Bàn về báo hiếu
trong Lễ hội Vu lan
Thích Hạnh Chơn
Mỗi khi tháng bảy về, hầu hết người Việt
Nam và đặc biệt là Phật tử đều có tâm
trạng mong muốn thể hiện lòng hiếu kính của
mình đối với ông bà tổ tiên thông qua nghi lễ Phật
giáo. Lễ hội Vu lan từ lâu đã đi vào lòng người
Việt và trở thành lễ hội văn hóa báo hiếu lớn
nhất ở Việt Nam. Trải qua thời gian khá dài, lễ
hội dường như chỉ chú trọng vào sự báo
hiếu người đã khuất qua hình thức nghi lễ
cầu siêu. Kể từ khi lễ “Bông hồng cài áo” được tổ chức rộng
rãi, nội dung của lễ hội có sự chuyển biến.
Nếu như trước đây nội dung chỉ chú trọng
vào cầu siêu người quá cố thì nay nội dung không
chỉ dành cho người đã mất mà còn nhấn mạnh
đến báo hiếu cha mẹ hiện tiền. Sự chuyển
biến này rất tích cực và nó phù hợp với lời
dạy của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi lại trong tạng kinh
Pali. Bài viết này sẽ
đề cập đến sự tích hiếu thảo của
Tôn giả Mục Kiền
Liên và bàn về cách báo hiếu được ghi trong
hai bản kinh và sự áp dụng chúng trong lễ Vu lan ở Việt Nam.
Sự báo hiếu
của Tôn giả Mục Kiền
Liên và lễ Vu lan
Nếu ai có nghiên cứu Phật giáo thì
đều biết rằng lễ Vu lan là sự tiếp biến văn hóa bắt
nguồn từ Trung Quốc và dần phổ biến ở
một số nước theo Phật giáo Đại thừa, trong đó có
Việt Nam. Người ta không tìm thấy nguồn gốc lễ Vu lan trong các kinh Pali
và do đó cũng không có lễ này ở các nước theo
Phật giáo Nam truyền.
Tuy nhiên, trong tạng kinh chữ Hán bản kinh Vu lan bồn được
tìm thấy. Cho đến nay, chưa ai có thể nói chính xác
tác giả của bản kinh, ngoại trừ đều
đồng ý rằng do các Tổ phương tiện biên
soạn theo tinh thần Phật giáo tín ngưỡng. Về nội
dung, mặc dù lễ Vu
lan được giải thích có nhiều ý nghĩa
nhưng mục đích chủ yếu của nó là nhấn mạnh
đạo hiếu thông qua tấm gương hiếu thảo
của Đức Mục Kiền Liên được
ghi trong bản kinh này.
Theo kinh Vu
lan bồn, Tôn giả Mục Kiền Liên cứu được mẹ
phần lớn nhờ tha lực của chư Tăng. Bản kinh kể rằng
Tôn giả Mục Kiền
Liên dùng thần thông thấy mẹ bị đọa làm quỷ
đói. Ngài cố gắng tìm phẩm vật dâng cho mẹ
để bà ăn đỡ đói khát. Tuy nhiên, ngài không thể giúp mẹ
được vì tâm bỏn xẻn của bà quá lớn. Do
đó, ngài trở về
bạch Phật chỉ phương pháp cứu mẹ.
Đức Phật dạy (theo bản kinh này) là phải
cung thỉnh các Thánh
tăng khắp nơi vân tập lại một trú xứ
để dâng phẩm vật cúng dường. Nhờ sự
cúng dường và nhờ thần lực chú nguyện của
chư Tăng mà cha mẹ
ông bà bảy đời được siêu thoát, cha mẹ
và bà con hiện tiền cũng tăng phước báu.
Đức Mục Kiền Liên tuân theo lời dạy trên nên
cứu được mẹ và từ đó pháp báo hiếu
ấy được truyền bá cho hàng Phật tử hành
trì.
Tuy nhiên, Đức Mục Kiền Liên là một nhân vật
lịch sử sống trong nền văn hóa hiếu thảo
hiện tiền. Theo lịch sử,
ngài thuộc dòng Bà-la-môn. Cha mẹ ngài
đều thuộc dòng dõi Bà-la-môn giàu có và danh giá. Nguồn sử liệu Pali
không đề cập đến sự kiện mẹ của
ngài mất và tái sinh làm
quỷ đói và được Ngài cứu độ. Chúng
ta nên chú ý rằng nền văn hóa Ấn Độ nhấn
mạnh sự báo hiếu hiện tiền hơn là sau khi mất
như văn hóa Trung Quốc. Chính Đức Phật báo hiếu
cha bằng cách thuyết pháp cho ông trước khi ông mất
nhằm giúp ông chuyển hóa tâm thức để được
tái sanh cảnh an lành theo nghiệp thức (có thuyết nói
ông chứng quả A-la-hán trước khi qua đời). Với
mẹ, người ta cho rằng Đức Phật đã
lên cung trời Đao Lợi để thuyết pháp cho bà.
