Làm thế nào có thể vừa quảng bá lòng từ bi lại vừa giết súc vật để ăn
Làm thế nào có thể vừa quảng bá
Làm thế nào có thể vừa quảng bá lòng từ bi
lại vừa giết súc vật để ăn
Matthieu Ricard
*
Hoang Phong
chuyển ngữ
(ảnh Bruno Levy)
Nhà sư Matthieu Ricard
"Làm thế nào có thể vừa quảng bá lòng từ bi
lại vừa giết súc vật để ăn?"
Lời phát biểu trên đây của nhà sư người Pháp Matthieu Ricard cũng
là tựa của một bài phỏng vấn ông do tập san Thiên Chúa Giáo La Vie (Sự
Sống) thực hiện ngày 07 tháng 10 năm 2014. Nhân ngày Quốc Tế Thực Phẩm 16
tháng 10 vừa qua, các cơ quan truyền thông khắp thế giới thi nhau đưa ra các
quan điểm về vấn đề trên đây,
và
tập san La Vie cũng đã phát hành một số đặc biệt với chủ đề ăn chay,
trong đó có bài phỏng vấn nhà sư Matthieu Ricard. Bài phỏng vấn này cũng đã được
trang web Phật Giáo Buddhachannel giới thiệu:
http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article23824.
Quyển sách mang tựa đề Bênh vực cho lý tưởng vị tha (Plaidoyer
pour l' Altruisme, nxb Nil Eds, 2013, 917 tr.) của nhà sư Matthieu Ricard
phát hành ngày 18 tháng 9, 2013 đã gây ra một tiếng vang rất lớn. Ngày 03 tháng
10, 2014 ông lại cho phát hành thêm một quyển sách khác mang tựa Bênh vực cho
loài thú vật (Pladoyer pour les animaux, nxb Allary Eds, 2014, 370
tr.). Lợi nhuận của tất cả các sách của ông từ trước đến nay đều được sung vào
quỹ từ thiện của tổ chức Karuna Schechen do ông sáng lập nhằm xây dựng và điều
hành nhiều bệnh viện, trường học, viện mồ côi,... tại nhiều nơi trong vùng bắc
Ấn và xứ Nepal. Các sách của ông cũng được đưa lên mạng và mọi người có thể tải
xuống miễn phí. Riêng phần mình thì ông cũng từng cho biết là mỗi ngày ông chỉ
cần vài Âu kim cho việc ẩm thực là cũng đủ.
1
2
H.2: Quyển sách Bênh vực cho lý tưởng vị tha
H.3: Quyển sách Bênh vực cho loài thú vật
Là một người tu hành Phật Giáo, ông ăn chay từ 47 năm nay. Trong
quyển sách Bênh vực cho loài thú vật ông không ngần ngại lên án các lò
sát sinh các kỹ thuật săn bắt và chăn nuôi thật quy mô và khoa học, tất cả đã
tạo ra không biết bao nhiêu đau thương cho loài súc vật. Mỗi khi trông thấy
chúng ta vuốt ve các con chó hay các con mèo thì ông thường tự hỏi tại sao lòng
từ bi ấy của chúng ta lại vụt biến mất đi mỗi khi chúng ta nhìn thấy những miếng
thịt bày ra trong đĩa thức ăn của mình. Thật vậy, trong cuộc sống thường nhật
nào có mấy khi mà chúng ta ý thức được
thái độ mâu thuẫn ấy của chính mình?
Dưới đây là bản dịch cuộc phỏng vấn nhà sư Matthieu Ricard do nữ ký
giả Elisabeth Marshall thực hiện tại một quán ăn chay ở thành phố Bruxelles nước
Bỉ.
Làm
thế nào có thể vừa quảng bá lòng từ bi
lại vừa giết súc vật để ăn
(Comment prêcher la compassion et tuer pour manger)
Matthieu Ricard
- Mọi người đều biết ông là
một người thật nhân từ, thế nhưng vì lý do nào mà hôm nay ông lại cho thấy mình
còn là một người bạn của loài súc vật?
