“Nguyện lực”
hay “quyết định
lực” là 01 trong
10 ba-la-mật (pāramī)
(1) theo kinh
điển truyền thống.
Nó là năng lực của ý
chí tiếp sức cho tư
tác (cetanā) hoàn
thành tâm nguyện của
người học Phật và tu
Phật.
Chư Chánh Đẳng Giác,
Độc Giác, Thinh Văn
Giác đều có nguyện
lực và đều có ba
giai đoạn: Nguyện
trong tâm (ý),
nguyện thành lời (khẩu)
và nguyện bằng hành
động (thân)
ba-la-mật. Như đức
Phật Sakyā Gotama đã
phát nguyện ở trong
tâm suốt 7 A-tăng-kỳ,
nguyện thành lời
suốt 9 A-tăng-kỳ, và
nguyện bằng hành
động ba-la-mật suốt
4 A-tăng-kỳ và 100
ngàn đại kiếp(2).
Như vậy là đức Phật
Sakyā Gotama phải
thực hành ba-la-mật
trải qua 24 vị Phật
tổ, kể từ Phật
Dīpaṅkāra (Nhiên
Đăng) cho đến Phật
Kassapa (Ca Diếp).
Trong các kiếp trầm
luân sinh tử, thỉnh
thoảng chư Bồ-tát
cũng “quên”
hay “lơ là”
nguyện lực cũ của
mình mà tạo tác sai
lầm, bị đoạ, nhưng
rồi, qua thác, qua
ghềnh, chiếc thuyền
vẫn tìm được hướng
đi chơn chánh. Chúng
ta, dù tu sĩ hay cư
sĩ, cũng tương tự
vậy, không ai có khả
năng biết rõ nguyện
lực của mình thuộc
giai đoạn nào. Tôi
biết có một vị
trưởng lão
Nam
tông, cuối bổn dịch
của một bộ kinh, có
ghi lời phát nguyện
thành bậc Chánh Đẳng
Giác. Tôi biết một
vị trưởng lão khác,
trong ngày nhậm chức
Tăng Thống có phát
nguyện thành lời
bố-thí ba-la-mật như
thái tử Vessantara
để thành bậc Chánh
Đẳng Giác. Và còn
nhiều vị khác nữa.
Cách đây nhiều năm,
có người thân quen
hỏi nhỏ tôi là đã
phát nguyện Chánh
Đẳng Giác chưa? Tôi
cười cười nói, chưa,
chưa phát nguyện
thành lời, nhưng có
khởi ý nghĩ lặng lẽ
trong tâm là thành
bậc Độc Giác thôi,
một mình khoẻ hơn!
Chứ thành Chánh Đẳng
Giác mệt lắm, đeo
níu nhân duyên nhiều
đời kiếp với chúng
sanh, phiền lắm; rồi
lại còn sinh tử trầm
luân dài dằng dặc
nữa, ớn lắm!
Thật là lạ lùng! Dù
mới khởi nguyện lặng
lẽ Độc Giác ở trong
tâm mà đời sống của
tôi nó cứ có khuynh
hướng đồng quy về
chỗ “một mình”
mới kỳ. Hiện tại,
tôi không vào bất cứ
một hội nào, ngoài
Phật. Không đi họp
đi hành ở bất cứ đâu,
ngoài hành lễ bố-tát.
Đi kỵ giỗ tưởng niệm
một vài bậc cố
trưởng lão tôn túc
là chuyện chẳng đặng
đừng, chứ thật ra
“không có mợ thì chợ
cũng đông”! Có
tham dự một vài cuộc
hội thảo xét ra là
quan trọng và cần
thiết; còn thấy vô
ích, vô bổ,
“phong trào”
hoặc bên sau có này
có kia thì cứ
“viện cớ già lão”
mà từ chối! Chuyện
thuyết pháp hay đi
giảng nói đây đó thì
tuỳ duyên chút ít –
vì tôi biết rõ
“nói nhiều thì lỗi
nhiều”; và vì
tôi đã học rất thuộc
câu kinh Lời Vàng
“Im lặng như cái mõ
bể là đã gần kề
Niết-bàn” không
thống khoái hơn sao!
