Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách
phổ biến là lễ hội Cô hồn là một sự kiện
quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết
với việc thờ cúng tổ tiên. Lễ hội này được
tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng Bảy âm
lịch. Thuật ngữ Vu lan bồn bắt nguồn từ bản
kinh Vu lan bồn (Ullambana,
盂蘭盆經)
và từ
ullambana có nghĩa là “treo
ngược”. Nó mô tả số phận đáng thương của
những chúng sanh đang bị treo ngược ở trong
những địa ngục. Vì vậy nghi lễ được gọi là
“Thí thực ngạ quỷ miệng bóc lửa” được thực
hiện trong lễ hội để cứu người chết ra khỏi
những khổ đau với việc dâng cúng thực phẩm
và tài vật (thường là những vật thể bằng
giấy hay những thứ tượng trưng) để cứu giúp
họ. Như vậy, lễ hội nối kết mật thiết với
việc thờ cúng tổ tiên mà nó đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống của người Trung
Quốc, đặc biệt trong xã hội Trung Quốc cổ
đại. Bởi vì hiếu nghĩa là nền tảng của đạo
đức Trung Quốc, nên việc dâng cúng người
thân quá vãng là phận việc hiếu thảo đối với
tất cả người Trung Quốc. Vì lễ Vu lan bồn
kết hợp với việc thờ cúng tổ tiên của người
Trung Quốc, cho nên nó lan truyền rộng rãi ở
Trung Quốc sau khi hình thành và trở thành
một trong những lễ hội quần chúng được tổ
chức khắp đất nước này.
Ngày nay, lễ hội này vẫn được tổ chức
hằng năm ở Đài Loan, Hồng Kông và Đông
Nam Á. Tuy nhiên nó đã chấm dứt ở Trung
Hoa lục địa do vì Cách mạng Văn hóa
nhưng có một sự phục hưng dần dần. Lễ
hội này không chỉ được tổ chức trong
những chùa chiền Phật giáo và đạo quán
của Đạo giáo mà cũng ở trong những cộng
đồng địa phương với việc dâng cúng của
người dân địa phương và những nhóm
thương nhân. Ở Hồng Kông, lễ hội được tổ
chức vào cuối tháng Tám và kéo dài vài
ngày. Có những hoạt động khác nhau trong
lễ hội này chẳng hạn như cúng thí thực
cho quỷ thần, đốt giấy tiền cho người
thân quá vãng, bố thí gạo cho người
nghèo.v.v.. Đỉnh điểm của lễ hội là diễn
kịch Mục Liên, đệ tử của Đức Phật, người
đã cứu mẹ ra khỏi địa ngục.
2. Nguồn gốc của lễ Vu lan bồn
Lễ hội Vu lan bồn bắt nguồn từ kinh
Ullambanado Dharmaraksa dịch sang
tiếng Hán vào thế kỷ thứ III TL. Kinh
Ullambana kể câu chuyện rằng ngài
Mục Liên (目連,
Maudgalyāyana), một đệ tử của Phật, biết
rằng mẹ của mình sanh vào trong địa ngục
làm ngạ quỷ vì vậy ông đi vào địa ngục
để cứu mẹ. Nhưng khi Mục Liên dâng thức
ăn cho mẹ, thức ăn hóa thành lửa khi đến
miệng bà nên bà không thể ăn được. Mục
Liên đến gặp Phật xin giúp đỡ và Đức
Phật nói với ông rằng ác nghiệp quá khứ
của mẹ ông quá lớn đến độ không chỉ mình
ông có thể cứu bà. Đức Phật nói với Mục
Liên rằng những người cúng dường cho chư
Tăng vào ngày 15 tháng Bảy vào cuối mùa
an cư thì họ tích lũy phước đức lớn cho
cha mẹ của họ trong bảy đời quá khứ cũng
như cha mẹ đời hiện tại. Nếu cha mẹ của
họ ở trong địa ngục thì họ sẽ được sanh
về thiên giới và nếu họ vẫn còn sống thì
sẽ được hạnh phúc và sống thọ với phước
đức cúng dường ấy. Vì vậy Mục Liên đã
làm theo sự chỉ dạy của Phật và với
phước đức lớn ấy mà mẹ của ông được cứu
khỏi địa ngục.
Bản kinh khác có tên là Bàn-nê-hoàn
hậu quán lạp kinh (般泥洹後灌臘經:
Kinh về tắm tượng Phật sau khi Niết-bàn)
cũng do Dharmaraksa dịch vào năm 270 đề
cập rằng vào ngày 15 tháng Bảy, người ta
nên cúng dường Đức Phật để cho cha mẹ
bảy đời quá khứ và năm loại người thân
của họ đã bị sanh vào những cõi ác và
chịu khổ đau cùng cực được giải thoát
khổ đau. “Quán lạp” ở đây có nghĩa là
tắm tượng Phật vào cuối năm đạo (tức
cuối kỳ an cư). Điều này cũng ủng hộ
quan điểm của kinh Ullambana.
Vì Phật giáo đối mặt với những thách
thức và phê bình từ những nhà Nho mà đạo
của họ đề cao hiếu nghĩa, vì vậy khi
kinh Ullambanađược chuyển dịch nó
đã nhanh chóng phổ biến rộng rãi ở Trung
Quốc vì nó được xem như là một bản kinh
dạy về thực hành hiếu nối kết với việc
thờ cúng tổ tiên. Theo truyền thống, lễ
Vu lan bồn được bắt đầu bởi Hoàng đế Vũ
Đế vào triều nhà Lương (502-557) bởi vì
nó được tường thuật ở trong Phật tổ
thống kỉ (佛祖統紀)
do Chí Khánh (志磬)
viết vào năm 1269 rằng, hoàng đế Vũ Đế
của triều Lương cúng dường chư Tăng ở
chùa Đồng Thái (同泰)
vào năm 538. Nhưng theo Vu lan bồn
kinh sớ hiếu hành sao (盂蘭盆經疏孝衡鈔)
được Ngộ Vinh (遇榮),
một người đương thời với Chí Khanh, viết
vào đời Tống (960-1279), thì vị hoàng đế
đầu tiên của Nam Tề (479-502) thường
cúng dường chư Tăng ở những ngôi chùa
khác nhau vào tháng Bảy âm lịch. Ngay cả
Nhan Thị gia huấn (顏氏家訓,
Những giáo huấn gia đình của Nhan Thị)
được biên soạn ở Bắc Tề (550-577) cũng
có lời khuyên đối với những thế hệ tương
lai của họ là nên cúng dường chư Tăng
vào ngày 15 tháng Bảy âm lịch như là một
cách thức đáp trả món nợ của họ đối với
tổ tiên. Đề cập của Lễ hội Vu lan bồn ở
trong Nhan Thị gia huấncũng được
đề cập trong Vu lan bồn kinh sớ hiếu
hành sao của Ngộ Vinh.