- Thái độ đó không nhất thiết phát sinh từ sự yêu quý súc vật quá
đáng, mà đúng hơn là một cung cách hành xử khi nào đã ý thức được các mối dây
liên hệ giữa chúng ta và các chúng sinh có giác cảm khác, và nhận thấy được
những sự khổ đau mà chính chúng ta đã gây ra cho chúng. 60 tỉ sinh vật bị sát
hại hàng năm trên hành tinh này. Con người đã biến súc vật thành những thứ hàng
hóa tiêu dùng, và xem chúng là những bộ máy cơ khí sản xuất các khúc xúc xích đủ
loại. Thật ra thì đấy cũng chỉ là cách mang lại tai hại cho tất cả, trước hết là
cho loài súc vật và sau đó là cho cả loài người chúng ta. Đấy là cách mà chúng
ta tự nghiền nát lương tâm đạo đức của mình, làm phương hại đến sức khỏe của
mình và hủy hoại cả môi trường sống trong tương lai.
Chúng ta từng đạt được thật nhiều tiến bộ quan trọng trên phương
diện nhân quyền, thế nhưng trên một bình diện khác thì chúng ta lại biến súc vật
thành những món hàng hóa tiêu dùng. Chúng ta thường quên mất là súc vật cũng
biết đau đớn và sợ hãi, và chúng cũng có quyền được sống như chính chúng ta. Tôn
trọng quyền hạn đó không phải là một hình thức "nhân phẩm hóa" súc vật mà chỉ là
một cách trải rộng lòng thương cảm của mình đến tất cả chúng sinh. Mỗi lần nghĩ
đến loài chim barge rousse (tên khoa
học là Limosa lapponica, tiếng Anh là bar-tailled godwet,
là một loài chim di trú, sống trong
các vùng cỏ hoang bắc cực và bay đến các vùng Á Châu, Úc Châu và Phi Châu để
tránh mùa đông) có thể bay xa hàng 10.000 cây số bằng cách định hường
nhờ vào vị trí của các vì sao trên trời, và trong khi đó thì tôi vẫn cứ thường
hay đi lạc trong các đường phố Paris, thì tôi lại hiểu rằng loài chim ấy có
những phẩm năng mà tôi không hề có được. Vì thế thiết nghĩ đôi khi chúng ta cũng
nên khiêm nhường một chút!
Chim Limosa lapponica
- Con người từ nguyên thủy không ăn thịt. Vậy có
phải là ông chủ trương nên quay về với bối cảnh của các thời kỳ sơ khai với các
mối tương quan khác hơn giữa con người và muông thú: có nghĩa là trở về với lối
sống bằng cách nhặt hái hoa quả, trước khi chuyển sang cách sống bằng chăn nuôi
hay không?
- Đối với giống người Australopithecus (người tiền
sử sống cách nay từ 4,5 đến 1 triệu năm trước thời hiện đại)
thì 83% thức ăn của họ là hoa quả. Không mấy khi họ ăn thịt, các trường
hợp này thật hiếm hoi và chỉ xảy ra vào những dịp khi họ tìm thấy xác chết của
một con vật. Tiếp theo đó là một thời kỳ thật dài của giống người Neanderthal
(sống cách nay khoảng từ 250.000 năm đến 28.000 năm)
chuyên ăn thịt. Sau đó con người băt đầu sống định cư: canh nông và chăn nuôi
phát triển. Gần đây hơn, tức là cách nay khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm, con
người bắt đầu thuần hóa thú rừng để biến chúng thành gia súc: chẳng hạn như chó
sói, ngựa, dê và sau đó là mèo ở Ai Cập. Giai đoạn biến thú rừng thành gia súc
đã làm thay đổi hẳn mối tương quan giữa con người và súc vật. Thật hết sức lạ
lùng, cũng vào thời kỳ này đã phát sinh ra chế độ nô lệ trong vùng lãnh thổ của
dân tộc Samur (sống cách nay vào khoảng 4.000 đến
3.000 năm trước Tây Lịch trong một vùng nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrate
thưộc lãnh thổ Iraq ngày nay)! Các biến chuyển trên đây
đã làm nảy sinh ra ý nghĩ
cho rằng con người có quyền khai thác các chúng sinh khác
(súc vật và cả con người) nhằm mang lại lợi
nhuận cho mình. Đấy chính là quá trình làm hạ phẩm giá kẻ khác
(con người và súc vật).
