Chu Minh Khôi
Phật giáo trên thế
giới xuất hiện rất nhiều vị thần chuyên bảo vệ cõi Phật, ngăn không cho ma quỷ
xâm phạm tới đất chùa như: Thiện Thần, chư Thiên, Thần Kim Cang, Tứ Thiên vương,
Thủ hộ Già lam… Nhưng hệ thống tượng
Pháp trong chùa ở miền Bắc Việt Nam chỉ phổ biến hai loại tượng hộ trì Phật pháp
là Bát bộ Kim cương và Nhị vị Hộ pháp. Các tượng này xuất hiện làm nhiệm vụ hộ
Pháp ở hai thời kỳ khác nhau, có hình thái nghệ thuật riêng biệt so với nghệ
thuật tạo tượng ở mọi quốc gia khác.
Kim Cương bảo vệ Phật pháp
Tượng Phật có niên
đại sớm nhất hiện còn lưu giữ được ở Bắc Bộ là 12 pho tượng đá đã xác định được
niên đại thời Lý, gồm 5 pho A Di Đà và 7 pho tượng Kim Cương bảo vệ Phật pháp
khai quật ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh) và chùa Long Đọi (Hà Nam). Tượng Kim Cương
chùa Phật Tích được các nhà khảo cổ học phát hiện khi khai quật khuôn viên chùa
này vào những năm 1949-1951, và đã đưa về trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử quốc
gia đã hơn 60 năm qua. Pho tượng không còn nguyên vẹn, đã bị mất đầu và chân,
được tác tạo trong tư thế đứng, khoác áo long cổn, hai tay để trước ngực. Khai
quật chùa Long Đọi (tức Diện Linh tự) ở Hà Nam, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy 6
pho tượng Kim Cương, hầu hết đều đã bị mất nhiều bộ phận đầu, tay, chân. Trong
đó một pho còn nguyên vẹn nhất, cao 1,57m, cách thức tạo tác có nhiều nét giống
với tượng Kim Cương của chùa Phật Tích, trong tư thế đứng, mặc võ phục.
Nghiên cứu hệ tượng
trong các ngôi chùa cổ Bắc Bộ xây dựng từ thời Trần trở về trước, không thấy sự
hiện diện của hai pho tượng Hộ pháp (Trừng Ác và Khuyến Thiện) to lớn như các
thời đại sau này, nhưng lại thấy nhiều tư liệu đề cập đến các vị Kim Cương làm
nhiệm vụ “hộ pháp” trong chùa. Diên Linh tự tọa lạc trên núi Đọi Sơn thuộc huyện
Duy Tiên, Hà Nam, do vua Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ
năm 1054 (tể tướng Dương Đại Gia và thiền
sư Đàm Cứu Chỉ được mời đến trụ trì và tham gia xây dựng). Đến đời Lý Nhân Tông,
nhà vua này tiếp tục xây dựng phát triển và xây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm
1118 đến năm 1121. Tuy nhiên tháp và chùa bị phá hủy từ cách đây gần 600 năm,
ngày nay chỉ còn sót lại tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, nội dung chủ yếu ca ngợi
công lao tài trí của Lý Nhân Tông trong việc xây dựng, kiến thiết và đánh giặc
giữ nước và việc xây dựng tháp Sùng Thiện Diên Linh. Hình ảnh của ngôi bảo tháp được mô tả khá chi tiết: “ Lấy đá Mân làm đấu, dùng đá Vũ
dựng hiên. Xây 13 tầng chọc trời, mở 40 cửa hóng gió. Vách trạm ổ rồng; xà treo
chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá-lỵ toả tường
quang cho đời thịnh sau này, đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc
dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô, đứng hộ vệ có thần
nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa Bảo Như Lai; sức thề nguyền sâu rộng,
đành hiến cả thân mình”. Nội dung văn bia đã cho thấy trong Phật thời Lý, hộ vệ
xung quanh tượng Đa Bảo Như Lai có 8 vị thần hộ pháp cầm kiếm đứng ở tám hướng.