Tông Lẫm (宗懍,
498-561) trong Kinh sở tuế thời ký
(荊楚歲時記,
Một ghi chép về những lễ hội và tập tục
ở Kinh Sở/ nước Sở) của mình đã ghi lại,
“Vào ngày 15 tháng Bảy, Tăng Ni, tín đồ
và người tại gia dâng đồ cúng dường tại
những chùa chiền khác nhau. Kinh
Ullambana nói rằng phước đức bao phủ
bảy đời [với việc cúng dường ấy] và việc
thực hành gửi đến họ cờ phướn và hoa, ca
hát và đánh trống, và thực phẩm hầu như
chắc chắn bắt nguồn từ điều này”.
Tông Lẫm cũng nói rằng dân chúng đã tổ
chức lễ hội theo truyền thống Phật giáo
với việc trang trí hoa được làm bằng sáp
và lụa được gắn trên gỗ và tre.
Những chứng cứ này cho thấy rằng lễ hội
Vu lan bồn (盂蘭盆會)
hay lễ Cô hồn đã trở nên phổ biến trước
nhà Lương vì vậy ngay cả sách Nhan
Thị gia huấn (顏氏家訓)không
phải của Phật giáo cũng có riêng một mục
ở trong sánh và Tông Lẫm cũng đã ghi
chép điều này trong cuốn sách của mình.
Điều này là bởi tầm quan trọng của lễ
hội Vu lan bồn là thờ cúng tổ tiên mà nó
cũng quá quan trọng ở Trung Quốc, tập
tục được bắt đầu từ thời kỳ Đồ đá mới và
nó phát triền sâu sắc hơn từ thế kỷ VI
đến thế kỷ IV trước TL.
Một vài học giả nghi ngờ về tính chân
thực của kinh Vu lan bồn (盂蘭盆經,
Ullambana Sūtra)
trong khi số khác nghĩ rằng nó là một
bản kinh chân thực. Khi chúng ta xem xét
nội dung của bản kinh, chúng ta thấy
rằng những điểm quan trọng của bản kinh
về bản chất là Phật giáo và cũng có sự
hỗ trợ từ những ghi chép thuộc Phật
giáo.
Thứ nhất, lễ hội Vu lan bồn nối kết mật
thiết với lễ dâng y kaṭhina (phước điền
y) của Phật giáo mà nó được tổ chức vào
cuối kỳ an cư mùa mưa (vassa) mỗi năm và
những Phật tử tại gia cúng dường thực
phẩm và y áo đến Tăng chúng. Lễ kaṭhina
bắt đầu từ thời Đức Phật vào thế kỷ VI
trước TL và tiếp tục đến ngày nay ở
những quốc gia mà ở đó Phật giáo
Theravāda có mặt chẳng hạn như Sri
Lanka, Thái Lan, Miến Điện và Campuchia
.v.v… Ngày nay lễ kaṭhina là một lễ quan
trọng ở trong những quốc gia này và được
tổ chức như một lễ hội quốc gia. Dân
chúng của những quốc gia này tin rằng
người ta có thể có thêm phước đức khi họ
cúng dường chư Tăng thực phẩm và y áo
vào ngày lễ kaṭhina được tổ chức. Ngày
tổ chức lễ kaṭhina có khác nhau ở mỗi
nơi, bởi vì ở một số nơi kỳ an cư mùa
mưa bắt đầu sớm trong khi những nơi khác
thì muộn hơn. Đôi khi chênh lệch nhau
một tháng. Theo truyền thống Phật giáo,
lễ kaṭhina tượng trưng sự bắt đầu một
năm mới ở trong lịch Phật giáo khi chư
Tăng bắt đầu lại việc du hóa sau ba
tháng an cư.
Thứ hai, Tăng sĩ Trung quốc đã tổ chức
lễ kaṭhina vào ngày 15 tháng Bảy âm lịch
theo Luật tạng (Vinaya). Điều này được
ghi chép ở trong những Vinaya của những
tông phái khác nhau nơi những bản dịch
tiếng Hán, chẳng hạn như kinh Vinaya
Matṛika (毘尼母經,
Tỳ-ni-mẫu kinh),
Sarvāstivādavinayavibhāṣā (薩婆多毘尼毘婆沙,
Tát-bà-đa-tỳ-ni-tỳ-bà-sa), Sarvāstivāda
Vinaya (十誦律,
Thập tụng luật), Mahāsamghika Vinaya (摩訶僧祇律,
Ma-ha-tăng-kì luật),
vàMahīśāsaka Vinaya (彌沙塞部和醯五分律,
Di-sa-tắc-bộ-hòa-ê ngũ phần luật),
rằng ngày 15 tháng Bảy âm lịch là ngày
lễ kaṭhina.
Bản dịch Hán ngữ sớm nhất của kinh mà nó
ghi ngày 15 tháng Bảy âm lịch là ngày lễ
kathina là kinh Pravāraṇa (受新歲經,
Thọ tân tuế kinh)
do Dharmarakṣa dịch (sống ở Trung Quốc
từ 266-317). Bản kinh viết: “Đức Phât
bảo Ananda: ông nên đánh trống ở nơi bãi
đất trống này. Tại sao? Bởi vì ngày hôm
nay, ngày 15 tháng Bảy, là năm mới”. Như
vậy, ngày 15 tháng Bảy âm lịch đã trở
thành năm mới trong lịch Phật giáo ở
Trung Quốc. Ngày này cũng được tìm thấy
trong những kinh khác, chẳng hạn như
kinh Ekottarāgama (增壹阿含經,
Tăng nhất A-hàm)
ghi rằng ngày 15 tháng Bảy là ngày chuẩn
bị cho năm mới với việc sám hối những
lỗi lầm nếu có phạm phải. Như vậy, rõ
ràng rằng ngày 15 tháng Bảy là ngày dành
cho lễ kaṭhina mà nó được truyền vào
Trung Quốc từ rất sớm.