- Phải chăng từ trước nay tình trạng đó chưa hề xảy
ra trong các xã hội sơ khai?
- Tất nhiên là không. Những người tiền sử kể cả những người thuộc các bộ lạc
sinh sống bằng cách săn bắt và nhặt hái còn tồn tại đến nay trong các vùng
Amazon (các vùng rừng rậm Nam Mỹ) tuy
cho rằng súc vật khác với họ, nhưng không hề xem chúng là thấp kém hơn họ. Hơn
nữa đối với họ thú vật còn là hiện thân của các loài ma quỷ mà họ khiếp sợ, hoặc
đội lốt các thần linh mà họ tôn thờ, lý do là vì các con thú ấy có những sức
mạnh mà họ không sao bì kịp. Chúng ta đều biết là các lực sĩ thượng thặng giỏi
lắm cũng chỉ lội nhanh bằng một con cá chép, hoặc chạy nhanh bằng một con mèo là
cùng... Con người sinh sống trong các tập thể xã hội biến thú rừng thành gia súc
đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau cho chúng. Nhằm bảo đảm sự an toàn đạo
đức cho mình và tránh các sự bất an trong tâm trí mình, con người đã hạ phẩm giá
súc vật để biện minh cho cung cách hành xử ấy của mình. Họ đánh giá súc vật là
những loài thấp kém và vô cảm hầu có thể ăn thịt chúng một cách thản nhiên.
- Quan điểm ấy của ông có quá khắt khe đối với các
triết gia Hy Lạp và những người Thiên Chúa Giáo hay không, bởi vì họ không hề
cảm thấy tội lỗi mỗi khi tạo ra khổ đau cho súc vật?
- Hầu hết các tôn giáo độc thần đều xem súc vật như một thứ tài vật được tạo ra
cho con người sử dụng vào việc ẩm thực hoặc tha hồ khai thác: không ăn thịt súc
vật là thái độ khinh thường tặng phẩm mà Trời đã ban cho mình. Tuy nhiên trong
số họ cũng có những người không ăn thịt, thế nhưng lại nêu lên các lý do chẳng
hạn như muốn giữ sự thanh đạm, hoặc e sợ bị trừng phạt, hoặc vì thịt của một số
loài vật nào đó bị ô nhiễm nên không được phép ăn
(người theo Thiên Chúa Giáo không ăn thịt vào ngày thứ sáu, người theo Hồi Giáo
không ăn thịt heo, người theo Ấn Giáo không ăn thịt bò..., các hành động ấy chỉ
mang ý nghĩa tôn giáo, không phải vì sự thúc đẩy của lòng từ bi).