Hệ tượng trong chùa
ở Bắc Bộ thời Lê - Mạc phổ biến Bộ tượng Bát bộ Kim Cương. Các tượng này không
bài trí ở Tiền Đường mà gần bàn thờ Phật vì đây là các vị thần linh có trách
nhiệm bảo vệ Phật. Các tượng đều mặc áo giáp trụ, mũ kim khôi, đi hia, cầm binh
khí song dáng đứng theo các thế tấn, thế tay khác nhau thể hiện tinh thần dũng
mãnh và cương quyết. Trong tám vị thì ba vị tô mặt trắng nét mặt nhân hậu, năm
vị tô mặt đỏ dữ tợn, để kết hợp hai chức năng "khuyến thiện" và "trừng ác" của
thần linh. Ở chùa Việt Bắc Bộ, tượng Kim Cương hộ pháp luôn thể hiện dưới hình
dạng võ tướng, có lẽ để thể hiện tinh thần dũng mãnh hay ẩn chứa lòng tôn kính
các vị anh hùng dân tộc. Bộ tượng này ở chùa Tây Phương (Hà Nội) khá mực thước,
cách thể hiện khéo léo, dáng hoạt, tư thế sinh động; bộ tượng ở chùa Mía (Hà Nội)
lại có vẻ dân gian, khuôn mặt giống người thực, có cảm xúc… Ở chùa Dâu (Bắc Ninh),
hai bên tường của tiền đường có hai hàng tượng Bát bộ
Kim Cương, mỗi bên 4 pho với nghệ thuật tạo tác tinh xảo giống như tượng
Hộ
pháp, mặc võ phục trong tư thế
đứng.
Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: “Kim cương
biểu hiện cho tâm trong sáng, không hủy hoại, kiên định trong tu hành hay hộ trì
Phật pháp nên gọi là Kim Cương Hộ pháp, y phục này là áo nhẫn nhục hay còn gọi
là áo tùy hình chống lại ba mũi tên độc tham, sân, si (tham lam, nóng giận và
ngu tối)”. GS Hà Văn Tấn trong cuốn sách “Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam” cho
hay, văn bia chùa Diên Phúc thôn Cổ Việt cũng nói tới 8 vị Kim Cương đặt trong
hai dãy hành lang. Trên một ngọn núi ở Hoa Lư có dấu tích của một ngôi chùa cổ
mang tên Kim Cương. Chúng ta không thể biết trong chùa có thờ tượng Kim Cương
hay không nhưng rõ ràng tên gọi Kim Cương tự đã có từ rất sớm. Vì vậy, việc thờ
tượng Kim Cương có thể đã xuất hiện ở trong chùa nước ta từ trước thời nhà Đinh.
Kim Cương (Sanskrit: Vajrapāṇi) là vị Bồ-tát có công bảo vệ Phật. Theo kinh Phóng quang Bát-nhã
và kinh Đạo hạnh
Bát-nhã, thì bất cứ ai tu thiền thành Bồ-tát trên đường thành Phật
sẽ được thần Kim Cương gìn giữ bảo vệ.
Chứng dẫn từ các kinh
Phật, bộ Phật học Đại tự điển
đề cập đến 8 vị Kim Cương hộ trì Phật Pháp, là các vị
Hộ
pháp hóa thân mà thành. Đó là:
Kim Cương Thủ Bồ-tát hiện ra thành vị Giáng Tam Thế Kim
Cương, Đại Cát Tường Bồ-tát hiện ra thành vị Đại Uy Đức Kim
Cương, Hư Không Tạng Bồ-tát hiện ra thành vị Đại Tiếu Kim Cương, Từ Thị Bồ-tát
hiện ra thành vị Đại Luân Kim Cương, Quán Tự Tại Bồ-tát hiện ra thành vị Mã Đầu
Kim Cương, Địa Tạng Bồ-tát hiện ra thành vị Vô Năng Thắng Kim Cương, Hàng Nhất
Thiết Cái Chướng Bồ-tát hiện ra thành vị Bất Động Kim Cương, Phổ Hiền Bồ-tát
hiện ra thành vị Bộ Trích Kim Cương. Vì là hiện thân Bồ-tát nên các vị Kim Cương
ở trong
các kinh được mô tả không cầm binh khí, mà mang kim
cương chử.