Thứ ba, có một thực hành phổ biến ở Ấn
Độ và những quốc gia ảnh hưởng Ấn Độ
khác là người Phật tử tại gia dâng cúng
cho người quá vãng và ngạ quỷ sau khi
chư Tăng thọ thực xong. Huệ Lâm (慧琳,
sống vào cuối thế kỷ VIII và đầu thế kỷ
IX) trong Nhất thiết kinh âm nghĩa
(一切經音義:
Thanh âm và ý nghĩa của những chữ Hán
khó ở trong tất cả những kinh Phật) cho
chúng ta biết rằng Vu lan bồn là tập tục
của những quốc gia phía Tây (Trung Á và
Ấn Độ), ở đó dân chúng cúng dường cho
chư Tăng vào ngày sám hối để giúp cho
người quá vãng mà họ đã tạo những nghiệp
xấu và không có con cái nhưng bị sanh
vào địa ngục chịu khổ đau treo ngược.
Dâng cúng cho ngạ quỷ được thực hành
ngay cả vào thế kỷ VIII ở Ấn Độ như
Nghĩa Tịnh, người đã viếng Ấn Độ vào thế
kỷ VIII ghi chép trong ký sự Nam hải
ký quy nội pháp truyện(南海寄歸內法傳)
của mình, rằng sau khi chư Tăng thọ thực
xong, một mâm đầy thực phẩm được dâng
cúng người quá vãng và chư thần linh
khác mà họ xứng đáng nhận đồ dâng cúng.
Người tại gia nên mang mâm thức ăn đó
đến trước vị Trưởng lão (tức Thanh văn,
Sthavira) và quỳ xuống, vị Trưởng lão
nên rảy một vài giọt nước và tụng đọc
những bài kệ (gāthā) để chúc phúc.
Chứng cứ khác cho câu chuyện Mục Kiền
Liên không có nguồn gốc ở Trung Quốc là
việc phát hiện bản kịch Di Lặc hội
kiến ký (彌勒會見記)
ở Tân Cương vào năm 1959. Bản kịch này
được viết bằng ngôn ngữ Hồi Cốt
(Uighurs)
và theo nghiên cứu của Quý Tiện Lâm nó
có thể được dịch từ tiếng Thổ Hòa Lỗ
(Tokharian). Trong vở kịch này có đề cập
đến Mục Kiền Liên cứu mẹ thoát khỏi địa
ngục. Vì vậy lễ hội Vu lan bồn được giới
thiệu cùng với những thực hành Phật giáo
khác từ chính giai đoạn đầu. Thực hành
cúng dường cho chư Tăng ngày nay có thể
đã bắt đầu rất sớm.
3. Tính đại chúng của lễ Vu lan bồn
Theo Pháp uyển châu lâm (法苑珠林)
của Đạo Thế (?-683), những chùa chiền
được nhà nước bảo trợ chẳng hạn như Tây
Minh tự (西明寺)
và Từ Ân tự (慈恩寺)
ở kinh đô Trường An đã tổ chức lễ Vu lan
bồn mỗi năm vào thời nhà Đường. Quan lại
mang những đồ vật khác nhau đi cùng với
những nhạc sĩ đến cúng dường cho các
chùa.
Theo Tống Cao tăng truyện (宋高僧傳)
của Tán Ninh (贊寧),
Đạo Thế (道世)
được triều đình tuyển chọn là một trong
50 vị Tăng xuất sắc để giúp Huyền Trang
trong việc dịch thuật vào giữa những năm
Hiển khánh (顯慶
656-661). Vì ban phiên dịch của Huyền
Trang ở tại chùa Từ Ân (慈恩)
nên Đạo Thế cũng dời đến ở ngôi chùa đó
và về sau đến chùa Tây Minh vào năm 658
cùng với ban dịch thuật. Sau khi hoàn
tất, ông tiếp tục sống ở đó cho đến khi
qua đời. Vì vậy miêu tả của Đạo Thế về
Vu lan bồn ở trong hai ngôi chùa được
nhà nước bảo trợ này là kinh nghiệm của
chính ông. Và từ miêu tả của ông, chúng
ta có thông tin rằng các quan lại không
chỉ dâng những phẩm vật khác nhau như
thực phẩm và đồ dùng hàng ngày cho các
chùa viện mà cũng đưa những nhạc sĩ đến
biễu diễn. Trong suốt thời Võ Tắc Thiên,
lễ Vu lan bồn tiếp tục với việc cúng
dường của hoàng đế như Cựu Đường thư
(舊唐書)
miêu tả:
Vào ngày trăng tròn tháng Bảy năm thứ
nhất Như Ý (如意,
692), những chiếc bát Vu lan được mang
ra khỏi hoàng cung và gửi đến các chùa.
[Hoàng đế Võ] Tắc Thiên đi cùng với
những vị quan khác để cử hành lễ tại Nam
môn. Dương Quýnh [楊炯]
trình cho bà bài phú Vu lan bồn (盂蘭盆賦)
của mình. Nó được viết rất hay và ngôn
từ của nó thì ấn tượng.
Võ Tắc Thiên có lẽ là nữ hoàng đầu tiên
tham dự lễ cúng dường Vu lan bồn cùng
với nhiều quần thần khác. Không có ghi
chép nào về những vị hoàng đế nhà Đường
khác trước bà tham dự lễ này.
Dương Quýnh (楊炯650-692)
là một trong bốn văn nhân sáng chói vào
đầu triều Đường và những văn phú của ông
tồn tại đến ngày nay; nó mô tả rõ ràng
rằng Lễ Vu lan bồn liên quan mật thiết
đến việc thực hành báo hiếu.