Có lẽ, đây thuộc về niềm tin hơn là thực
tế. Sống trong môi trường với văn hóa chủ
trương báo hiếu phải thực hiện ngay hiện
đời và học tập tấm gương báo hiếu
của Đức Phật, Mục Kiền Liên không thể
chờ cha mẹ mất mới báo hiếu và trong trường
hợp họ đã qua đời ngài cũng đủ thần lực và trí tuệ để
thuyết phục cha mẹ chuyển nghiệp?.
Từ một nhân vật lịch sử,
Đức Mục Kiền
Liên được thổi thêm vào những yếu tố
siêu nhiên và do đó sự hiếu thảo của ngài cũng mang đậm
tính siêu hình. Mục Kiền Liên là một trong mười
đệ tử lớn của Đức Phật và
được phong cho là người có thần thông bậc
nhất trong hàng đệ tử Phật. Với khả
năng đặc biệt này, việc dàn dựng cảnh ngài tìm mẹ đang ở
đâu là một kịch bản logic (thật ra các vị
A-la-hán có thể làm được điều này bằng
cách nhập định quán chiếu – thiên nhãn thông). Tuy nhiên, điểm
đáng chú ý ở đây là thần thông của Mục Kiền
Liên không bị cường điệu hóa như là thần
thánh hay thượng đế có khả năng chuyển
hóa nghiệp lực của người khác dù đó là cha mẹ.
Điều đó cho thấy giáo lý nghiệp của đạo
Phật được các nhà hoằng pháp tuân thủ đúng
theo nguyên lý của nó. Nhưng vấn đề làm người
ta thất vọng là một người chứng đắc
thần thông như thế lại không đủ khả
năng giúp một người thân chuyển hóa nghiệp thức
của họ mà phải nhờ đến một Tăng đoàn gồm cả
Đức Phật và Thánh
tăng mới độ được một người.
Sự kiện này có vẻ mâu thuẩn với những lời
dạy của Đức Phật và chính bản thân Ngài.
Theo đạo Phật, nghiệp luôn hoạt
động theo nguyên lý của nó. Nghiệp của ai thì
người đó phải chuyển hóa chứ không thể
được chuyển hóa bởi người khác, ngoại
trừ sự trợ giúp. Ví như việc học thì tự
mỗi người phải học lấy chứ không thể
nhờ người khác học thay. Dù sự trợ duyên rất
quan trọng nhưng quan trọng hơn vẫn là chủ
nhân của nghiệp. Sự thăng trầm của một
con người đều do chủ nhân của nó quyết
định chứ không phải Thượng đế. Liên hệ đến
trường hợp mẹ của Mục Kiền Liên, giả
sử bà bị đọa vào cảnh quỷ đói thì
để siêu thoát cảnh ấy chính bà phải chuyển
hóa tâm thức của mình. Chuyển hóa tâm tức là biểu
hiện của sự giác ngộ tỉnh thức của
tâm khi vị ấy nhận ra nghiệp thiện ác và có chiều
hướng theo đường thiện. Việc trợ
duyên để chuyển hóa tâm thức một người
có lẽ không cần đến quá nhiều Thánh tăng mà thông thường
chỉ cần một vị đạo sư hữu duyên.
Không lẽ Phật không biết ai hữu duyên trong trường
hợp này. Do đó, sự kiện cần một Tăng đoàn để
độ một chúng sanh ngạ quỷ có thể chấp
nhận được nếu ta đặt nó trong bối
cảnh đặc biệt nào đó với dụng ý khuyến
khích tín đồ cung dưỡng để duy trì Tăng đoàn nói riêng và Phật
giáo nói chung.