Thế nhưng, Bát bộ
Kim Cương trong chùa Việt được
tạo tác không giống như kinh Phật đề cập. Đặc điểm nhận thấy của tất cả các
tượng Kim Cương ở các chùa Việt còn thấy đến nay như tượng Kim Cương ở chùa Mía,
chùa Tây Phương, chùa Dâu... là không một vị nào cầm kim cương chử, mà cầm các
binh khí khác như gươm, chùy, việt phủ... Danh hiệu của các vị Kim Cương trong chùa
Việt ở Bắc Bộ cũng rất khác. Tám vị thần có tên riêng là: Thanh Trừ Tai, Tích
Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền
Thần, Đại Thần Lực. Trong Mật tông - Kim Cương thừa, Hộ pháp là hóa thân
của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm
trong hình tướng của vị Đại lực sỹ. Mật tông là tông phái
phát triển ở Tây Tạng, có ảnh hưởng sâu đậm đến Phật giáo Việt Nam đã nghìn năm
nay. Tông phái này trên các bức thang-ka
thường xuất hiện hình ảnh Kim Cương, thế nhưng trong chùa cổ Bắc Bộ không thấy
có tượng Kim Cương nào theo phong cách Ấn Tạng.
Khuyến Thiện và Trừng Ác
Ngày nay hầu như mọi
ngôi chùa ở miền Bắc đều có 2 vị Hộ pháp được bài trí ở Tiền Đường, gọi
là tượng: Khuyến Thiện và Trừng Ác. Tượng Hộ pháp thường có niên đại từ thế kỷ
XVI trở về sau. Tượng với thân hình vô cùng to lớn, trang phục như võ
tướng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, thân thể vạm vỡ, ngồi trên sư tử, có sẵn khí
giới để bảo vệ đạo pháp. Tượng Khuyến Thiện, dân gian vẫn gọi là "ông Thiện"
thường tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, đặt
bên tay trái
bàn thờ Phật (từ trong nhìn ra), tay cầm viên ngọc thiện tâm, là báu vật
của Phật tử, khích lệ mọi người noi theo. Tượng Trừng Ác, dân gian quen gọi “ông
Ác” thì tô mặt đỏ, đặt bên tay phải bàn thờ Phật; nét mặt thần giận dữ, lăm lăm
vũ khí để trừng trị kẻ ác tâm như răn đe mọi người lánh xa con đường dẫn đến sa
ngã.
Theo Phật thoại Ấn
Độ, xưa kia nước Ca-bỉ-na có hai anh em hoàng tử tính cách trái
ngược nhau. Ông em là Ma Pha La tính rất độc
ác, ham chơi, tham của. Trong khi ông anh là La Đắc lại rất hiền lành, luôn
thương xót chúng sinh, đem hết ngân khố phát chẩn đến nỗi kho tàng rỗng tuếch,
công quỹ quốc gia khánh kiệt. Khi vua cha biết, không nỡ trách mắng mà chỉ bảo:
“Muốn nước hưng thịnh, các con hãy xuống Long cung xin ngọc Ma-ni bảo châu, ước gì được nấy”. Nghe lời vua
cha, La Đắc ra biển, tìm xuống Long cung, xin được ngọc lên bờ. Ông em là Ma
Pha La nổi tính tham, đóng giả cướp, đâm
anh mù mắt, đoạt ngọc đem về dâng vua. Nhưng từ đó Ma-ni bảo
Châu trở thành một hòn đá bình
thường, không tỏa hào quang, mất hết phép màu. Mù mắt, La Đắc lần mò dọc theo bờ
biển tới nước Ba-la-lật xin trong
coi vườn thượng uyển. Vốn thương muôn loài, La Đắc để cho chim thú tha hồ ăn quả
trong vườn cấm. Chuyện tới tai vua, vua đòi La Đắc lên xử tội. Trước lúc bị hành
hình, La Đắc đã kể lại cuộc đời mình. Vua nghi ngờ, hỏi: “Ngươi lấy gì để làm
bằng?” La Đắc tự tin thưa: “Nếu đúng, mắt tôi sẽ sáng lại”. Dứt lời, hai mắt La
Đắc bừng sáng, cùng lúc ấy, ở nước Ca-bỉ-na ngọc Ma-ni cũng
rực rỡ sắc màu. Sau đó La Đắc về nước, tha tội cho em, cả hai tu thành chính quả, được cưỡi sư tử - con vật tượng
trưng cho trí tuệ và sức mạnh, mặc áo lộc thù ngăn mọi sân, si,
ái ố. Hai ông được tạc tượng thờ ở trong chùa, chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ
Phật pháp.