Dầu sao trên dòng lịch sử cũng có những trường hợp ngoại lệ nói lên được lòng
thương cảm đối với súc vật: chẳng hạn như đối với Thiên Chúa Giáo thì có Thánh
Jean Chrysostome (St John Chrysostom) và Thánh Jean-François d'Assise (St
Francis of Assisi), và vào các thời kỳ cổ đại của Hy Lạp thì có Ovide và
Plutarque (Plutarch), là những người đã tích cực quảng bá việc ăn chay. Théodore
Monod (1902-2000, một nhà khoa học thiên nhiên nổi
tiếng của Pháp) thuật lại câu chuyện sau đây về một vị thầy soufi
(sufi) (một đường hướng tu tập mang tính cánh thần
bí trong Hồi Giáo) người Ma-rốc - thật ra thì cũng chỉ là một trường
hợp ngoại lệ đối với Hồi Giáo. Trong khi đang thuyết giảng vị thầy này trông
thấy một con chim sẻ từ tổ rơi xuống đất, ông bèn sai các đồ đệ hãy nâng lấy kẻ
mà ông xem như "đồng loại" với mình. Thiết nghĩ đối với thuật ngữ "đồng loại"
trên đây có lẽ ngoài ông ta ra chưa có một nhà nhân bản (humanist) nào dám nói
lên. Sau hết chúng ta cũng không nên quên là có 450 triệu người dân Ấn ăn chay,
và đây cũng là một tập thể nhân loại ăn chay đông đảo nhất thế giới, trong số họ
dẫn đầu là những người theo đạo Ja-in (Jainism/hình
thành và phát triền cùng một thời kỳ với Phật Giáo và cũng mang một vài đường
nét giáo lý gần với Phật Giáo), họ tuyệt đối tôn trọng tất cả mọi
hình thức của sự sống. Vào thế kỷ XVII chính những người du hành Tây Phương lần
đầu tiên đã khám phá ra nền văn minh biết kính trọng súc vật của nước Ấn.
- Nhân danh nền đạo đức nào mà Phật Giáo
không chấp nhận việc ăn
thịt?
- Thật hết sức đơn giản, chỉ vì lòng từ bi. Chúng ta không thể nuôi sống mình
bằng sự đau đớn và cái chết của các sinh vật có giác cảm khác. Trong một bài
kinh Phật có một câu như sau: "Ăn thịt là hủy hoại lòng từ bi bao la".
Dầu sao cũng có một vài ngoại lệ khá tế nhị: chẳng hạn như đối với Phật Giáo
Tiểu Thừa (Theravada), người tu hành không được phép giết một con vật để ăn,
hoặc để cho người khác giết cho mình ăn. Trong khi đó đối với Phật Giáo Đại Thừa
(Mahayana) thì phải phát nguyện lòng từ bi một cách đích thật: tức không được
phép biến thân xác mình thành một nghĩa trang. Vì thế các nhà sư Trung Quốc đều
nhất loạt ăn chay (bởi vì hầu hết trong số họ đều
tu tập theo Phật Giáo Đại Thừa). Ở Tây Tạng vào các thời kỳ xa xưa
không có đường xá lưu thông, sữa và sữa chua chỉ đủ dùng khoảng ba tháng trong
năm, ngoài ra thì chỉ có bột lúa mạch, bơ và thịt khô: do đó việc ăn chay là cả
một sự khổ hạnh! Ngày nay việc nấu nướng trong các chùa chiền Tây Tạng trên đất
Ấn không còn dùng thịt nữa. Ở Nepal tôi lưu ngụ trong một tu viện gồm khoảng 600
nhà sư, việc ăn chay không nhất thiết bắt buộc, thế nhưng những người lo việc
bếp núc không mua và cũng không sử dụng thịt, với mục đích không tiếp tay vào
việc buôn bán thịt. Một nửa các nhà sư đã trở thành những người chay lạt.
- Phải chăng đấy cũng chính là sự lựa chọn của cá
nhân ông?
- Đúng thế và cũng đã từ 47 năm nay rồi! Tất cả các vị thầy của tôi cũng vậy.