Việc cúng dường đến các chùa chiền trong
lễ Vu lan bồn hẳn đã trở thành một trong
những nhiệm vụ chính thức được thực hành
mỗi năm trong suốt thời Hoàng đế Đường
Huyền Tông như Đường lục điển (唐六典:
Những
luật lệ hành chính của sáu bộ dười triều
Đường),
một tác phẩm được trình cho hoàng đế vào
năm 739, mô tả bổn phận của nó đối với
lễ Vu lan bồn là “vào tháng Bảy… vào
ngày 15, bộ hoàn tất bát Vu lan”. Do đó,
có thể kết luận rằng Công bộ của vương
triều hẳn chịu trách nhiệm trong việc
cung cấp đồ vật được sử dụng trong lễ
cúng thí cô hồn của hoàng gia vào giữa
triều Đường. Về sau những hoàng đế như
Đại Tông (代宗
=
Lý Dự
李豫)
và Đức Tông (德宗
=
Lý Thích
李適)
tham dự lễ Vu lan bồn
với tư cách cá nhân.
Miêu tả sớm nhất và chính thức đầy đủ về
việc tổ chức Vu lan bồn vào năm 768 ở
Trường An thì được tìm thấy
nơi hồi ký
của Vương Tấn (王縉,
niên đại 781) trong Cựu Đường thư (舊唐書).Vương
Tấn, em của thi nhân nổi tiếng Vương Duy
(王維701-756),
là đại thần luôn chỉ trích sự ủng hộ
Phật giáo mạnh mẽ của Đại Tông. Theo
hồi ký
của Vương:
Vào ngày trăng tròn tháng
Bảy,
Đại Tông
cho làm những chiếc bát
Vu lan ở cung điện.
Chúng
được trang trí bằng lông chim bói cá
vàng và
hao
phí
đến
một triệu tiền. Ông cũng
bày biện
bàn tiên tổ bảy đời từ hoàng đế Cao Tổ
trở xuống. Chúng được
che
phủ bằng cờ và lộng rồng, với
tôn
danh của họ được viết trên cờ để dânchúng
biết [bàn nào tượng trưng cho vị tổ tiên
nào]. Những chiếc bàn này được mang ra
khỏi
phạm vi
hoàng gia để trưng bày ở những ngôi chùa
Phật và đạo
quán.
Vào ngày này, tất cả quần thần với tùy
tùng của họ sắp thần đội ngũ tại Hòa
minh môn để chờ đoàn diễu hành. Cờ hoa,
ca vũ, và tiếng hò reo chào đón ngậptràn
các đường phố.
Điều này cũng được ghi chép trong
Phật tổ thống kỷ (佛祖統紀)
được viết vào năm 1269,
rằng vào năm 768, hoàng đế Đại Tông đã
tổ chức lễ hội Vu lan bồn ở trong cung
điện của mình. Ông ra lệnh đặt các bàn
thờ của bảy vị tiên đế ở đó và các đại
thần cùng quan lại đến bày tỏ niềm tôn
kính của họ và tham
dự
buổi lễ. Như vậy
lễ này
trở thành một sự kiện
thường lệ.
Ở đây lại có bằng chứng
cho thấy
rằng lễ hội Vu lan bồn nối kết mật thiết
với việc
thờcúng
tổ tiên và thực hành hiếu nghĩa.
Cũng theo Phật tổ thống kỷ, vị
hoàng đế khác là Đức Tông đã ra lệnh xây
một ngôi chùa đặt tên là An Quốc (安國)
vào năm 779 để tổ chức lễ hội Vu lan
bồn. Chính hoàng đế cùng
với những đại thần và quan lại đến ngôi
chùa này để tham dự buổi lễ.
Trước Đại Tông và Đức Tông, các vị hoàng
đế thường phái quan lại mang đồ cúng
dường đến các chùa vào lễ Vu lan bồn như
chúng ta đã thấy ở trên, nhưng Đại Tông
và Đức Tông đã thay đổi luật lệ và họ đã
cho chuyển bàn thờ đến
hoàng cung
và đích thân tham gia
buổi
lễ bằng việc dâng cúng. Như vậy,
việc
tham gia của hoàng
đế vào lễ hội Vu lan
đã khuyến khích
tình cảm và lòng mộ đạo của quần chúng
vì nó đặc biệt
nối kết với báo hiếu và thờ cúng tổ
tiên. Như vậy, lễ Vu lan
đã
trở thành một sự kiện quốc gia vào triều
Đường và được tổ chức mỗi năm với sự
tham gia của hoàng gia,
và nó được tổ chức ở
khắp
vương quốc
bởi tất cả mọi người cho dù
họ
là Phật tử hay không bởi vì
sự
nhấn mạnh là vào việc kính trọng cha mẹ.
Vương triều thậm chí cung cấp bát
Vu
lan dùng cho việc dâng đồ cúng đến các
chùa Phật và đạo
quán.
Vị Tăng Nhật Bản Ennin (Viên Nhân/
圓仁),
người hành hương đến Trung Quốc thời
Đường vào thế kỷ IX,
đã mô tả cảnh tượng
tại
những ngôi chùa địa phương ở Tràng An
vào năm 844 trong
cuốn du ký
của mình:
Việc cúng bái được thực hiện tại những
ngôi chùa khác nhau ở kinh thành [Trường
An] vào ngày 15 tháng Bảy. Tại mỗi ngôi
chùa [người ta] bày những ngọn nến sặc
sở, bánh màu, hoa giả, cây trái và những
thứ khác, tranh đua nhau trong sự khan
hiếm. Thông thường đồ dâng cúng được bày
ở trước Phật đường, và người dân khắp
kinh thành viếng dạo các ngôi chùa với
sự vui thích. Nó thật sự là một lễ hội
hoành tráng. Năm nay đồ cúng đặt bày tại
những ngôi chùa khác nhau đã vượt trội
đồ cúng thường niên.
Không chỉ người thế tục mà chư Tăng cũng
cúng dường Phật và Tăng-già trong việc
tưởng niệm người thân quá vãng của họ.
Tông Mật (宗密
780-841), một Tăng nhân xuất chúng rất
được kinh trọng, đã viết một luận giải
về kinh Ullambana, là một chứng
cớ hùng hồn về vai trò thiết yếu của lễ
Cô
hôn vào đầu thế kỷ IX trong xã hội Trung
Quốc. Tông Mật nói nơi lời tựa của cuốn
luận, “Mỗi năm vào ngày bố-tát của
Tăng-già, bốn vật dụng cần thiết (thực
phẩm, y áo, sàng tọa và thuốc thang)
được dâng cúng lên Tam bảo. Vì vậy Tông
Mật thực hiện điều này trong nhiều năm”.
