nghĩa là khư khư bám víu vào
các hiện tượng phát sinh từ sự u mê không thấu hiểu được bản chất của
chính mình là gì. Sự Thật thứ ba là sự chấm dứt khổ đau, cho biết là
những thứ đớn đau của chúng ta có thể vĩnh viễn chữa lành được, sự
khẳng định này quả thật hết sức đáng mừng, thế nhưng nếu muốn thực hiện
được điều ấy thì chúng ta phải dứt bỏ được mọi sự bám víu bệnh hoạn vào
sự hiện hữu, hầu khám phá ra bản chất tối thượng, không vướng mắc
(inconditionné/un-conditioned) của chính mình (có
nghĩa là vượt thoát khỏi sự hiện hữu nhờ các điều kiện mà có này của
mình, tức là một sự hiện hữu do hiện tượng/quy luật tương liên và tương
tác - conditioned co-production/lý duyên khởi - tạo dựng ra cho mình). Chẳng
phải đấy cũng chính là niềm hy vọng được chữa lành mà mình chờ đợi nơi
vị Lương Y hay sao? Thế nhưng như vậy vẫn chưa đủ bởi vì còn phải cần
đến Sự Thật thứ tư, là toa thuốc kê ra các phương thức chữa trị mà mình
phải tuân theo nếu muốn được được chữa lành: đấy là Con Đường mang lại
cho mình sự giải thoát cuối cùng và sự Giác Ngộ. Bởi vì theo Đức Phật
thì tất cả mọi bệnh tật của mình đều phát sinh từ những sự khổ đau mang
tính cách hiện sinh (existencialism/một
khuynh hướng triết học cho rằng bản chất của sự hiện hữu của con người
là do con người tự tạo ra cho mình, có nghĩa là không mang tính cách
định mệnh) và
phương thuốc duy nhất có thể thật sự chữa lành những khổ đau ấy là sự
Giác Ngộ, tức là một thể dạng vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc và tẩy
trừ được các nguyên nhân mang lại khổ đau (nghiệp do mình tạo ra trong quá khứ).
Chữa lành à! Đúng thế, nhưng chữa lành cái gì và với mục đích gì?
Nếu hiểu việc chữa lành mà mình mong đợi sẽ mang tính cách toàn diện,
tinh khiết, trọn vẹn và vĩnh viễn, tức là một thể dạng Tỉnh Thức Vẹn
Toàn (Plein d’Eveil/Full Enlightenment) thì trong hoàn cảnh hiện nay mà
chúng ta đang phải sống, tất cả chúng ta đều là những người bệnh hoạn,
kể cả đối với những kẻ tự cho rằng mình đang khỏe mạnh!
Vì thế, dù nghĩ đến rồi đây mình sẽ được vĩnh viễn chữa lành các thứ
đớn đau trên thân xác và trong tâm thức mình thì trong hiện tại mình
vẫn còn phải kéo dài một cuộc sống đầy rẫy khổ đau và âu lo về bệnh
tật: ngoài những thứ khổ đau của sự sinh, già nua và cái chết, thì bệnh
tật là thứ khổ đau thứ tư trong cuộc sống mà con người không sao tránh
khỏi được. Vậy phải xử trí như thế nào trước các thứ bệnh tật trên thân
xác và trong tâm thức mình? Thêm một lần nữa đó là cách phải giữ một
thái độ thật thực tiễn: nếu hiểu được bệnh tật xảy ra là một cách nhắc
nhở mình về bản chất vô thường của sự sống, thì mình chấp nhận chúng và
xem chúng như là những thứ chướng ngại thật nghiêm trọng ngăn chận mọi
sự thăng tiến tâm linh của mình (bệnh tật khiến mình mất đi sức khỏe và sự sáng suốt là những gì thật cần thiết giúp mình bước đi trên Con Đường).
Do đó phải nhất thiết ngăn ngừa và nếu có thể được thì chữa lành các
căn bệnh ấy bằng bất cứ phương tiện nào. Thật thế Phật giáo không hề
chủ trương phải chấp nhận sự đau đớn hay một hình thức định mệnh nào
cả! Điều đó không những đúng đối với các thứ bệnh tật trên thân xác mà
cả đối với các sự xáo trộn về khí lực nội tạng và các sự bấn loạn trong
tâm thần, là những thứ gây ra trở ngại cho việc tu tập tâm linh.