Đối với tôi điều ấy thật hết sức hiển nhiên, bởi vì làm thế nào lại có thể vừa
quảng bá lòng từ bi lại vừa giết súc vật để ăn? Ngày nay khoa học đã chứng minh
cho thấy là việc ăn thịt không phải là một nhu cầu cần thiết. Nhiều lực sĩ thế
vận hội, chẳng hạn như lực sĩ chạy bộ Carl Lewis không hề ăn thịt. Cho rằng phải
hấp thụ các chất đạm động vật thì mới có thể sinh tồn được là một ý niệm sai
lầm. Ngoài ra tôi còn nhận thấy tuổi trẻ ngày nay cũng rất nhiệt tình trong việc
ăn chay với mục đích bảo vệ môi sinh. Bớt ăn thịt không những chỉ vì lý do đạo
đức mà còn là một cách giữ gìn sức khỏe và làm giảm bớt sự biến đổi môi sinh. Xu
hướng chung ngày nay là bớt ăn thịt, tức có nghĩa là không cần phải ăn chay một
trăm phần trăm. Tôi xem xu hướng ấy là cả một sự tiến bộ của nền văn minh con
người. Cách nay 300 năm, người ta còn công khai tra tấn người ở những nơi công
cộng, hoặc kéo nhau đi xem hành quyết vào các ngày chủ nhật, cứ tương tự như
ngày nay rủ nhau đi xem bóng đá. Quả là một cuộc cách mạng thật ngoạn mục trên
phương diện tình thương và sự kính trọng những sinh vật khác, và xu hướng này
vẫn còn tiếp tục. Ở Hoa Kỳ, quê hương của những kẻ chăn bò (cowboys) và những
tay thợ săn, chỉ có 4% dân chúng là ăn chay, thế nhưng trong môi trường đại học
số sinh viên ăn chay lên đến 20%. Ở Pháp số người ăn chay ngang hàng với số
người săn bắn (săn bắn phải có giấy phép, đóng niên
liễm, rồi thì thú săn, mùa săn, số thú bị giết... đều được nhà nước quy định mỗi
năm, do đó các con số thống kê rất chính xác).
- Phải chăng khái niệm cho rằng "chúng
sinh có giác cảm"* tất phải sớm được đưa vào Bộ Luật Dân Sự?
*(chúng sinh có giác cảm/êtres sensibles,
êtres animés/sentient being, living being, tiếng Phạn là satva hay sattva, chữ
sat hay satva trong tiếng Phạn có nghĩa là chúng sinh/being hay là sự "hiện
hữu"; tiếng Pa-li là satto hay satta có nghĩa là "being creature" hay "satient
being" là một thuật ngữ chỉ chung súc vật và cả con người, thí dụ như chữ
bodhisattva là "người" bồ-tát hay là "người" giác ngộ. Kinh sách gốc Hán ngữ
dịch chữ sattva/satta là "chúng sinh hữu tình", cách dịch này không được sát
nghĩa lắm - nếu không muốn nói là sai hay "vô nghĩa". Thí dụ một con sâu cảm
nhận được sự đau đớn cũng là một chúng sinh như chúng ta, nhưng không nhất thiết
và bắt buộc là nó cũng phải "hữu tình" như chính chúng ta. Các sinh vật ở các
mức độ tiến hóa thấp cũng cảm nhận được sự đau đớn dù không đủ sức phát lộ được
các xúc cảm bấn loạn tương tự như một số các loài sinh vật ở các cấp bậc tiến
hóa hơn. Lòng từ bi Phật Giáo phải trải rộng ra đối với tất cả chúng sinh, không
cần phân biệt là chúng có "hữu tình" hay không).
- Hầu hết các nước Âu Châu đã đưa khái niệm này
(tức công nhận "súc vật cảm nhận được sự đau đớn") vào các bộ luật
của họ. Điều này cho thấy rằng khoa học ngày nay đã chứng minh được là thú vật
cũng nhận biết được sự đau đớn. Đối với người Phần Lan thì súc vật còn hàm chứa
cả tri thức (consciousness) nữa! Ở Pháp ngày 14 tháng 4, 2014 vừa qua, Ủy ban
Tư Pháp của Quốc Hội đã thừa nhận súc vật được hưởng quy chế "chúng sinh mang
khả năng cảm nhận" (êtres vivants doués de sensibilité"/living being endowed
with sensitivity), điều đó cũng phù hợp với quan điểm chung của đại đa số
quần chúng trên đất Pháp ngày nay. Thế nhưng trên thực tế vẫn chưa thấy
một sắc luật nào được đưa ra nhằm áp dụng quy chế ấy đối với súc vật. Lý do là
các thủ tục vận động trong chiều hướng này đều bị phe chống đối
(bảo thủ) tìm cách chận đứng... Tôi cảm
thấy thật bàng hoàng trước tình trạng đạo đức hết sức nghịch lý
(giả dối) đó của xã hội chúng ta
(tức nước Pháp) đối với súc vật!
