Sám hối có giảiđược tội?: Xem xét một vài trường hợp trong Nikāya
sam hoi
"Ai
trước phóng dật, sau không phóng dật,
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây,
Ai làm ác nghiệp, nhờ thiện chận lại,
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây”.
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng
và phổ biến
trong Phật giáo. Sám hối là quán chiếu lại bản thân, xem mình đã phạm phải những
lỗi lầm gì
qua thân khẩu và ý, từ đó thể hiện tâm ăn năn hối cải, và nguyện không để những
hành vi sai trái
như vậy xảy
ra lại trong tương lai. Sám hối, cũng được cho là để “tỏ bày lỗi lầm của mình
trước Phật, Bồ-tát, Sư trưởng hay đại chúng với mục đích mong được diệt tội”.
Vậy sám hối có thật sự diệt được tội hay không? Và ai là người có thể “giải tội”
cho mình?
Có nhiều
quan điểm
khác nhau về vấn đề này. Nếu nói “Tội tùng tâm khởi tương tâm sám/ Tâm nhược
diệt thời tội diệc
vong”, thì tội có thể diệt
trừ
sau khi sám hối
và tâm được thanh tịnh.
Nhưng trong một số bản kinh thuộc hệ văn học Nikaya, sám hối chỉ có thể làm giảm
nhẹ tội đã tạo, mà tội đó khôngđược “diệt trừ” hoàn toàn, cho dù người phạm tội
đã sám hối, không chỉ bằng sự ăn năn, nhận tội, mà
bằng
cả sự
tu tập chuyển hóa
thân tâm của mình. Bài biết này xem xét
một vài
trường hợp được đề cập đến trong kinh tạng Pāli, qua đó có thể phần nào cho thấy
một vài khía cạnh của vấn đề này.
Trường hợp
Tỳ-kheo
Bhaddāli
Trường hợp của
Tỳ-kheo
Bhaddāli được đề cập trong Trung bộ, kinh Bhaddāli, bản kinh được đặt
theo tên của vị Tỳ-kheo
này.
Bản kinh này thuật lại
việc
Tỳ-kheoBhaddāli, cảm thấy ăn năn và hối tiếc, do không thể thực hiện được một
học giới mà Đức Phật đã chế định. Học giới ở đây là “ăn chỉ ngồi một lần”
(ekasanabhojana), mà nếu ăn như vậy sẽ “ít bệnh, ít não, nhẹ nhàng, có sức và
lạc trú”. Nhận thấy mình có lỗi, không thực hiện được học giới này,Tỳ-kheoBhaddāli
đã đến gặp Đức Phật để xin sám hối: “Bạch
Thế Tôn, một lỗi lầm đã chiếm đoạt con, thật là ngu ngốc, thật là si mê, thật là
bất thiện. Trong khi chúng Tỳ-kheo chấp hành học giới đã được Thế Tôn chế định,
con đã tuyên bố sự bất lực của con. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho con
lỗi lầm này là một lỗi lầm để có thể phòng hộ trong tương lai”.
Đức Thế Tôn sau những lời khiển trách Tỳ-kheo Bhaddāli vì đã không giữ được học
giới, đã nói rằng,
“Này
Bhaddāli, nếu
ông
sau khi thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như pháp phát lộ, chúng ta sẽ chấp
nhận cho
ông.
Vì rằng, này Bhaddāli, như vậy là sự lớn mạnh trong giới luật của bậc Thánh,
nghĩa là bất cứ ai, sau khi thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, phải như pháp phát
lộ và phòng hộ trong tương lai”.
Trong kinh Bhaddāli chúng ta thấy rằng, việc phát lồ sám hối diễn tiến
qua những bước tuần tự sau: thấy được lỗi lầm của mình, ăn năn về lỗi lầm đó,
sám hối lỗi lầm, và ngăn chặn lỗi ấy xảy ra lại trong tương lai.