Qua hình ảnh Mục Kiền Liên lịch
sử và Mục Kiền Liên trong kinh Vu lan, chúng ta nhận thấy có sự khác biệt
rất lớn. Mục Kiền Liên lịch sử là một
A-la-hán có thần thông bậc nhất nhưng vẫn là
đệ tử thứ hai sau ngài Xá Lợi Phất. Kinh điển thuộc tạng
Pali không đề cập đến sự báo hiếu của
ngài nên ta không biết
Ngài đã độ cha mẹ thế nào. Trong khi đó, Mục
Kiền Liên trong kinh Vu lan
được tôn kính là một vị Bồ-tát hiếu thảo và được
tín chúng biết đến nhiều hơn là ngài Xá Lợi Phất. Đáng tiếc, sự hiếu
thảo của ngài lại
bị giới hạn trong cách thức thụ động. Nghĩa
là, ngài phải cần
tha lực cầu nguyện của Thánh chúng để độ mẹ thay vì chính bản
thân ngài hướng
đạo cho mẹ. Có người hỏi rằng, người
khất sĩ lúc bấy
giờ chỉ có ba y và bình bát thì làm sao có thể sắm sanh
phẩm vật để cúng dường cho Tăng đoàn? Nếu không cúng
dường thì làm sao mẹ siêu thoát và nếu nhờ
người khác cúng thì phước đâu thuộc về ngài. Hơn nữa, tư
tưởng nhờ tha lực cầu nguyện cũng mâu
thuẩn với tư tưởng “nhất nhân thành đạo cửu huyền thăng” vốn xuất phát
và thịnh hành ở Trung Quốc. Phải chăng Mục
Kiền Liên được nói trong kinh Vu lan là một Bồ-tát hóa thân và là biểu tượng để kinh nhắm
đến đối tượng chính là người
cư sĩ? Người cư sĩ bố thí cúng dường
là hợp lời Phật dạy. Phật giáo Trung Quốc
đã xây dựng nhiều hình tượng Bồ-tát thì
việc xây dựng hình tượng Bồ-tát Mục Kiền Liên cũng là
điều bình thường.
Báo hiếu theo hai bản kinh và sự
áp dụng chúng trong lễ
Vu lan ở Việt Nam
Vào mùa Vu lan, hai bản kinh được
chọn trì tụng thường xuyên là kinh Vu lan bồn (1) và kinh Báo đáp công ơn
cha mẹ (2). Qua hai bản kinh, chúng
ta học được một số phương pháp báo
hiếu. Nếu bản kinh một chỉ nhấn mạnh
đến lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên
thông qua việc tìm mẹ thì bản kinh thứ hai kể rất
chi tiết những nỗi khổ của người mẹ
và các hành vi bất hiếu của những người con.
Tuy vậy, cả hai bản kinh đều có điểm
chung là nhấn mạnh phương pháp báo hiếu bằng
cách cúng dường Tam
bảo hay cụ thể là cúng dường chư Tăng. Ngoài phương
pháp này, bản kinh thứ hai còn nêu thêm một số điều
cần thiết để bổ sung cho việc báo hiếu
bao gồm phải truyền bá kinh điển, ăn năn
tội lỗi đã làm, tu phước, và đặc biệt
là quy y Tam bảo và giữ
gìn năm giới.
Từ bản kinh thứ hai, chúng ta có thể
rút ra hai hình thức báo hiếu. Thứ nhất là tạo
phước bằng cách cúng dường Tam bảo, tụng kinh, truyền
bá kinh điển và làm các công đức khác. Thứ hai là
quy y Tam bảo, giữ
gìn các giới đã thọ. Một người con có đạo
đức (quy y và giữ giới) và có lòng từ bi thể
hiện qua việc tu phước chắc chắn là một
người con hiếu thảo xét về phương diện
cá nhân tự lập. Người con không làm cha mẹ lo âu,
buồn phiền còn đem lại niềm vui cho cha mẹ từ
danh thơm tiếng tốt của mình thì rõ ràng đã báo hiếu
phần nào. Hơn nữa, trong xã hội có nhiều đứa
con hư đốn, gây khổ đau cho cha mẹ thì những
đứa con biết tự lo và làm an lòng cha mẹ quả
là rất quý. Nếu người con còn biết tụng
kinh, tạo phước rồi cầu nguyện cho cha mẹ
thì người ấy đáng được tán
dương hơn. Rõ ràng, các cách báo hiếu vừa nêu là
tích cực nhưng đó chỉ là cách gián tiếp và chủ
yếu nhấn mạnh hiếu kính đối với
người đã khuất. Cách báo hiếu trực tiếp
đối với cha mẹ hiện tại được
dạy trong tạng kinh Pali chưa được đề
cập.
Do ảnh hưởng của hai bản
kinh trên nên các hoạt động và nghi thức báo biếu
trong Lễ Vu lan chủ yếu là cầu nguyện. Nhà chùa
chú trọng phục vụ nhu cầu cầu siêu “cửu huyền
thất tổ” và chẩn thí cô hồn thông qua các nghi thức
cúng bái. Các hoạt động nhấn mạnh báo hiếu
cha mẹ hiện tại ít được đề cập.