Đối với Tông Mật, lễ Vu lan bồn là thể
hiện tối cao của tâm hiếu, một khái niệm
mà ông giải thích trong luận giải của
mình,
cuốn sách
đề cập đến kinh cùng những ví dụ của
Phật giáo và những cổ thư thuộc truyền
thống Nho giáo.
Sau khi Phật giáo Mật tông được truyền
vào, một loại nghi lễ được gọi là Diệm
khẩu (焰口,
miệng
lửa) được sáp nhập vào trong
lễ
Cô hồn
đã được thiết lập. Kinh Cứu bạt diễm
khẩu ngạ quỷ đà-la-ni
(救拔焰口餓鬼陀羅尼經)
được Amoghavajra (705-774) dịch vào
triều
Đường
Đại Tông là nguồn kinh chính dành cho
nghi lễ. Những
phương pháp
mới
có mặt
trong Cứu bạt diệm
khẩu ngạ quỷ đà-la-ni
là
nằm
trong
cuốn
nghi lễ Thí chư ngạ quỷ ẩm thực cập
thủy
pháp
(施諸餓鬼飲食及水法)
và ở trong một loạt những cuốn sách khác
liên quan đến việc cứu khổ chúng sanh
được hoàng gia chọn lựa và nhanh chóng
trở thành tiêu chuẩn. Chính nghi thức
thuộc thế kỷ thứ VIII này đã được Kukai
(空海/
Không Hải) đưa vào Nhật vào thế kỷ thứ
IX, hình thành nên hạt nhân của lễ Obon
ở đó.
Teiser đã mô tả
rất hay
cách quần chúng đã tổ chức lễ Vu lan bồn
vào đời Đường và ở đây tôi chỉ tóm tắt
miêu tả của ông được tìm thấy ở trong
cuốn Lễ Vu lan vào thời Trung cổ
Trung Quốc
(中國中古時期的盂蘭節/
Trung Quốc trung cổ thời kỳ đích Vu lan
tiết). Những đám người đông đúc từ mọi
tầng lớp
xã hội
đã
đến những ngôi chùa để cúng dường vì lợi
ích của tổ tiên họ vào ngày
rằm
tháng
Bảy.
Quần chúng mang đồ cúng của họ, quan lại
mang đồ cúng do nhà nước cung cấp. Nhạc
sĩ và những người làm trò tiêu khiển nổi
tiếng cũng là một phần của sự nhộn nhịp
ở
những lễ hội thời trung
cổ,
mà chúng kết hợp một dạng lễ hội và tiêu
khiển với những đề tài mang tính tôn
giáo và nghiêm trang hơn.
Đồ cúng
mà
quần chúng cung cấp bao gồm nhiều thứ:
hoa giấy, đồ khắc chạm từ gỗ tre, và đồ
ăn thức uống ngon. Nhà nước thường sử
dụng dịp này để gửi quà biếu đến những
ngôi chùa được bảo
hộchính
thức khắp vương quốc. Những món quà như
vậy được cơ quan
công khố (Công bộ)
của
triều đình
cung cấp, trong khi phước đức có được từ
bố thí dành cho tổ tiên của mọi người.
Số tiền lớn do những thí chủ giàu có bố
thí được sử dụng để sửa
sang chánh điện và
đãi
tiệc chay cho tất cả khách viếng thăm.
Hầu hết những đồ hiến tặng này được
chuyển trực tiếp đến Tăng-già hay chuyển
nhượng cho đại diện Tăng-già ở gần các
lễ hội. Nghi lễ cúng dường là đơn giản
những là phần rất quan trọng của một
buổi lễ lớn hơn. Việc cúng dường
thực tế
được kết hợp với kệ tụng tán Phật, Pháp
và Tăng.
Xem xét từ một bản nghi thức cúng kiếng
thời đầu nhà Tống,
cho thấy
ở trong chùa dân chúng cầu Mục Liên và
những thành viên Tăng-già
khác giúp tổ tiên họ thoát khỏi khổ đau
nơi ác thú. Những người cầu nguyện mà họ
dâng
đồ cúng thường chọn ra những người quá
vãng
và
hồi hướng
phước đức
cho người ấy.
Ví dụ, một
tán ca
có niên đại cuối nhà
Đường
đã
đề cập đến hai “hoàng tử” đã hy sinh
mạng sống ở biên giới phía
Tây,
có thể trong việc phục vụ nhà nước:
Vào lễ Trung nguyên, một buổi sáng
yên lành
vào đầu mùa thu, một điện thờ dành cho
việc thực hành Vu lan được thiết lập.
Trong việc
bày biện
một bữa tiệc cho sự
độ thoát
họ.
Vị
Đại bảo vệ,
vị thống lĩnh quận trưởng,
chính
mong muốn chân thành nhất của tôi
là
tạo phước đức vì lợi ích của hai vị
hoàng tử.
Phần quan trọng khác của lễ Vu lan bồn
là những bài giảng mang tính đại chúng (俗講/tục
giảng) về đạo làm con và bố thí. Câu
chuyện về Mục Kiền Liên cứu mẹ được
giảng trong các chùa lập đi lập lại
suốt
lễ hội. Để cho quần chúng hiểu nó dễ
dàng, kinh Ullambana được viết
lại
như bài giảng phổ thông
với
việc bổ sung các
chi tiết vào câu chuyện mà nó được tìm
thầy ở những hang động Đôn Hoàng.
Có ít nhất bảy bản biến văn (變文)
liên quan đến câu chuyện Mục Kiền Liên
cứu mẹ được tìm thấy ở những hang động
Đôn Hoàng:
một bản biến văn
về
Mục Kiền Liên cứu mẹ ra khỏi địa ngục,
với các hình ảnh,
gồm
một cuộn, với lời tựa Đại Mục Kiền
Liên minh gian cứu mẫu
biến văn tịnh đồ nhất quyển tịnh tự
(大目乾連冥間救母變文并圖一卷并序)
được viết vào năm 921;
ba bản biến văn Mục Kiền Liên cứu mẹ
ra khỏi địa ngục (大目乾連冥間救母變文);
ba bản biến văn về Mục Kiền Liên (大目乾連變文)
và một trong số chúng được viết vào năm
977.