Ở đây,
Tỳ-kheo Bhaddāli thấy mình có lỗi vì không thực hành trọn vẹn học giới được chế
định, sau đó được chư Tỳ-kheo khác khuyên bảo nên tư niệm về điều đó, thầy ăn
năn hối lỗi và tìm đến Đức Thế Tôn sám hối, Đức Phật chấp nhận sự sám hối đó và
khuyên bảo phải “phòng hộ trong tương lai”.
Bản kinh này không cho ta thấy việc sám hối có thể diệt trừ được tội đã phạm hay
không, hay nói cách khác khác là lỗi của một người có được miễn trừ sau khi sám
hối hay không, mặc dù bản kinh cho biết rằng, khi một người phạm tội nhưng né
tránh tội của mình, không chịu lắng nghe, lại thể hiện sự bất mãn, sân giận...
thì “chớ có giải tội ấy một cách mau chóng”. Còn một người phạm lỗi, nhưng nhận
lỗi, không thể hiện sự bất mãn hay sân hận đối với những người chỉ ra lỗi lầm
cho mình, thì “hãy giải tội ấy một cách mau chóng”.Tuy nhiên ở đây ta có thể
hiểu, “giải tội” ở trong ngữ cảnh này không có nghĩa là khiến cho tội đó được
diệt trừ, mà có nghĩa là chấp nhận sự sám hối của người phạm lỗi, cho người phạm
lỗi tiếp tục sống trong cộng đồng của mình, và lỗi mà vị ấy đã phạm sẽ không
được nhắc trở lại. Nhưng bản thân người phạm lỗi cũng sẽ không phạm phải lỗi này
nữa trong tương lai.
Một khía cạnh quan trọng
khác của việc “giải tội” ở trong
bản kinh này là
để
cho người phạm lỗi
có cơ hội “sửa sai” và để người này
không thui chột niềm tin, tức rằng để người này không đoạn diệt những phẩm tính
tốt còn lại nơi bản thân mà họ có thể phát triển.
Sự “giải tội” ở đây như vậy là thể hiện lòng từ bi của cá nhân hay cộng đồng mà
người phạm lỗi đối diện “phát lộ”.Ở
đây Đức Phật nói rằng“Nếu chúng ta thường hay kết tội Tỳ-kheo này, thời chút ít
lòng tin, chút ít lòng thương của vị ấy sẽ đi đến đoạn diệt. Vậy chúng ta hãy
đừng để cho chút ít lòng tin, chút ít lòng thương của vị ấy đoạn diệt". Và Ngài
đưa ra sự so sánh rằng giống như một người chỉ còn lại một mắt, những người thân
của vị ấy bảo vệ con mắt còn lại đó và nghĩ rằng không để cho con mắt còn lại
này bị huỷ diệt.
Nếu con mắt còn lại bị huỷ diệt đi, hẳn nhiên, người này sẽ trở thành một người
mù lòa,
không còn nhìn thấy thứ gì cả. Nếu để những thiện căn còn lại nơi một người
phạm lỗi
diệt mất, người này sẽ trở nên tăm tối, mất đi niềm tin vào việc có thể trở lại
sự thanh sạch và có thể thăng tiến trong lộ trình phát triển tâm linh.
Sự phát lồ sám hối trong kinh Bhaddālilại cho ta thấy thêm một điều khác
cũng rất mực quan trọng trong việc sám hối, rằng lỗi của một người cần được chỉ
cho biết, nhưng những người chỉ lỗi của người khác phải không phạm lỗi ấy,
và họ
chỉ ra lỗi lầm không phải vì sự ghét bỏ, mà với lòng từ bi mong muốn cứu giúp
người khác, giống như trường hợp người ta bảo vệ con mắt còn lại của một người
thân của họ, không để người ấy trở nên mù lòa.
Với những người chỉ lỗi như vậy, người phạm lỗi sẽ có sự tin tưởng hơn trong
việc nhận lỗi của mình, trong niềm tin rằng việc nhận lỗi sẽ không khiến họ bì
dìm xuống
sâu hơn
mà là cơ hội để họ có thể tiến bộ trong con đường tu tập.