- Có phải chính ông đã từng
nêu lên sự nhận xét là không mấy ai ý thức được
sự liên hệ giữa một miếng cốt-lét và những
nỗi đớn đau của một con bê hay không?
- Điều này cũng tương tự như một thứ bệnh tâm thần. Trong dân chúng Pháp chỉ có
14% chống lại việc chăn nuôi súc vật để lấy thịt, 65% cảm thấy xao động khi
trông thấy cảnh mổ giết gia súc. Các lò sát sinh được che dấu kín đáo! Chưa bao
giờ cuốn phim Terriens* nêu lên kỹ nghệ giết mổ súc vật trong các lò sát
sinh được trình chiếu trên màn ảnh truyền hình, lý do là không muốn làm cho các
lứa tuổi còn quá trẻ phải bị "xao động".
* (Tựa tiếng Anh của bộ phim này là
Earthlings, có nghĩa là "Thế Gian" hay "Cõi Ta-bà", và cũng có thể dịch là "Con
người của thế gian này", là một bộ phim tài liệu của Mỹ do Shaun Monson thực
hiện năm 2005. Độc
giả có thể xem trên
Youtube:
Tiếng Việt:
http://www.vietnamanchay.com/2010/05/phim-tai-lieu-chung-sinh-ia-cau.html
tiếng Anh: https://www.youtube.com/watch?v=ibuQ-J04eLQ
tiếng
Pháp:
https://www.youtube.com/watch?v=Yqa2Pj_HMyI.
Hàng trăm trang web trên khắp thế giới đã giới thiệu
bộ phim này với nhiều đoạn
khác nhau).
Ngoài ra người
ta còn nhận thấy 50% học sinh ở các lớp tiểu học tại thành phố Chicago
(nơi thực hiện cuộc thăm dò) không đủ sức
hình dung được là miếng thịt kẹp trong ổ bánh mì hamburger của chúng có liên hệ
gì với một con thú trên thực tế hay không. Miếng thịt ấy từ đâu mà có? Trong các
siêu thị! Trước khi đưa vào siêu thì nó từ đâu ra? Từ các cơ xưởng kỹ nghệ! Dù
có giải thích cho chúng biết đấy là thịt của một con vật thì nhất định chúng sẽ
không tin. Đấy chính là tình trạng mâu thuẫn thật tiêu biểu của những con người
sống trong các xã hội tôn thờ thú vật trong nhà (chó,
mèo...), lòng từ bi của họ sẽ biến mất ngay mỗi khi họ trông thấy một
đĩa thức ăn hiện ra trước mặt mình. Trong năm vừa qua có một người chơi trò ném
mèo vào tường để quay phim. Giới truyền thông làm ầm lên và nhiều người đã bày
tỏ sự phẩn nộ của mình. Người ném con mèo vào tường bị đưa ra tòa, con mèo được
cứu sống (chỉ bị gãy một chân), quả là
một điều đáng mừng (thật ra câu chuyện đã xảy ra
vào ngày 31 tháng giêng 2014 vừa qua tại miền nam nước Pháp, 60.000 người ký tên
bày tỏ sự bất nhẫn của mình trên Facebook. Tòa án xử phạt người này một năm tù
giam. Gần đây hơn vào đầu tháng 5 vừa qua có một người giết một con mèo bằng
cách cho nó vào máy giặt nóng 40°C. Người này bị đưa ra tòa và lảnh án 3 tháng
tù giam, 1.300 Âu kim tiền phạt và 10 năm không được nuôi súc vật trong nhà. Vậy
chúng ta sẽ nghĩ gì khi trông thấy nhan nhãn các quán "cầy tơ và tiểu hổ", tức
là các quán thịt chó và thịt mèo? Phải chăng đấy là cái đỉnh thấp nhất của trí
tuệ hay chăng?). Thế nhưng có được mấy ai cảm thấy xúc động khi biết
rằng trong cùng một ngày hôm ấy 500.000 con vật bị giết trong các lò sát sinh -
nhiều hôm riêng số heo bị giết cũng đã lên đến 1.000 con mỗi giờ - với các
phương tiện giết mổ thật vô cùng tàn nhẫn.