Các nước theo Phật giáo đều đưa ra nhiều phương pháp chữa trị mật thiết
liên quan đến con đường Đạo Pháp, chẳng hạn như phương pháp y khoa
Ayurveda (nguyên
nghĩa tiếng Phạn là "khoa học về sự sống", là một ngành y khoa cổ
truyền của Ấn Độ, hình thành vào thế kỷ thứ II trước Tây Lịch, chủ
trương việc chữa trị phải mang tính cách toàn diện gồm cả ba mục đích:
bảo toàn sức khỏe, chữa trị bệnh tật và phát huy bản ngã của mình) của
Ấn Độ, rất phổ biến trong các tập thể theo Ấn giáo và cả Phật Giáo,
hoặc là phương pháp y khoa Tây Tạng, tuy chịu ít nhiều ảnh hưởng từ các
phương pháp y khoa của Ấn Độ, nhưng phản ảnh thật rõ nét Đạo Pháp của
Đức Phật (Buddhadharma), hoặc các phương pháp điều trị bệnh tật của
Trung Quốc và Nhật Bản dựa vào việc cầu xin Dược Sư Phật. Trong các
quốc gia này sức khỏe không những được xem là một thể dạng thăng bằng
giữa các thành phần(của cơ thể) và
"khí sắc" (humeur/mood, humor) tạo ra thân xác, mà còn là kết quả
mang lại từ một sự kết hợp hài hòa giữa thân xác, khí lực (tức tiếng
nói và hơi thở) và tâm thần.
Các phương pháp y khoa trên đây trước hết mang tính cách thật bao quát
(holistic/toàn diện) với mục đích ngăn ngừa bệnh tật, và sau đó là tái
lập lại sự thăng bằng trong cơ thể và chữa trị các sự rối loạn nếu có.
Đối với các phương pháp chữa trị này thì việc thay đổi các thói quen ăn
uống và phong cách sống sẽ giữ một vai trò tiên quyết, trước khi phải
cần đến thuốc men.
Chẳng qua là vì phía sau bệnh tật luôn ẩn nấp các nguyên nhân cũng như
các tình trạng tâm thần và khí lực [làm phát sinh ra các bệnh tật ấy].
Theo ngành y khoa Tây Tạng thì căn nguyên đưa đến bệnh tật là ba thứ
độc tố tâm thần: sự hoang mang (égarement/distraction/sự lầm lẫn, xao lãng, vô ý thức), sự ghét bỏ (aversion/disgust/ác cảm, chán ghét) và sự thèm khát (avidity/tham lam, ham muốn, bám víu). Sự gia tăng quá đáng (các xúc cảm bùng lên quá mạnh) của các thứ độc tố này trong tâm thức hoặc là trong các trường hợp khi chúng bị ức chế (đè nén các xúc cảm) đều
gây ra các tác động ảnh hưởng đến sự vận hành chung của các luồng khí
lực luân lưu trong cơ thể, khiến cho các cơ quan trong cơ thể bị suy
yếu hoặc bế tắc, đưa đến các sự đau đớn trên thân xác. Do đó việc chữa
trị hướng vào lãnh vực tâm thần sẽ mang lại các tác động trực tiếp ảnh
hưởng đến thân xác, và ngược lại nếu biết giữ gìn phong cách sống, sự
sinh hoạt thường nhật cũng như các thói quen ẩm thực được đúng đắn, thì
tất sẽ mang lại các tác động thuận lợi trong lãnh vực tâm thần.
Ngoài các phương pháp y khoa trên đây còn có rất nhiều phép luyện tập
tâm linh khác giúp chữa trị bệnh tật. Trong Đại Thừa Phật Giáo có một
bài kinh khẩn cầu Dược Sư Phật (Bhaishajyaguru, tiếng Tây Tạng là
Sangyé Menlha, tiếng Nhật là Yakushi Nyorai), là vị Phật phát nguyện
mười hai ước vọng cứu độ những ai đau ốm và tiếp dẫn những người quá cố
vào cõi Shudarshana (Hán dịch là Thiện Hiện Thiên, nguyên nghĩa tiếng Phạn là một cảnh giới tuyệt đẹp không có một chướng ngại nào),
tức là Cõi Y Giới Tinh Khiết (Terre Pure Médicinale/Medicinal
Pureland/Cõi Tịnh Độ Y Giới) của vị Phật ấy, nếu những người này biết
thành tâm cầu khẩn Ngài khi còn sống. Các vị y sĩ các ngành y khoa cổ
truyền Trung Quốc và Nhật Bản đều thường xuyên cầu khẩn Dược Sư Phật.