Trong đạo hay trong đời sống xã hội nói chung, chẳng
mấy
ai dám nhận lỗi hay “tự phê” khi đối diện với họ là một hội chúng thiếu từ bi và
trí tuệ, muốn biết lỗi của người khác để rồi đi rêu rao và cũng có cớ làm hại
họ. Việc nhận lỗi ở đây không phải được thực hiện một cách bí mật giữa một người
với một người, mà được nói ra giữa nhiều người. Tuy nhiên cho dù việc nhẫn lỗi
được thực hiện trước nhiều người, lỗi lầm của người phạm cần giới hạn trong phạm
vi đó, tức là trong phạm vi của những người nghe người kia nhận lỗi,
và trong phạm vi một cộng đồng mà ở đó một lỗi lầm như vậy không được vi phạm.
Trường hợp Tôn giả Pukkusati
Trường hợp của Tôn giả Pukkusati được đề cập trong kinh Giới phân biệt
(Dhātuvibhanga sutta).
Vị Tôn giả này vì ngưỡng mộ Đức Phật và giáo pháp của Ngài nên đã từ bỏ gia
đình, sống đời du sĩ và thực hành theopháp Phật. Tuy vậy ông chưa hề một lần gặp
Phật và không thể hình dung Ngài là người như thế nào. Tình cờ một lần nọ, trong
một đêm ở tại trú xứ của vị thợ gốm tên là Bhaggava, Pukkusati đã gặp được Đức
Phật, nhưng vì không nhận ra Ngài nên vị này gọi Đức Phật là Hiền giả. Đức Phật
sau đó đã thuyết giảng cho Pukkusati. Khi nghe xong những gì được giảng dạy, Tôn
giả nhận ra rằng người đối diện với mình không ai khác mà chính là Đức Thế Tôn,
người mà ông đã “xuất gia và y cứ” và nhận làm Bậc Đạo sư. Khi ấy Tôn giả
Pukkusati nói rằng, do vì “si mê và không khéo léo” ông đã xưng hô với Thế Tôn
là Hiền giả, điều ông nghĩ là một lỗi lầm, và vì thế ông mong Thế Tôn nhận lỗi
lầm ấy như một lỗi lầm.
Khi ấy Đức Phật nói rằng “…nếu Ông thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như Pháp
phát lộ, thời Ta chấp nhận lỗi lầm ấy cho Ông. Vì rằng, này Tỳ-kheo, đây là sự
tăng ích trong giới luật của bậc Thánh, khi nào một ai thấy lỗi lầm là một lỗi
lầm, như Pháp phát lộ, để ngăn ngừa trong tương lai”.
Đoạn văn này là giống với đoạn văn ở trong kinh Bahaddāli,tuy rằng trường
hợp phạm lỗi của Pukkusati là khác với với Bhāddali. Trong khi một người phạm
lỗi vì không thể thực hiện theo học giới đã được Tăng chúng chấp nhận thực hiện,
còn một người phạm lỗi chỉ vì vô ý không nhận ra người đối diện với mình là ai.
Trong trường hợp của Pukkusati, ông phạm lỗi - nếu phải nói như thế - chỉ vì sự
nhầm lẫn; và việc nhận lỗi của ông có thể xem như một sự “xin lỗi” hơn là một sự
“sám hối”. Tuy nhiên, dù mức độ lỗi lầm như thế nào, việc nhận ra nó và sám hối,
đều có sự “tăng ích” trong cuộc sống cũng như trong tu tập. Và thêm nữa, ở trong
bản kinh này, Pukkusati phạm “lỗi lầm” với chính Đức Phật, và việc “nhận lỗi lầm
cho ông” có thể được xem như việc Ngài bỏ qua sự nhầm lẫn này.
Trường hợp Ajātasattu
Ajātasattu (A Xà Thế) được nhắc đến khá nhiều trong
kinh sách
Phật giáo. Việc ông cấu kết với Đề Bà Đạt Đa để làm những điều bất thiện, cũng
như việc ông giết hại cha của mình để soán ngôi đã trở thành những ví
dụ điển hình về mối liên hệ giữa lòng tham quyền lực và cái ác. Nhưng câu chuyện
về vua Ajātasattu cũng phản ánh một khía cạnh khác,
rằng
sự cải tà quy chánh, sự ăn năn hối lỗi có thể khiến người ta trở nên hiền thiện
hơn, và chính lòng ăn năn hối lỗi sẽ giúp người ta tiến bộ hơn trong đời sống xã
hội cũng như trong đường đạo.