- Vậy có một phương pháp chăn nuôi súc
vật lấy thịt nào có thể gọi là mang tính cách đạo đức hay không?
- Nhất định là
có: một con bò mẹ cùng với bò con thong dong gặm cỏ trên một cánh đồng của vùng
Dordogne chẳng hạn (một vùng thuộc tây nam nước
Pháp, nơi có nhiều đồi và thung lũng), như thế có phải là một nghìn
lần nhân đạo hơn là nhốt riêng một con heo nái trong một chiếc chuồng làm bằng
thanh sắt để nó khỏi đè bẹp hai mươi lăm con heo con mới sinh? Đấy là cách phải
chăn nuôi gia súc để giết thịt, tương tự như nuôi các con vật yêu quý trong nhà
thế thôi (trong nguyên bản là "nuôi các con
Blanchette và Roussette để giết thịt". Blanchette và Roussette là các tên gọi
thông thường và dễ thương được dùng để đặt tên cho các con vật nuôi trong nhà
hay trong vườn để làm bạn với người: chẳng hạn như mèo, thỏ, gà, dê con... Sở dĩ
nêu lên các chi tiết này là để cho thấy cách viết và diễn đạt của nhà sư
Matthieu Ricard đôi khi rất ý nhị, tình cảm và rất khó dịch. Ngoài ra câu trả
lời trên đây của ông cũng thật khéo léo và kín đáo: có thể chăn nuôi súc vật để
lấy thịt nhưng vẫn phải kính trọng sự tự do và tình mẫu tử của chúng, và nhất là
phải yêu thương chúng như những con vật làm bạn với mình trong nhà. Thế nhưng
khi đã yêu thương chúng và gọi chúng bằng những cái tên thật dễ thương thì làm
thế nào lại có thể giết mổ chúng để ăn?).
- Thế nhưng người ta vẫn có thể chống lại quan điểm ấy khi cho rằng
các công cuộc vận động nhằm bảo vệ nhân quyền mang tính cách khẩn thiết hơn?
- Những kẻ nêu lên luận cứ ấy thường không hề tỏ ra tích cực trong
việc bảo vệ con người cũng như súc vật! Hiện nay tôi đang tham gia vào khoảng
140 dự án nhân đạo, thế nhưng việc chăm lo cho súc vật không hề làm cho tôi mất
thêm một giây phút nào (chỉ cần đơn giản ăn chay
cũng đã là cách yêu thương và chăm lo cho súc vật, nào có cần phải chạy ngược
chạy xuôi đâu). Quả hết sức lạ lùng mỗi khi nhìn vào lịch sử người ta
đều nhận thấy những người từng tranh đấu cho nhân quyền cũng là những người đã
đứng lên để bảo vệ súc vật. Chẳng phải Tolstoï
(1828-1910, đại văn hào người Nga), Shelley
(1987-, nữ diễn viên màn ảnh và hoa hậu trẻ của Mỹ năm
2004) và Théodore Monod là những người ăn chay và rất nhiệt tình với
lý tưởng bảo vệ súc vật hay sao? Lòng từ bi không có một biên giới nào cả! Nào
có ai ngăn cản được một người khi đã quyết tâm tự biến cải mình để trở thành một
con người tốt đâu, và cũng chẳng có ai dám bảo rằng sự quyết tâm ấy lại không
phải là một cách biểu lộ cao quý nhất của bản chất con người?
1 234
H.1- Léon Tolstoï: H.2- Shelley Hennig; H.3 Théodore Monod; H.4 Carl Lewis
Họ là những người ăn chay
Bures-Sur-Yvette, 31.10.14
Hoang Phong chuyển ngữ