Đối với những người du-già (yogi) và các y sĩ Tây Tạng thì Dược Sư Phật
là vị Tổ phát minh ra Bốn Phép chữa trị Tan-tra (còn gọi là Gyushi) (là bốn phép chữa trị bệnh tật theo Tan-tra Thừa).
Tại các nước như Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản cũng đã từng có một
giai đoạn (từ thế kỷ thứ V đến thứ VIII) mà việc tôn thờ Dược Sư Phật
phổ biến hơn cả Phật A-di-đà!
Chữa trị bệnh tật bằng cách phát huy lòng từ bi và trí tuệ
Đại Thừa Phật giáo đưa ra nhiều phương pháp luyện tập tâm thức nhằm
phát động lòng từ bi (tiếng Tây Tạng gọi là lodjong) chẳng hạn như phép
luyện tập tonglen, là phép "nhận chịu và hiến dâng" dựa vào sự hô hấp:
hít vào để nhận chịu sự khổ đau của tất cả chúng sinh và thở ra để hiến
dâng cho họ hạnh phúc của mình. Phép luyện tập này do một vị đại sư
Inđônêxia đưa ra trước nhất, sau đó được A-đề-sa (Atisha, một vị đại sư người Ấn, 982-1054) và Guéshé Tchekawa (một vị đại sư Tây Tạng, 1102-1176) đưa
vào Tây Tạng. Nhà sư A-đề-sa từng chứng kiến nhiều trường hợp bệnh nhân
phong cùi đã khỏi bệnh nhờ vào phép luyện tập này. Vì thế việc phát
động lòng từ bi không những mang lại lợi ích cho tâm thức mà cả cho
thân xác nữa. Ngày nay khoa học đã chứng minh cho thấy những người phát
động được một tâm thức vị tha sẽ mang lại cho mình một sức khỏe tốt
trong cả hai lãnh vực tinh thần và thể xác. Chẳng phải lòng từ bi cũng
chính là hướng đi trên Con Đường của người Bồ-tát với tâm nguyện muốn
làm vơi đi khổ đau của chúng sinh hay sao.
Sự quán thấy và các câu man-tra
Thật hết sức rõ ràng, trong Kim Cương Thừa qua các phép luyện tập
tan-tra, có rất nhiều phương pháp luyện tập tâm linh nhắm vào sự Giác
Ngộ, thế nhưng đồng thời cũng mang một mục đích cấp thời hơn đó là việc
chữa trị bệnh tật, hoặc thứ yếu hơn là mang lại sức khỏe cho người tu
tập. Đối với những người bước vào Con Đường biến cải đó thì thân xác,
ngôn từ và tâm thức của họ mặc dù bề ngoài có vẻ thiếu tinh khiết và
không được hoàn hảo, thế nhưng thật ra đều là các phương tiện biểu lộ
hay các cơ sở chuyển tải bản chất giác ngộ của họ. Chiếc chìa khóa của
sự giải thoát nằm bên trong thân xác, đúng hơn là ở vào một cấp bậc
thật sâu kín gọi là thân xác kim cương, đúng như phép luyện tập
Hevajratantra nêu lên: "Những gì trói buộc [mình] trong thế giới cũng
chính là những gì sẽ giải thoát [mình] ra khỏi những sự trói buộc của
thế giới" (Hevajratantra
là một phép luyện tập dựa vào vị thần linh nam tính là Hevajra và căn
cứ trên nguyên lý phi-đối-nghịch/non-duality trong giáo lý Phật giáo
nói chung. Do đó phép luyện tập này thường xử dụng phép quán thấy thần
linh nam tính Hevaijra phối hợp với thần linh nữ tính Nairatmya. Và câu
phát biểu trên đây có nghĩa là thân xác mình trói buộc mình trong thế
giới, thế nhưng chính thân xác cũng sẽ là một phương tiện giúp mình
thoát ra khỏi những sự trói buộc của thế giới ấy, do đó việc luyện tập
là phải biến thân xác mình trở thành một thể dạng hài hòa
phi-đối-nghịch).