Câu chuyện về Ajātasattu đến gặp Đức Phật và thể hiền lòng ăn năn vì đã giết cha
của mình để đoạt ngôi được đề cập trong kinh Sa-môn quả.
Tuy nhiên, nội dung chính của bản kinh này không phải dành riêng cho câu chuyện
này; câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Phật và Ajātasattu chỉ là “khuyên khởi”
cho một nội dung kinh quan trọng hơn, là nói vềcác
“quả” của những nhóm Sa-môn khác nhau.Việc Ajātasattu sám hối chỉ được đề cập
đến ở phần cuối của bản kinh. Và ở đây ta xem xét là việc nhận tội của nhà vua
có giúp vị vua
này
trừ diệt được
trọng
tội của mình hay không. Hay nói cách khác, việc sám hối tội lỗi do mình gây ra
có giúp vị vua này tránh khỏi nghiệp quả của mình hay không.
Trước hết, cũng như ở trong kinh Bhaddāli, việc sám hối bắt đầu từ việc
nhận ra lỗi của mình. Trong trường hợp của vua Ajātasattu, ông đã nhận thấy việc
sát hại cha của ông là một trọng tội. Khi ông thấy đó là một trọng tội được gây
nên bởi lòng tham
quyền lực
và vô minh, ông muốn thú nhận tội ấy. Và người mà ông tin tưởng và có thể đối
diện sám hối là Đức Phật. Đoạn kinh trình bày về việc nhận lỗi của vua
Ajātasattu như sau: “Bạch
Thế Tôn, con đã phạm một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện, con đã
hại mạng phụ vương con, một vị vua chơn chánh, để đạt vương quyền. Mong Thế Tôn
nhận cho con tội ấy là một tội để con ngăn chận về tương lai".
Và khi vua Ajātasattu ăn năn nhận lỗi, Đức Phật đã nói như sau: “Ðại
vương, thật là một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện, Ðại vương đã
hại mạng phụ vương, một vị vua chơn chánh, để đoạt vương quyền. Vì Ðại vương đã
thấy tội ấy là một tội, đã thú tội đúng với Chánh pháp, Ta nhận tội ấy cho Ðại
vương. Ðó là một sự tiến bộ, này Ðại vương, trong luật pháp của bậc Thánh, những
ai thấy tội là tội, thú tội đúng với Chánh pháp, và ngăn chận ở tương lai”.
Như vậy, sự nhận tội là một sự tiến bộ và tội ấy phải không được phạm lại ở
trong tương lai. Nhưng ở trong đoạn kinh này, Đức Phật “nhận tội” của vị vua
này, không có nghĩa rằng Ngài đã “xá” tội cho ông. Mà ở đây chỉ có nghĩa rằng,
Ngài chấp nhận sự sám hối đó và việc nhận lỗi và sám hối như vậy là phù hợp với
Chánh pháp, và sự nhận lỗi như vậy cũng sẽ góp phần giải toả tâm lý của người
phạm lỗi. Về mặt nhân quả, nhân của tội ấy không được diệt trừ hoàn toàn
sau khi sám hối và người gieo nhân phải gặt quả,
nhưng tất nhiên ở đây nhân quả không được trình bày
theo kiểu: trồng dưa hái dưa, gieo lúa gặt lúa;
ông đã giết cha để cướp ngôi thì con ông sẽthực hiện điều tương tự như vậy đối
với ông hoặc trong đời này hoặc trong kiếp sau. Mà nhân quả ở đây được diễn tả
qua việc, bởi do vì đã gây nên tội giết cha, cho dù đã ăn năn sám hối, nghiệp
nhân đó đã có những tác động
tiêu cực
đến việc phát triển trong đường đạo của ông. Điều này được trình bày qua đoạn
kinh: “Này
các Tỳ-kheo, tâm vua ấy rất ăn năn, này các Tỳ-kheo, tâm vua ấy rất hối lỗi. Nếu
vua ấy không hại mạng vua cha, một vị vua rất chân chánh, thì tại ngay chỗ ngồi
này, vua ấy đã chứng được pháp nhãn, không trần cấu, không ô uế”.