(Nơi bàn chỗ tôi
ở có ba tượng khỉ
bằng gỗ, con bịt mắt,
con bịt tai và con
bịt mồm – tôi nhìn
và cố tu tập như vậy
hằng ngày). Thấy
đám đông hay khi có
lễ lượt nhiều người
là tôi cảm giác mệt
mỏi, thiếu không khí
để thở, muốn vào nơi
lặng lẽ một mình!
Tết, xuân - tôi
thường “trốn kỷ”
20 ngày hay một
tháng thấy“phẻ”
vô cùng; và càng già
càng thích cô liêu,
tịch mịch để viết
cái gì đó, nghiên
cứu, học hỏi cái gì
đó... Duy nhất tôi
có hướng dẫn một lớp
thiền, 3,4 năm nhưng
giờ thì cho nghỉ rồi;
và tôi bảo, đời là
một trường thiền
rộng lớn, hãy nắm
“nguyên lý thiền”,
linh động, biến hoá
để áp dụng đa dạng
và phong phú khi
giao tiếp, ứng xử
với thế gian đa phức:
Phải học bài học
giác ngộ ở đó chứ
không phải ở đây!
“Pháp thực thuyết”
là ở trong thế giới
duyên sinh khổ, lạc
mà chư vị đang sống!
“Một tiếng chửi
là pháp đang đến đó!”
“Một chiếc lá
vàng rơi là pháp
đang đến đó!”
Giữa chợ, giữa đời
ngày nay tha hồ là
pháp!
Ôi! Mới có
“nguyện lực trong
tâm” thôi mà nó
đã “chuyển”
sinh hoạt tâm linh
của tôi đi về
“cõi cô liêu, cô
độc” như vậy đó!
Chưa rõ nó là tốt
hay xấu, mà có lẽ cả
tốt, cả xấu. Tốt là
ít có duyên sanh
phiền não và tốt nữa
là có nhiều thì giờ
để đọc, để viết! Xấu
do bản ngã ẩn mình
đóng vai trò cao
thượng và xấu nữa là
do có bóng dáng của
tư kỷ, ích kỷ! Nhưng
hiện tại,
tôi-đang-là-vậy
thì tôi nói thật,
sống thật vậy thôi!
Ai cũng phải có
nguyện lực, quyết
định tâm, nhất là
sinh hoạt của tu sĩ
và cư sĩ. Tôi xin kể
một chuyện xưa nhé.
“Vào thời đức
Phật Ca-diếp
(Kassapa), có đức
vua tên là Vijjitāvī
trị vì một vương
quốc giàu mạnh, kinh
đô đặt tại xứ Sāgala
xinh đẹp. Đức vua là
một cư sĩ có giới và
có trí, cai trị quốc
độ bằng mười vương
pháp, sống với thần
dân bằng bốn pháp tế
độ.
Tại kinh đô ven
sông, đức vua cho
xây dựng một ngôi
chùa lớn rồi dâng
cúng đến các vị
trưởng lão đạo cao
đức trọng, suốt
thông Pháp và Luật.
Ngài hộ độ chư Tăng
đầy đủ về tứ sự, hết
tuổi thọ, hóa sanh
làm Thiên chủ cõi
Đao-lợi, gọi là Đế
thích Thiên vương.
Ở ngôi chùa do
đức vua bảo trợ này,
chư tỳ-khưu Tăng rất
đông đúc, duy trì
pháp học và pháp
hành một cách nghiêm
túc và không gián
đoạn. Trong chúng,
có vị tỳ-khưu giới
hạnh trong
sạch, hằng ngày tu
tập thiền quán. Mỗi
sáng, ngài thường
thức dậy sớm, lễ bái
Tam Bảo, quán tưởng
ân đức Tam Bảo, tọa
thiền, kinh hành rồi
đi quét dọn xung
quanh chùa. Công
việc ấy ngài làm một
cách lặng lẽ và
chuyên cần.