Thần Linh Vajrasattva
Trong
các trường hợp trên đây thân xác không hề là một gánh nặng [mà mình
phải gánh chịu] mà là cả một cổ xe quý giá giúp mang lại cho mình sự
Giác Ngộ. Thật hết sức hiển nhiên điều đó cho thấy là việc chữa trị
bệnh tật trên thân xác phải nhờ vào một sự biến cải tâm thần và khí lực
thật sâu rộng, và việc chữa bệnh đó nhất thiết phải nhắm vào mục đích
tối thượng là sự Giác Ngộ. Thật vậy ốm đau trên thân xác phát sinh từ
tình trạng bất quân bình của nội tâm, từ nghiệp [trong quá khứ] và các
thói quen sinh hoạt thường nhật, bởi vì đấy là những tấm màn che lấp
không cho phép mình phát hiện được bản chất giác ngộ của chính mình.
Dầu sao cũng có rất nhiều phương pháp giúp người tu tập loại bỏ được
những thứ ấy, chẳng hạn như phép quán tưởng thần linh (một
phép luyện tập đặc thù của Kim Cương thừa giúp mình "trở thành" chính
vị thần linh hay một vị Phật nào đó mà mình quán tưởng), các câu tụng niệm man-tra (các câu chú mang tính cách thiêng liêng), hoặc
phép luyện tập tsa loung giúp tinh khiết hóa và chủ động các luồng khí
lực tinh tế luân lưu trong cơ thể. Ngoài các nghi thức cầu khẩn Dược Sư
Phật (cầu an và tụng niệm kinh Dược Sư), còn có một phép luyện tập rất phổ biến là phép tinh khiết hóa của vị Thần Linh Vajrasattva (Vajra
là kim cương, sattva là sinh linh, Vajrasattva là một vị Thần Linh mang
thân xác rắn chắc và trong suốt của một tinh thể Kim Cương. Trên phương
diện cấu trúc và ngữ pháp thì chữ Vajrasattva/Thần Linh Kim Cương tương
đương với chữ Bodhisattva/Bồ-tát), đó là cách vừa quán tưởng
vị Thần Linh Kim Cương ngồi trên một tòa sen trên đỉnh đầu mình, vừa
tụng niệm câu man-tra gồm một trăm vần (là một câu man-tra đặc biệt dùng để tụng niệm trong khi quán tưởng vị Thần Linh Kim Cương - xem phụ lục). Trong khi người quán tưởng tụng niệm câu man-tra một trăm vần thì vị Thần Linh mang thân xác màu trắng thật tinh khiết (tức là vị Thần Linh Kim Cương) sẽ
rót lên đầu mình một dòng nước cam lồ (nectar/thần dược) tỏa sáng, dòng
cam lồ sẽ chảy xuyên qua đỉnh đầu, chan hòa trong cơ thể hầu tinh khiết
hóa các cơ quan, các luân xa (chakra) và các kinh mạch tinh tế nhằm
loại bỏ các tấm màn u mê và khơi thông các nơi bế tắc trong cơ thể gây
ra bởi dục vọng, và tẩy xóa các vết hằn của nghiệp trong quá khứ. Tất
cả các thứ mang tính cách tiêu cực ấy sẽ bị dòng nước cam lồ cuốn trôi
và tống khứ ra ngoài bằng các lỗ hổng bên dưới (hậu môn và cơ quan sinh dục),
chúng sẽ thấm vào đất và hiến dâng cho vị thần Yama, tức là vị thần
chết biểu trưng bởi một con bò mộng màu đỏ, mõm há hốc sẵn sàng nuốt
trửng tất cả. Nhờ đó người yogi (người hành thiền theo Kim Cương Thừa) sẽ
cảm thấy mình được tẩy sạch mọi thứ ô nhiễm, toàn thân sẽ ngập tràn
nước cam lồ lấp lánh và các niềm phúc hạnh, vị Thần Linh Kim Cương sẽ
hóa thành ánh sáng và hòa nhập vào thân xác mình, bởi vì vị ấy cũng
chính là bản chất giác ngộ của chính mình. Quá trình điều trị trên đây
kết hợp giữa tâm thần và thể xác thật hết sức cần thiết giúp mang lại
sự Giác Ngộ cho người tu tập. Quá trình đó chỉ là một phần nhỏ - dù là
rất quan trọng - nhưng tuyệt nhiên không mang tính cách tối thượng, bởi
vì đấy chỉ là một phương tiện giúp mình làm tan biến đi các tấm màn [u
mê] che lấp không cho phép mình quán thấy được bản chất giác ngộ của
chính mình mà thôi (câu
này rất quan trọng: dù đã tẩy sạch các thứ ô nhiễm ngăn chận sự giác
ngộ, nhưng chưa phải là sự Giác Ngộ. Chúng ta có thể nhận thấy nhiều
người tu tập chỉ lanh quanh với các phương tiện mà không trông thấy cứu
cánh ở đâu cả. Chỉ khi nào phát huy được trí tuệ trong tâm thức giúp
mình trực tiếp quán nhận được bản chất của hiện thực thì khi đó mình
mới có thể đạt được sự Giác Ngộ tối thượng. Người tu tập không nên chỉ
biết chạy theo phương tiện mà quên đi sự giải thoát).