Theo nghiên cứu của các học giả,
những bản văn này được gọi là biến văn (變文)
để nhấn mạnh chức năng hóa
độ quần chúng
của nó.
Biến văn bao gồm hai phần: văn xuôi và
thơ. Văn xuôi
là bản tường thuật câu chuyện trong khi
thơ được hát để
làm
tăng sự thích thú. Những bức tranh được
vẽ để mô tả câu chuyện trong bản văn mà
chúng được gọi là biến tướng (變相)
cũng được trình bày.
Nói chung, biến văn được thực hiện trong
việc kết hợp với những tranh vẽ biến
tướng
(biến tướng đồ);
hay nói một cách đại khái, nó dẫn dắt sự
theo dõi các bức hình của người xem
thông qua việc tụng đọc và hát. Những
phần được nói kể lại câu chuyện trong
khi phần thơ được hát làm tăng thêm ấn
tượng. Biến văn là những bản văn gồm văn
xuôi và thơ dành cho việc biểu diễn
trước khán thính giả. Như vậy câu chuyện
Mục Kiền Liên cứu mẹ trở nên vô cùng phổ
biến ở xã hội Trung Quốc vào đời Đường
thông qua những thuyết giảng phổ thông.
Ảnh hưởng Phật giáo vào Lễ hội Trung
nguyên của Đạo giáo
Đạo giáo cũng tổ chức lễ cúng ma quỷ
nhưng họ đặt tên là lễ Trung nguyên (中元節
Trung nguyên tiết). Tuy nhiên, lễ Trung
nguyên bắt đầu ở Trung Quốc
không biết
từ khi nào vì không có ghi chép trước
thời Nam Bắc triều. Một số học giả cho
rằng lễ Trung nguyên của Đạo giáo được
tổ chức do ảnh hưởng của Phật giáo vào
thời Nam triều khi lễ Vu lan của Phật
giáo bắt đầu vào thời Nam Bắc Triều. Tuy
nhiên, việc thờ cúng tổ tiên cùng với
việc cúng ma quỷ vào ngày
rằmtháng
7 âm lịch có thể được người Trung Quốc
thực hành trước khi Phật giáo được
truyền vào Trung Quốc.
Vì
Đạo giáo dần trở thành một tôn giáo bằng
việc đồng hóa và mô phỏng theo những
triết thuyết và thực hành Phật giáo vào
thời Nam Bắc triều
nên
họ cũng đồng hóa lễ cúng cô hồn bằng
việc kết hợp nó với ngày tháng truyền
thống được nối kết mật thiết với niềm
tin vào ma quỷ.
Kinh Ullambanavà nghi lễ cúng thí
ngạ quỷ vào ngày
rằm
tháng Bảy đã ảnh hướng vào Đạo giáo rất
lớn
đến độ họ cũng phát triển tư tưởng và
nghi lễ riêng của mình đối với việc cúng
thí và cứu
độ
ma quỷ. Vào triều Đường,
do
vì sự ủng hộ Đạo giáo
của hoàng đế,
lễ Trung nguyên của Đạo giáo trở nên phổ
biến đặc biệt vào
thời
Đường Chánh Tông. Như được nhà chiêm bái
người Nhật Ennin miêu tả, rằng tất cả
phẩm vật
ở trong chùa chiền Phật
giáo được đưa đến những đạo
quán
để cúng cho Thiên Tôn.
Một chỉ dụ (từ hoàng đế) ban rằng tất cả
hoa
quả,
thuốc
men
và những thứ khác được
cúng dường
tại những Phật đường của những ngôi chùa
khác nhau được đưa đến các đạo quán để
dâng cho Thiên Tôn. Vào ngày 15, thiên
tử viếng thăm đạo quán. Ông triệu gọi
dân chúng đến xem, nhưng họ trách mắng,
“Tịch thu
phẩm vật
của Phật để cúng cho thiên thần - ai dám
đến xem?” Thiên tử ngạc nhiên
khi
dân chúng không đến. Nhiều chùa chiền
buồn
phiền vì phẩm vật
của họ bị tịch thu.
5. Sự phát triển lễ Vu lan bồn sau đời
Đường
Từ thế kỷ X trở về sau, triều Tống và
sau đó, lễ Vu lan bồn tiếp tục tính đại
chúng của nó trong quần chúng. Có ít yếu
tố tôn giáo hơn và thêm việc thực hành
hiếu nghĩa đặc biệt liên quan đến thờ
cúng tổ tiên.
Ngay cả
thuật ngữ Đạo giáo là Trung nguyên được
sử dụng thường xuyên hơn thuật ngữ Phật
giáo là Vu lan bồn. Một đặc tính quan
trọng của lễ hội là việc kết hợp cả
những tư tưởng và nghi lễ của Phật giáo
và
Đạo
giáo. Điều này được ghi chép ở trong
Đông kinh mộng
hoa lục
(東京夢華錄)
do Mạnh Nguyên Lão (孟元老)
viết vào triều Bắc Tống (960-1127). Dưới
phần về lễ Trung nguyên, ông nói,
Một vài ngày trước
rằm
tháng
Bảy,
nhiều loại đồ vật khác nhau dành cho
người chết được bán ở chợ chẳng hạn như
giày, mũ nón, giây đai giả vàng bạc, áo
quần năm màu, tất cả được làm bằng giấy
để bán… Kinh Trung nguyên Mục Liên
(Ullambana sutra) cũng được in bán. Bát
Vu lan
giống
như những ngọn đèn được làm và được gắn
trên đầu một cây tre với ba chân. Áo
quần và tiền giấy được treo trên đó và
được đốt.
Mạnh Nguyên Lão còn nói thêm rằng dân
chúng dâng cúng những phẩm vật chay cùng
những thứ khác
cho
tổ tiên của họ
và
viếng
thăm
nghĩa địa,
chùa Phật và đạo quán. Hoàng đế cũng
đưa
xe đến nghĩa địa, quan lại sắp xếp những
cuộc hội họp lớn với những bàn thờ dành
cho những cô hồn
tử vong
trong chiến trận với việc đốt những đống
lớn tiền giấy. Mạnh Nguyên Lão cho chúng
ta biết rằng
vào triều
Tống, câu chuyện Mục Liên cứu mẹ đã được
đặt vào giai đoạn
chuyển thành
kịch nghệ thay cho những thuyết giảng
đại chúng về câu chuyện.