Các pho tượng Hộ
pháp trong chùa ở Bắc Bộ bao giờ cũng có kích thước lớn tới 3-4 m, đầu cao chạm
nóc nhà. Những pho tượng Hộ pháp đẹp phải kể đến
ở trong các ngôi cổ tự: chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Keo, chùa Thầy,
chùa Mía… Chùa Mía ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có tượng Khuyến Thiện và Trừng
Ác, cao 1,7 m đến 3m với những họa tiết trang trí mũ áo, vũ khí, tinh xảo, dáng
vẻ oai phong. Bộ tượng Hộ pháp bằng đất được coi là đẹp nhất là tượng ở chùa Bút
Tháp. Nhưng kỷ lục về độ lớn của tượng Hộ pháp là hai pho ở chùa Thầy, với chiều
cao đến gần 4m, lượng đất ước lượng vài tấn, bộ tượng này được đắp cách đây
khoảng 400 năm. Tượng làm bằng đất nếu gặp mưa gió, bão lụt thì sẽ hỏng, do đó
tượng Hộ pháp đắp bằng
đất bắt buộc phải để trong chùa, sát vách tường để được che chắn. Nhờ
vậy, có những pho tượng đã tồn tại hơn 400 năm mà vẫn đẹp.
Nếu như phần lớn
tượng trong các ngôi chùa cổ được tác tạo bằng chất liệu gỗ, thì hầu hết tượng
Hộ pháp được làm từ chất liệu đất. Nguyên do, nếu sử dụng gỗ cần phải loại gỗ có
đường kính 2-3 m, rất khó tìm. Vì vậy, sử dụng đất sét để đắp tượng Hộ pháp là
giải pháp tối ưu, thích đắp tượng lớn cỡ nào cũng được, chứ không bị hạn chế bởi
chiều cao và đường kính lớn, khối lớn của nguyên liệu như tượng gỗ, tượng đá.
Tượng Hộ pháp thường được đắp bằng đất sét, trộn với giấy bản giã nhỏ, mật mía,
vôi. Khung cốt tượng được làm bằng tre, đan kĩ, sau khi đắp xong được sơn kỹ ra bên ngoài bằng sơn ta.
Việc bày đối xứng
hai tượng Hộ pháp to lớn ở
hai bên tiền đường chùa nhằm
tạo ấn tượng mạnh tới bất cứ ai khi vào chùa, thể hiện oai lực thần nghi hộ trì
Tam bảo. Đồng thời, những nghệ nhân dân gian xưa cũng
nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác trong tính
cách của con người. Đây là hình thức giáo dục sâu sắc, nhằm nhắc nhở con người
nên ăn hiền ở lành, không nên có ác tâm, làm người khác đau khổ; làm lành thì được các vị Thiện Thần ủng
hộ, làm ác thì bị các vị Ác Thần trừng phạt, khiển trách.