Ngoài ra cũng còn có các phép luyện tập tan-tra đặc thù khác nữa, không
những có thể giúp mình đến gần với sự giác ngộ mà còn giúp mình chữa
trị các căn bệnh trầm kha trên thân xác, chẳng như các bệnh ung thư và
SIDA/AID. Với một tầm nhìn thật sâu xa, có thể xem các thứ bệnh tật ấy
là do các sức mạnh thiên nhiên bị biến đổi bởi các hành vi mang tính
cách tiêu cực của chúng ta chẳng hạn như phá rừng, hoặc là do môi sinh
ô nhiễm gây ra.
Thần linh Garuda
(biểu tượng của quốc gia Thái lan)
Phép
luyện tập về thần linh Garuda (Ga-lâu-la điểu) biểu trưng cho sự hung
tợn của chư Phật qua hình tướng của một con ó lửa huyền thoại. Nếu thực
thi phép luyện tập này song song với việc chữa trị bằng thuốc men, hoặc
bằng các phương pháp hóa trị (chemotherapy) hay xạ trị (radiotherapy),
thì sẽ mang lại nhiều hiệu quả hơn, ít nhất là theo lời của các nhân
chứng đã chữa lành được các căn bệnh ấy bằng phép luyện tập trên đây.
Sau hết là phải kể đến các phép luyện tập trường sinh (tiếng Tây Tạng
là tsédroup) dựa vào phép hấp thụ các sinh khí thiên nhiên, Dầu sao
cũng phải hiểu rằng mục đích của người luyện tập không phải là để "kéo
dài" sự sống của mình mà là để có nhiều thì giờ hơn hầu phát huy
trí tuệ với mục đích trao truyền trí tuệ ấy cho các thế hệ mai sau.
Khí lực trợ giúp cho thân xác và tâm thần
Qua dòng thời gian nhiều vị thầy Tây Tạng từng nhận thấy tình
trạng hiếu động thái quá (hyperactivity), các sự phân tâm, xao lãng,
tình trạng xao động tâm thần và chứng trầm cảm thường gây ra nhiều trở
ngại nghiêm trọng ngăn chận sự thăng tiến tâm linh, nhất là đối với
những người tu tập Tây Phương. Thật ra tình trạng đó không nhất thiết
là vì họ là người Tây Phương mà đúng hơn là do lối sống Tây Phương của
họ (phải
chăng tác giả có hơi quá khắt khe đối với người Tây Phương "của họ"
chăng? Bởi vì ngày nay nếu chúng ta nhìn vào lối sống xô bồ, chạy theo
vật chất và các thứ giải trí rẻ tiền trong các xã hội của một số nước Á
Châu, thì quả khó tránh khỏi sự kinh hoàng, bởi vì không còn mấy người
trong các xã hội ấy quan tâm đến các vấn đề tâm linh và đạo đức nữa.