Hôm kia, vị
tỳ-khưu quét lá
quanh Bảo tháp, gom
lại thành đống rồi
gọi sư sa-di phụ
việc hốt đem đổ đi.
Sư sa-di ngày thường
rất ngoan ngoãn,
nhưng hôm ấy lại
sanh tâm lười biếng,
giả vờ không nghe.
Gọi đến lần thứ ba,
thấy sư sa-di vẫn
cứng đầu, vị tỳ-khưu
bèn bước tới, đánh
cho chú mấy cán chổi
khá đau. Thế là sư
sa-di vừa khóc vừa
hốt rác, lòng ấm ức
vô cùng. Công việc
xong xuôi, sư sa-di
phát lời nguyện
rằng:
‘- Với phước báu
đổ rác này, nếu chưa
đắc Niết-bàn, dù
sanh vào cảnh giới
nào, cũng xin cho
tôi có đầy đủ quyền
cao, chức trọng mà
oai lực của tôi sẽ
thù thắng hơn tất cả
mọi người, như mặt
trời vĩ đại ở giữa
hư không kia vậy’.
Nguyện xong, hể
hả và vui sướng, sư
sa-di đi xuống sông
tắm. Khi bơi lội
nhởn nhơ trong nước,
thân tâm mát mẻ, sư
sa-di cảm thấy hối
hận, tự nghĩ:
-‘Thầy tỳ-khưu
bảo ta hốt rác, đấy
chẳng phải là phận
sự bắt buộc, chẳng
phải là việc riêng
của ngài; cũng chẳng
phải là lợi ích cho
các thầy A-xà-lê,
cũng không phải nhằm
phục vụ cho các vị
thượng tọa, hòa
thượng của ngài. Vậy
đích thị ngài đánh
ta là muốn tế độ ta,
muốn đánh vào cái
tính lười biếng và
cứng đầu của ta! Ôi!
Vì u mê mà ta tự làm
hại ta rồi’.
Vẫn còn ngâm mình
dưới sông, nhìn
những lượn sóng như
vô tận đuổi nhau đến
tận bờ xa, sư sa-di
tâm cơ máy động,
phát lời đại nguyện:
‘- Vì thiếu trí
tuệ mới sinh lười
biếng, cứng đầu,
sinh những nhận thức
sai lầm, nông nổi.
Vậy thì với tất cả
những phước đức tu
tập của tôi, phước
đức đổ rác bấy lâu
nay, phước đức thấy
mình lầm lỗi, xin
nguyện rằng: Nếu
chưa đắc quả
Niết-bàn, hãy cho
tôi có được trí tuệ
nhiều vô biên vô
lượng như những làn
sóng vô tận của con
sông này’.
Đang trên bến,
cũng định xuống sông
tắm, vị tỳ-khưu nghe
được lời phát nguyện
đầy quyết tâm vững
chắc của sư sa-di,
chột dạ, nghĩ thầm:
‘Không kể chút lầm
lỗi sáng nay, sư
sa-di này từ lâu tu
tập rất tốt, có hạnh
kiểm và có trí. Vậy
với lời nguyện sắt
đá này, chú sa di
hẳn sẽ thành tựu dễ
dàng’. Trầm ngâm hồi
lâu, vị tỳ-khưu nghĩ
tiếp: ‘Trong lời
nguyện của sư sa-di,
vừa có cái gì đó như
phục thiện mà cũng
vừa có cái gì đó như
đối chọi lại với ta?
Nhưng bản chất của
sư sa-di này ngủ
ngầm sự cứng đầu,
kiêu căng, ngã mạn.
Vậy nếu lời nguyện
kia mà thành tựu thì
trên thế gian này có
ai đủ khả năng trí
tuệ để kềm bớt trí
tuệ của y?’.