Như vậy, nếu Ajātasattu không phạm tội giết cha, thì khi nghe Đức Phật thuyết
giảng về các “Sa-môn quả” và với sự chân thành ngay nơi việc phát nguyện quy y
Tam bảo, ông đã “chứng được pháp nhãn”, nhưng do vì phạm tội giết cha, ông đã
không chứng đắc được điều ấy. Tuy nhiên,
trong kinh Sa-môn quả thuộc Trường A-hàm, sau khi Ajātasattu ra về, Đức
Phật
đã
nói với các Tỳ-kheo rằng: “Vua
A
Xà
Thế
này, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội. Nếu A Xà Thế không giết cha, thì ngay
tại chỗ này đã được con mắt thanh tịnh thấy pháp. Nhưng vua A Xà Thế nay đã hối
lỗi, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội”.
Như vậy kinh Sa-môn quảthuộc
Trường
A-hàm xác định rằng, vị vua này đã giảm bớt tội lỗi, đã nhổ trọng tội nhờ ăn năn
sám hối và quy y Tam bảo!
Trường hợp Angulimāla
Ở đây ta xét
thêm
một trường hợp khác để hiểu rõ hơn vấn đề này, trường hợp của Tôn giả
Angulimāla, được đề cập đến trong kinh Angulimāla,
dù rằng bản kinh này không đề cập trực tiếp đến việc Agulimāla nhận lỗi với Đức
Phật như những trường hợp ở trên.
Agulimāla trước đó là một tên cướp giết người khét tiếng, được cho là “bàn tay
vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với chúng sanh”. Nhưng sau
khi gặp và xuất gia theo Phật, ông đã tu tập tinh chuyên và chứng đắc Thánh quả.
Nhưng dầu chứng đắc Thánh quảA-la-hán, nghiệp nhân ông tạo trong đời hiện tại
cũng đã trổ thành quả. Tuy nhiên, nghiệp quả mà ông thọ nhận nhẹ hơn rất nhiều
so với nghiệp nhân ông đã tạo. Điều này xảy ra nhờ bởi sự sám hối chân thành của
ông, cũng như nhờsự tu tập chuyển hóa,
và chứng đắc Thánh quả
của ông.
Bản kinh này thuật rằng, trong một lần đi khất thực, Tôn giả Angulimāla bị “lỗ
đầu, chảy máu, bình bát bị bể, ngoại y bị rách” do một người nào đó vô tình ném
đất đá, gậy gộc vào
ông.
Và khi
ông
đến gặp Đức Phật để thuật lại sự việc, Đức Phật nói rằng: “Hãy kham nhẫn, này
Bà-la-môn! Hãy kham nhẫn, này Bà-la-môn! Ông đang gặt hái ngay trong hiện tại
quả báo của nghiệp mà đáng lẽ Ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều năm, nhiều
trăm năm, nhiều ngàn năm". Như vậy, nếu không sám hối, tu tập và chứng quả, vị
Tôn giả này sẽ phải đọa vào địa ngục trong một khoảng thời gian lâu dài, nhưng
nhờ sám hối và tu tập, tội nghiệp của ông được chuyển thành nhẹ hơn, và ông cũng
phải nhận lấy quả báo đó.
Nhưng ở đây cũng cần nói thêm rằng, nhân tố chính giúp cho Angulimāla giảm bớt
việc thọ nhận nghiệp quả không phải là việc “nhận tội” như một sự sám hối, mà
chính nhờ vào việc tu tập chuyển hóa của ông. Nhưng tuy nhiên, việc nhận ra tội
và sám hối lại chính là bước tiên khởi để ông bước vào Thánh đạo.