Biến cải tâm linh hầu giúp mình trở thành một con người xứng đáng và
cao cả hơn là cả một chuyện xa vời đối với họ, bởi vì không mấy ai hiểu
được đấy là gì). Nhà sư Tarab Tülku (1934-2004) cho biết là
ông hết sức kinh ngạc khi nhận thấy việc tu tập tâm linh ngày nay bị
tách rời khỏi các cảm nhận liên kết giữa thân xác và tâm linh (ressenti
psycho-corporel/psycho-corporal experience), vì thế theo ông việc tu
tập trước hết là phải lắng sâu vào thân xác của chính mình. Nhà sư
Tsoknyl Rinpoché (1966 - ) thì cho rằng cần phải chữa trị các sự xao
động đầy lo âu mà ông gọi là các tiếng "xì xào" (buzz/nhiễu âm, tiếng
ồn) trong tâm thức mình (tức là các sự xao động, hoang mang và suy nghĩ miên man) nhờ
vào một kỹ thuật thật đơn giản là theo dõi hơi thở. Tại sao lại phải
làm như vậy? Bởi vì nếu tu tập tâm linh mà tách rời thân xác ra khỏi
tâm thức thì thật hết sức phi lý, vô hiệu quả và chỉ đưa đến sự thất
bại mà thôi (theo dõi hơi thở là một cách giúp mình trở về với con người của mình, với thân xác mình, với sự sống của chính mình). Trong khi hành thiền nếu không liên kết được thân xác với việc điều hòa hơi thở thì sẽ khó tránh khỏi các sự bứt rứt (xin
lưu ý là đối với thiền học zen cũng thế, hành thiền là phải luôn canh
chừng tư thế ngồi cho thật đúng và theo dõi hơi thở, không phải là chỉ
duy nhất hướng vào sự vận hành của tâm thức). Một
tâm thức lo âu là dấu hiệu cho biết là mình chưa chủ động được các
luồng khí lực tinh tế [trong cơ thể]. Nếu muốn cải thiện tình trạng đó
thì phải nhờ vào phép luyện tập hô hấp gọi là "hơi thở êm dịu" (jamloung).
Khi nào thân xác giữ được tư thế ngồi thật đúng thì các kinh mạch tinh
tế sẽ trở nên thông suốt, và khi nào đã điều hòa được hơi thở vào và
hơi thở ra, thì tâm thức sẽ trở nên trong sáng và tĩnh lặng. Phép luyện
tập này dựa vào nguyên tắc gọi là tsaluong (nguyên
nghĩa tiếng Tây Tạng là "kinh mạch và khí lực"), và khi nào thực hiện
đúng đắn được phép luyện tập đó thì các rối loạn tâm thần, tình trạng
trầm cảm, nhất là sự xao lãng và căng thẳng thần kinh (stress) gây ra
bởi sự sinh hoạt xô bồ trong xã hội ngày nay sẽ giảm xuống ngay. Một
lần nữa những gì trên đây cho thấy rằng chúng ta vừa chữa trị các rối
loạn tâm thần nhưng cũng vừa giúp mình hướng vào mục tiêu tối thượng là
mang lại sự Giác Ngộ cho mình.
Trong trường hợp của Phật giáo Trung Quốc, từng phát triển lâu dài song
song với Lão giáo, các nhà sư cũng như người cư sĩ tại gia thường thực
thi các phép luyện tập sức khỏe dựa vào sự vận hành khí lực trong ngành
y khoa cổ truyền của Trung Quốc, chẳng hạn như các phép luyện tập Tài
Chí (Taijichuan) và Khí Công (Qigong). Các phép luyện tập khí lực
(qi/khí) mang tính cách thực dụng này rất gần với phép luyên tập tsaloung của
du-già (yoga) Tây Tạng, và cho thấy rất hiệu quả, bởi vì các phép luyện
tập này không những mang lại sức khỏe cho cơ thể mà còn là một phương
tiện quý giá trợ giúp thêm cho phép tọa thiền (tức là phép thiền định bằng tư thế ngồi yên) bằng cách ghép thêm các động tác vào thể dạng tỉnh thức (presence of mind, tức là thể dạng chú tâm giúp mình tránh bớt các sự xao lãng tâm thần) khi hành thiền (cấp
bậc tiên khởi/thấp nhất trong việc hành thiền là sự chú tâm, giúp mang
lại thể dạng tỉnh thức hay tỉnh giác. Tọa thiền bằng cách ngồi yên và
theo dõi hơi thở sẽ giúp người hành thiền thực hiện được thể dạng tỉnh
thức đó, tuy nhiên đối với một số người thì cách chú tâm hướng vào các
động tác trên cơ thể trong khi khi "múa" Tài Chí hay Khí Công
cũng có thể mang lại dễ dàng hơn thể dạng chú tâm hay tỉnh giác đó cho
họ).