Lục Du (陸遊1125-1210),
một người cùng thời với Mạnh Nguyên Lão,
cũng mô tả tình huống tương tự về lễ Vu
lan bồn. Lục Du nói:
Vào giữa tháng
Bảy,
quần chúng dâng thực phẩm chay đến tổ
tiên của họ. Họ làm những chiếc bát bằng
tre bỏ đầy tiền giấy trong đó và sau đó
gắn trên
đỉnh
cây tre rồi đốt nó. [Dân chúng] dự đoán
thời tiết theo cách chiếc bát rơi. Nếu
chiếc bát rơi về hướng
Bắc,
có nghĩa là sẽ có mùa đông lạnh, nếu nó
rơi về hướng
Nam
sẽ có mùa đông ấm, nếu nó rơi về hướng
Đông
hoặc hướng
Tây
sẽ có một mùa đông ôn hòa. Nó được gọi
là bát Vu lan. Đây là cách nói của quần
chúng.
Bản viết của Lục Du cho thấy rằng lễ Vu
lan bồn đã trở thành một lễ hội đại
chúng đối với tất cả mọi người.
Nó
nối kết mật thiết với lễ thờ cúng tổ
tiên và thậm
chí
đã phát triển những
yếu tố mê tín.
Vì vậy Ngô Tự Mục (吳自牧)
của triều Nam Tống (1127-1279) nói
ở trong Mộng lương lục (夢梁錄)
rằng vào ngày
Rằmtháng
Bảy, những Đạo gia thực hành nghi lễ
dành cho tổ tiên và những người chết
khác ở trong Đạo quán của họ, những Tăng
sĩ Phật giáo bắt đầu lễ Vu lan bằng việc
thực hiện dành cho những người mà họ
cúng
gạo và tiền cho tổ tiên của họ. Hoàng
gia cũng
đánh
xe ngựa đến nghĩa địa của hoàng gia để
tỏ lòng tôn kính đối với tiên tổ và
những hầu thiếp của mình. Bản văn cũng
ghi chép đặc điểm mới quan trọng khác
của lễ Vu lan: thả đèn trên sông để soi
sáng thần sông. Hoàng gia cũng tham gia
vào lễ hội bằng việc cúng tiền và gửi
người hầu của họ đến thả 10 ngàn ngọn
đèn trên sông. Điều này trở thành
một đặc điểm mới của lễ hội.
Truyền thống thả đèn trên sông này tiếp
tục đến thời nhà Minh và nhà Thanh. Lưu
Đồng (劉侗)
và Vu Dịch Chánh (于奕正)
trong cuốn Đế kinh cảnh vật lược (帝京景物略)miêu
tả cảnh tượng của kinh đô ở triều Minh,
“Vào ngày
rằmtháng
Bảy
tất cả chùa chiền tổ chức lễ Vu lan và
vào buổi tối đèn được thả trên sông và
được gọi là thả đèn sông”. Lưu Đồng nói
rằng giống như lễ Thanh minh, dân chúng
cũng viếng nghĩa địa và dâng cúng tổ
tiên của họ.
Vào triều Minh, lễ Vu lan bồn đã trở
thành một lễ hội đại chúng và người dân
từ mọi giai tầng xã hội tham gia vào
việc cúng tổ tiên. Châu Hoằng (袾宏
1535-1615) nói ở trong Chánh ngoa tập
(正訛集)
của mình rằng dân chúng vào thời của ông
nghĩ rằng lễ Vu lan bồn là chỉ
để
cúng thí cho ma quỷ và thần linh. Điều
này cho thấy rằng
dân chúng chỉ thực hiện những hoạt động
liên quan đến thờ cúng tổ tiên và yếu tố
tôn giáo dần rút ra khỏi lễ hội.
Kịch Mục Liên
Một trong những mục quan trọng trong lễ
Vu lan bồn là việc thực hiện kịch Mục
Liên mà nó bắt đầu vào đời nhà Đường như
là một buổi nói chuyện nhưng trở thành
một trong những hoạt động chính vào
triều Tống khi biến văn bị ngăn cấm.
Tính đại chúng của kịch
Mục Liên được ghi chép trong những cuốn
sách văn học triều Tống như Đông kinh
mộng
hoa lục (東京夢華錄)
do Mạnh Nguyên Lão (孟元老)
viết. Ông nói rằng trong lễ Vu lan bồn,
“Kịch có tên Mục
Liên
cứu mẹ
được các nghệ sĩ thực hiện trong bảy đêm
cho đến ngày 15, và khán giả đã tăng gấp
đôi”. Sự ghi chép này là hoàn toàn quan
trọng
vì
nó cho thấy rằng kịch Mục
Liên
cứu mẹ đã được thực hiện vào triều Bắc
Tống. Đây là lần đầu tiên việc miêu tả
đầy đủ về vở kịch.
Sau đó vào đời Minh,
Trịnh Chi Trân (鄭之珍)
đã biên soạn Mục Liên cứu mẫu hành
hiếu hí văn (目連救母行孝戲文).
Trịnh Chi Trân đã mở rộng vở kịch với
nhiều thêm thắt được
rút từ những nguồn khác nhau, chẳng hạn
như những câu chuyện dân gian, Tây du
ký (西遊記)
và những chuyện khác. Như vậy nó trở
thành một bản kịch
gồm
104 mục. Theo Đổng Hàm (董含1624-?)
trong Thuần hương chuế bút (蓴鄉贅筆),
vào năm 1684, hoàng đế Khang Hi (康熙)
ra lệnh dùng một ngàn đồng tiền vàng để
kiến thiết những sân khấu ở cổng sau
hoàng cung để trình diễn kịnh Mục
Liên truyền kỳ (目連傳奇).
Trương Đại (張岱1597-1679)
triều nhà Minh ở trong Đào am mộng ức
(陶庵夢憶)
của mình, ở phần kịch Mục Liên (目連戲)
ở trong tập thứ sáu đã mô tả cảnh tượng
đầy đủ của vở kịch được thực hiện trong
xã hội.