Về phía tín đồ, đa phần đến chùa tụng
kinh, cúng dường, tạo phước nhằm cầu
siêu cho ông bà cha mẹ đã khuất như kinh đã ghi. Cầu
nguyện và trông chờ sự mầu nhiệm từ Tam bảo, và từ thần
lực chú nguyện của chư Tăng trở thành tâm điểm trong lễ hội.
Dĩ nhiên, sự cầu nguyện dựa trên tinh thần
nhân quả là tích cực nhưng nó chưa phản ảnh
được giá trị cốt lỗi lời dạy của
Đức Phật.
Đến khoảng thập niên 60 trở
đi, sau khi nghi thức “Bông
hồng cài áo” được giới thiệu nội dung của
lễ Vu lan có bước
tiến rất tích cực. Bên cạnh việc thực hiện
các nghi lễ cầu nguyện cho người đã khuất,
việc báo hiếu cho cha mẹ hiện tiền bằng những
hành động cụ thể được nhấn mạnh.
Hình ảnh bông hồng như là một biểu tượng
về sự còn hay mất của mẹ. Nhận một
bông hồng và đeo trên áo, người con ý thức rằng
ta còn mẹ, còn cha để được vui sướng
và hạnh phúc; hay là ta biết rằng mẹ đã đi rồi
và ta cần làm gì đây! Cảm nhận được niềm
vui sướng khi còn có cha mẹ là nền tảng để
người con thể hiện hiếu kính và hiếu dưỡng
ngay hiện tại. Cho nên, trong buổi lễ Vu lan, ngoài việc giải
thích ý nghĩa lễ cài bông hồng chư Tăng Ni thường nhắc lại công sanh thành dưỡng
dục của cha mẹ và giảng giải phương
cách báo hiếu theo tinh thần Phật giáo.
Báo hiếu cha mẹ trong hiện tại
được Đức Phật dạy trong nhiều bài
kinh với cách thức cụ thể. Kinh Giáo thọ Thi La Ca Việt
(Singalovada) liệt kê năm bổn phận của người
con trong đó điều đầu tiên là nuôi dưỡng
cha mẹ. Trong kinh Tăng chi,
chương Năm
pháp, phẩm Triền
cái, Đức Phật
dạy người con phải cung kính, tôn trọng, cúng
dường cha mẹ với những lễ phẩm tạo
ra bằng sự nỗ lực hợp pháp. Kinh Tăng chi cũng ghi: “Muốn trả ơn cha mẹ
đầy đủ thì người con phải khuyến
khích hướng dẫn họ an trú vào lòng tin nếu họ
chưa có lòng tin; an trú vào thiện giới nếu họ tin
theo ác giới; an trú vào bố thí nếu họ xan tham; và an
trú vào trí tuệ nếu họ theo ác tuệ (chương 2,
phẩm tâm thăng bằng). Kinh Phước
đức (Điềm lành) còn nhấn
mạnh thêm rằng: “Được
cung phụng cha mẹ… là
phước đức lớn nhất”. Tất cả
những lời dạy vừa nêu đều nhấn mạnh
sự hiếu thảo phải được thể hiện
trực tiếp và ngay hiện tại chứ không đợi
chờ đến khi cha mẹ khuất bóng.
Lời kết
Báo hiếu là bổn phận, trách nhiệm,
và cũng là pháp thực hành nên nó đã trở thành đạo
hiếu. Tuy nhiên, hiếu thảo là một đề tài gây
nhiều tranh cãi bởi quan niệm về nó không đồng
nhất trong các nền văn hóa khác nhau. Có nơi chú trọng
báo hiếu lúc cha mẹ hiện tại, có nơi chú trọng
lúc qua đời và có nơi thì chú trọng cả hai. Báo hiếu
theo hai bản kinh vừa nêu nhấn mạnh đến
người khuất hơn người đang sống. Do
đó, suốt một thời
gian dài ở Việt Nam lễ
Vu lan được tổ chức theo quan niệm này. May
thay, nội dung và hình thức của lễ hội đã
được bổ sung và điều chỉnh phù hợp
trong thời gian gần đây. Phương pháp báo hiếu
cha mẹ hiện tiền được Đức Phật
dạy trong kinh tạng Pali được giới thiệu
vào trong lễ hội nên nó mang đầy đủ ý
nghĩa hơn. Hy vọng, lễ Vu lan sẽ bớt dần tư tưởng
nặng về Nho giáo, từng bước cân bằng quan niệm
báo hiếu của hai nền văn hóa (Nho giáo và Phật
giáo) và hướng đến cách báo hiếu gần với
giáo lý căn bản của Phật giáo hơn.