Chữa trị các triệu chứng bệnh hoạn trong cõi luân hồi
Đức
Phật cho biết bệnh tật chỉ là các triệu chứng [bên ngoài] của những thứ
đớn đau to lớn hơn, đó là tình trạng phải sống trong cõi luân hồi
(samsara) qua những chu kỳ hiện hữu mang đầy khổ đau. Cho đến khi nào
vẫn còn vướng mắc trong tình trạng đó thì việc tìm kiếm một sự thăng
bằng hoàn hảo giúp mang lại cho mình một sức khỏe lâu bền sẽ chỉ là ảo
giác mà thôi. Dù khỏe mạnh đến đâu thì con người cũng phải chết! Do đó
vô minh (sự u mê tâm thần) và
những thứ ảo giác do nó tạo ra chính là những gì cần phải chữa trị, thế
nhưng con đường đó thì lại hết sức chông gai. Dầu sao đi nữa cũng không
được phép xem Phật giáo là một kỹ thuật luyện tập nhằm mang lại sự
thoải mái, phát huy bản ngã hay là một cách giữ gìn vệ sinh trong cuộc
sống. Tuy nhiên trên con đường đó sức khỏe tốt bao giờ cũng là một lợi
điểm - dù đôi khi bệnh tật cũng có thể giúp mình quyết tâm hơn - bởi vì
khi đã lâm vào tình trạng sợ hãi gây ra bởi bệnh tật thì quả hết sức
khó tạo ra cho mình một tâm thức trong sáng và bén nhạy. Những gì trên
đây cho thấy tại sao Phật giáo không phải là một tín ngưỡng nghèo nàn (démuni/helpless/bất lực, thê thảm, chỉ biết cầu xin, không mang lại một điều gì cụ thể và thiết thực) bởi vì Phật giáo đã đưa ra nhiều phép luyện tập hữu ích giúp chữa trị bệnh tật cho người tu tập (thí
dụ thật điển hình là phương pháp chữa trị bệnh tật bằng phương pháp
thiền định MBSR/Mindfulness Based Stress Reduction, tức là cách tạo ra
một Tâm Linh Tỉnh Thức bằng thiền định nhằm làm giảm xuống tình trạng
căng thẳng tâm thần, do giáo sư Jon Kabat-Jinn của đại học nổi tiếng
MIT của Mỹ đưa ra, và ngày nay rất phổ biến ở Mỹ cũng như trên toàn thế
giới). Thế nhưng không được rơi vào cái bẫy khiến mình nhầm lẫn giữa những gì chủ yếu (trí tuệ) và sự hữu ích (sức khỏe) để mà chỉ biết chạy theo một trong hai thứ ấy.
Vài lời ghi chú của người dịch
Điểm nổi bật trong bài viết này là trước hết tác giả đưa chúng ta
"phiêu lưu" trong thế giới thật đa dạng của các phương pháp chữa trị
bệnh tật trong Phật giáo, thế nhưng ngay sau đó trong phần kết luận tác
giả đã cảnh giác chúng ta bằng những lời thật đanh thép là không được
phép xem Phật giáo như là "một kỹ thuật luyện tập nhằm mang lại sự thoải mái, phát huy bản ngã hay là một cách giữ gìn vệ sinh trong cuộc sống". Bỏi
vì Phật giáo hướng vào một chủ đích cao quý và dứt khoát hơn nhiều là
mang lại cho chúng ta một sức khỏe vĩnh viễn, vẹn toàn và tuyệt đối,
loại bỏ được mọi thứ khổ đau mang tính cách hiện sinh trong thế giới
hiện tượng: đó là sự Giải Thoát và sự Giác Ngộ tối thượng.