Vì thế, vị
tỳ-khưu cũng chấp
tay lên đầu, hướng
giữa thinh không,
phát lời đại nguyện:
‘- Với tất cả mọi
công đức tu tập của
tôi, công đức quét
rác bao nhiêu năm,
nếu tôi chưa đắc quả
Niết-bàn, xin cho
tôi được thành tựu
trí tuệ bất khả tư
nghì. Trí tuệ ấy
phải đầy đủ năm tính
chất sau đây:
Nhiều như sóng
của con sông đại
Hằng.
Vững chắc và
kiên định như hai bờ
của con sông này.
Thấy rõ gốc
ngọn tất cả các
pháp.
Quang minh,
sáng sủa.
Quảng bác, thâm
sâu, sắc bén.
Mong nhờ trí tuệ
bất khả tư nghì ấy,
có thể kiềm chế, phá
nghi, soi rọi, dẫn
dắt sư sa-di đi đến
nơi giác ngộ, giải
thoát’.
Cả hai vị tỳ-khưu
và sa-di, với lời
nguyện ấy, sau khi
tan rã ngũ uẩn, họ
đều được sanh làm
người, làm trời trọn
thời gian giữa hai
vị Phật. Đến lúc
Phật Thích-ca
Niết-bàn gần năm
trăm năm, vị tỳ-khưu
thuở xưa từ cõi trời
giáng hạ làm Na-tiên
tỳ-khưu; vị sa-di
sanh làm vua Mi-lan-đà
ở kinh thành Sāgala
đúng với lời nguyện
của họ”.
Nội dung câu chuyện
về quét rác và đổ
rác thôi, mà do
nguyện lực của hai
vị mà hiện nay ta có
được bộ sách Mi Tiên
vấn đáp (hay Na-tiên
tỷ kheo), hàm tàng
tư tưởng Phật học
thâm sâu có giá trị
nhiều đời cho hàng
hậu tấn nghiên cứu,
học hỏi.
Nguyện lực, theo
truyền thống, muốn
đầy đủ sức mạnh thì
phải trọn vẹn cả tam
nghiệp thân, khẩu, ý
như ba giai đoạn dẫn
lược ở trên. Tuy
nhiên, người tu học
thường không biết là
mình đang ở trong
giai đoạn nào – nên
cứ tuỳ duyên, thuận
pháp mà “làm”.
Khi thấy cần ở trong
tâm (ý) thì cứ ở tâm
mà “quyết định
với ý chí sắt đá”.
Khi thấy cần ở lời
nói (khẩu) thì cứ
nơi lời nói mà
“bày tỏ nguyện lực
một cách nhất như”.
Khi thấy cần bổ túc
một ba-la-mật nào đó
trong 10 ba-la-mật
thì cứ ba-la-mật ấy
mà “thực hành một
cách triệt để” (thân).
Nếu làm được vậy thì
sự tu học sẽ bất
thối chuyển, và chắc
chắc sớm muộn, trước
sau cũng thành tựu
mục đích rốt ráo
phạm hạnh, giải
quyết trọn vẹn
“đại sự tử sinh”
của đời mình! Mong
lắm cho tất cả chúng
ta vậy thay!
MINH ĐỨC TRIỀU
TÂM ẢNH
Ghi chú:
(1) Bố thí (dāna),
trì giới (sīla),
xuất gia (nekkhamma),
trí tuệ (paññā),
tinh tấn (viriya),
nhẫn nại (khantī),
chân thật (sacca),
quyết định (athiṭṭhāna),
tâm từ (mettā), tâm
xả (upekkhā).
(2) Tổng cộng là 20
A-tăng-kỳ và 100
ngàn đại kiếp dành
cho Bồ-tát căn cơ
Trí tuệ. Bồ-tát căn
cơ Đức tin với thời
gian gấp đôi, là 40
A-tăng-kỳ và 100
ngàn đại kiếp.
Bồ-tát căn cơ Tinh
tấn (phục vụ chúng
sanh) thì thời gian
gấp đôi căn cơ Đức
tin là 80 A-tăng-kỳ
và 100 ngàn đại kiếp.
|