Vở kịch được thực hiện
dành
cho việc giải trí và
giảng
dạy đạo đức
hơn là báo
hiếu và thờ cúng tổ tiên. Những người
thực hiện được huấn luyện tốt đến độ họ
thực hiện cảnh địa ngục rất sống động
theo họa sĩ triều Đường Ngô Đạo Tử (吳道子),
người đã vẻ những tranh minh họa về địa
ngục. Nó lôi cuốn rất đông quần chúng
đến xem.
Vào triều Thanh, Trương Chiếu (張照1691-1745)
biên soạn Khuyến thiện kim khoa (勸善金科)
theo
lệnh của hoàng
đế và nó được trình diễn trên sân khấu ở
trong hoàng cung mỗi năm. Vở kịch bao
gồm 240 tiết đoạn và nó là vở kịch dài
nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ở phần
giới thiệu,
vở kịch
nói rằng nó được đặt cơ sở trên Mục
Liên ký (目連記)
mà nó
phát xuất từ kinh Ullambana ở
trong kinh điển Phật giáo. Nhiều câu
chuyện
và nhân vật quan trọng
Trung Quốc được sáp nhập vào trong vở
kịch và mục đích là để quảng bá lòng
hiếu thảo và sự trung nghĩa. Chính từ
câu chuyện Mục Liên này mà nhiều tiểu
thuyết nổi tiếng, kịch, truyện cổ tích
và những sách vở quý giá khác được hình
thành ở trong xã hội,
cả cho việc giải trí và quảng bá lời dạy
đạo đức.
7. Nghi lễ Phật giáo
Lễ Vu lan trở thành một yếu tố quan
trọng trong những ngôi chùa Phật giáo và
được tổ chức mỗi năm. Chúng ta có thể
thấy
điều này
từ một
thanh quy
quan trọng
của Phật giáo
được gọi là Bách Trượng thanh quy (百丈清規).
Ấn bản Bách Trượng thanh quy
đời Nguyên
của Đức Huy (德輝)
ở chương thứ bảy mô tả về Vu lan bồn như
sau: “Trong suốt mười ngày đầu của tháng
Bảy,
vị
Tăng
tri sự liệt những bản kinh dành cho lễ
Vu lan bồn cho
Tăng chúng
tụng đọc và cũng
chuẩn bị
đồ vật bố thí. Vào ngày 13, việc tụng
đọc kinh Lăng-già kết thúc. Vào
ngày 15, kỳ
an
cư kết thúc và lễ Vu lan bồn sẽ bắt đầu
vào buổi tối với việc tụng kinh và cúng
thí cô hồn”.
Nhưng ở trong bản
Huyễn
trụ yêm thanh quy (幻住閹清規
)
đời Nguyên và Minh nói rằng “Vào ngày 15
tháng Bảy,
người
giải tán và vào buổi tối
lễ Vu lan bắt đầu với việc dâng cúng
người chết. Đồng thời cũng sẽ có một
danh sách những bản kinh để chư
Tăng
tụng theo ý muốn của họ”. Như vậy,
phần chính của Vu lan bồn là dâng cúng
người quá vãng và điều này tiếp tục cho
đến triều Minh.
Vào triều Thanh, Nghi Nhuận (儀潤)
đã viết
Bách Trượng thanh quy chứng nghĩa ký
(百丈清規證義記),
lại nhấn mạnh việc cúng dường chư Tăng
và mong muốn thực hiện hai điều cùng
nhau:
tôn kính Phật giáo và dâng cúng người
quá vãng. Vì vậy ông
miêu
tả chi tiết cách thực hiện lễ Vu lan bồn
trong
cuốn
luận của mình, nhưng không nhiều chùa
theo những chỉ dẫn của ông.
8. Lễ Vu lan bồn ở phần còn lại của châu
Á
Lễ Vu lan bồn cũng được truyền vào Hàn
Quốc và Nhật Bản cùng với Phật giáo,
mà
nó trở thành một trong những lễ hội quan
trọng ở Nhật giống như như
lễ Tết
và dân chúng tổ chức nó mỗi năm vào ba
ngày 13, 14, và 15 tháng Tám và đó là
những ngày nghỉ ở Nhật. Chùa chiền bắt
đầu chuẩn bị một tháng trước và dân
chúng sẽ viếng thăm gia đình của họ và
dành ba ngày tại nhà để thực hiện bổn
phận hiếu nghĩa chẳng hạn như dâng cúng
tổ tiên của mình. Những việc tổ chức
khác chẳng hạn như ca múa, thả đèn sông
là
nhưng phần của lễ hội. Nhưng phần quan
trọng nhất là cúng
bái
tổ tiên. Mỗi
gia đình sẽ đốt một
đống
lửa nhỏ trước nhà để nghinh đón tổ tiên
của mình vào ngày 13, sau đó dâng cúng
những loại thực phẩm khác nhau lên tổ
tiên của họ. Vào ngày 16, người ta lại
đốt một đống lửa nhỏ trước nhà để cung
tiễn
ông bà của
mình.
Ở Đông Nam Á, nơi có cộng đồng người
Trung Quốc đông đảo như ở Malaysia và
Thái Lan, lễ Vu lan bồn cũng được tổ
chức mỗi năm để cúng tổ tiên.
Tóm lại,
lễ Vu lan bồn bắt đầu từ truyền thống
Phật giáo và dần dần trở thành một trong
những lễ hội quan trọng ở Trung Quốc và
Đông Á với việc thờ cúng tổ tiên như là
trọng tâm của tất cả mọi hoạt động chẳng
hạn như dâng cúng cho người quá vãng và
thực hiện kịch Mục Liên. Như vậy,
lễ hội Vu lan bồn là một trong những dịp
quan trọng cho việc thực hành hiếu nghĩa
đối với người Trung Quốc và như một kết
quả nó thúc đẩy sự hòa nhập của Phật
giáo vào văn hóa Trung Quốc.
Nguyên Hiệp dịch
Source: Journal of the Centre for
Buddhist Studies, Sri Lanka, VOL.
IX, pp.123-143.
* Giáo sư Quảng Hưng hiện đang giảng dạy
tại Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Đại
học Hongkong.
*Vì bài viết khá dài, người dịch đã lược
bỏ phần chú thích của tác giả. Bạn đọc
có thể tham khảo phần chú thích đầy đủ ở
nguyên tác theo nguồn được dẫn ở trên.