Thật thế đối với Phật giáo khổ đau không phải chỉ là những thứ đớn đau
trên thân xác và các bấn loạn trong tâm thần, mà còn là sự già nua và
cái chết, kể cả sự sinh đưa đến sự hiện hữu trói buộc chúng ta trong
thế giới luân hồi này. Do đó nếu xem Đức Phật là một vị Lương Y thì Đạo
Pháp (Dharma) của Ngài chính là phương thuốc hữu hiệu nhất giúp chúng
ta loại bỏ được các nguyên nhân đưa đến tất cả những thứ khổ đau ấy.
Vậy các nguyên nhân ấy là gì? Đấy là những sự lầm lẫn và u mê trong tâm
thức đan kết vào nhau và dệt thành một tấm màn ảo giác, không cho phép
chúng ta quán thấy được bản chất đích thật của chính mình và thế
giới.
Phụ lục
Câu "man-tra một trăm vần"
trong phép quán tưởng Thần Linh Kim Cương
Tác giả Philippe Cornu trong một quyển sách mang tựa Tấm gương của Con Tim và phép luyện tập Tan-tra của học phái Dzochen (Le Miroir du Coeur, Tantra du Dzogchen,
Édition Sueil, Collection: Points-Sagesses, 1997) có trích dẫn câu
"man-tra một trăm vần" và dịch câu này sang tiếng Pháp. Dưới đây là bản
Việt dịch dựa theo bản tiếng Pháp này:
Bản gốc tiếng Tây Tạng:
OM BENZA SATO SAMAYA
MANOU PALAYA
BENZA SATO TÈNOPA TITHA
D’IDHO MÈ BHAWA
SOUTO KAYO MÈ BHAWA
SOUPO KAYO MÈ BHAWA
ANOU RAKTO MÈ BHAWA
SARWA SIDDHI MEMT’A YATSA
SARWA KARMA SOUTSAMÈ
TSITAM SHRIYAM KOUROU HOUM
HA HA HA HA HO
BHAGAWAN SARWA TATHA GATA
BENZA MAMÈ MOUNTSA BENZÈ BHAWA
MAHA SAMAYA SATO AH HOUM PÈ
*
Bản dịch tiếng Pháp của Philippe Cornu:
Hommage au lien sacré de Vajrasattva,
Ô Vajrasattva protégez le lien sacré,
puissiez-vous demeurer fermement en moi,
donnez-moi complète satisfaction,
croyez en moi,
soyez bienveillant,
accordez-moi tous les accomplissements,
montrez-moi tous les karmas,
rendez mon esprit bon, vertueux et de bon augure,
essence du coeur de Vajrasattva,
HA HA HA HA HO (quatre étapes de l’accomplissement ou extases : HA),
Ô Bienheureux qui personnifiez tous les Tathagatas de diamant ne m’abandonnez pas,
accordez-moi la réalisation de la Nature de Vajra,
grand Être du Samaya, faite-moi un avec Vous"
Bản Việt dịch:
Xin hết lòng ngưỡng mộ sự kết nối thiêng liêng của Thần Linh Kim Cương,
xin Thần Linh Kim Cương hãy bảo toàn sự kết nối ấy,
cầu mong Ngài luôn an trú trong tôi,
hãy giúp tôi được hoàn toàn toại nguyện,
xin Ngài hãy tin tưởng nơi tôi,
đoái hoài đến tôi,
ban cho tôi mọi điều tốt đẹp,
chỉ cho tôi trông thấy tất cả nghiệp [của tôi],
hãy biến tâm thức tôi trở thành nhân từ, đạo đức và mang nhiều điềm lành,
là tinh túy của Thần Linh Kim Cương.
HA HA HA HA, HÔ !
(là các tiếng bật lên khi đạt được bốn cấp bậc trong việc thực hiện sự quán thấy, biểu lộ sự toại nguyện của mình)
cúi xin Đấng Thế Tôn (tức là Đức Phật) từng chuyển hóa tất cả các vị Như Lai Kim Cương, hãy đừng bỏ tôi,
hãy giúp tôi thực hiện được Bản Chất Kim Cương,
hỡi vị Thần Linh vĩ đại của sự Hòa Nhập (Samaya) (Samaya là tiếng Phạn có nghĩa là sự hội nhập hay hòa nhập, Hán dịch là Tam-muội-da (?) ) hãy biến tôi trở thành một với chính Ngài.
Bures-Sur-Yvette, 06.08.15
Hoang Phong chuyển ngữ