Sự giàu có của người keo kiệt

Hoang Phong

Trong Samyutta Nikaya (Kinh Tương Ưng Bộ) c� một bản kinh t�n l� Aputtaka-sutta, đ�nh số SN,III, 19, c� nội dung được dịch như sau:

Chuyện xảy ra ở th�nh Savatthi (X�-vệ). Bấy giờ, vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) xứ Kosala (Kiều-t�t-la) đến viếng Đức Phật v�o giữa trưa, khi đến, vua cung k�nh ch�o Thế T�n rồi ngồi xuống một b�n. Khi vua vừa ngồi xuống, Đức Phật hỏi: �N�y đại vương, ng�i đi đ�u m� đến đ�y v�o giữa trưa thế?�.

Bạch Thế T�n, mới rồi, một gia chủ gi�u c� ở th�nh Savatthi n�y qua đời m� kh�ng c� con thừa kế. Con vừa cho chuyển t�i sản của �ng ta v�o kho của ho�ng cung; những t�m triệu đồng tiền bằng v�ng chưa kể số tiền bằng bạc. Mặc d� l� một gia chủ gi�u c�, thế nhưng bữa ăn hằng ng�y của �ng ta th� chỉ l� ch�o nấu bằng gạo n�t với b�nh l�m bằng đậu kh�; y phục vỏn vẹn chỉ c� ba mảnh vải dệt bằng sợi gai; phương tiện di chuyển l� chiếc xe b� g�y gọng n�c lợp bằng rơm�.

�Đ�ng l� như vậy, n�y đại vương, đ�ng l� như vậy. Khi một kẻ thiếu rộng lượng c� được t�i sản lớn, y kh�ng biết ti�u x�i để mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho ch�nh m�nh, kh�ng biết mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho cha mẹ, kh�ng biết mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho gia đ�nh, kh�ng biết mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho người hầu, t�i tớ, người l�m c�ng, kh�ng biết mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho bạn b�, người cộng sự; đối với c�c người tu h�nh th� y cũng kh�ng c�ng dường hầu mang lại kết quả tốt l�nh để được t�i sinh nơi thi�n giới. Nếu t�i sản kh�ng được sử dụng đ�ng c�ch, th� rồi cũng sẽ bị vua quan tước đoạt, hoặc bị trộm cắp, hoặc hỏa hoạn thi�u hủy, hoặc bị nước cuốn mất, hoặc rơi v�o tay những kẻ thừa kế xấu xa. Vậy, t�i sản của y nếu kh�ng được đem ra sử dụng đ�ng c�ch th� cũng chẳng c� lợi �ch g�.

N�y đại vương, đấy chẳng kh�c g� một c�i hồ nước ở v�o một nơi hoang vắng, đầy nước trong, m�t, sạch, lại ngọt l�nh, thế nhưng chẳng ai đến đấy được để uống, để tắm, hoặc để d�ng v�o việc n�y hay việc nọ. Nếu nước kh�ng được sử dụng đ�ng c�ch th� cũng sẽ ph� phạm đi. Cũng thế, một người thiếu rộng lượng c� t�i sản lớn kh�ng biết mang ra ti�u x�i th� cũng chẳng lợi �ch g�.

Thế nhưng nếu đấy l� một người rộng lượng c� được t�i sản lớn, biết ti�u x�i để mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho m�nh, mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho cha mẹ, mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho gia đ�nh, mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho t�i tớ, kẻ hầu cận v� người l�m c�ng, mang lại niềm vui v� sự toại nguyện cho bạn b� v� những người cộng sự; biết c�ng dường người tu h�nh hầu tạo được c�ng đức gi�p m�nh t�i sinh nơi thi�n giới. V� thế nếu t�i sản của người ấy được sử dụng đ�ng c�ch th� sẽ mang lại lợi �ch.

N�y đại vương, đấy chẳng kh�c g� một hồ nước ở gầnmột ng�i l�ng hay một thị trấn, đầy nước trong, m�t, sạch, lại ngọt l�nh, v� mọi người đều c� thể đến đấy để uống, để tắm, để d�ng v�o việc n�y hay việc nọ. Nếu nước được sử dụng đ�ng c�ch th� sẽ kh�ng bị ph� phạm đi. Cũng thế một người rộng lượng c� t�i sản lớn, biết mang ra ti�u x�i đ�ng c�ch sẽ mang lại lợi �ch.

Đấng Thế T�n thuyết giảng như thế. Sau khi thuyết giảng như thế, bậc Đạo Sư đọc th�m b�i kệ:

Một hồ nước m�t, Nơi chốn hoang vu,

Kh�ng ai đến được để uống, Th� n�o c� kh�c g�,

T�i sản của một kẻ keo kiệt, Kh�ng biết ti�u x�i,

Cũng chẳng biết hiến d�ng.

Một người thức thời v� rộng lượng, C� của cải v� biết ti�u x�i,

Nu�i dưỡng mẹ cha, V� gi�p đỡ bạn b�.

Với tấm l�ng lu�n rộng mở,

Hắn sẽ t�i sinh nơi c�i thi�n nh�n.

(Samyutta Nikaya, I, ed. PTS, 1884-1898, 91-92)

Giới luật Phật gi�o cấm người xuất gia kh�ng được giữ bất cứ một thứ g� gọi l� của ri�ng. Thế nhưng đối với người thế tục th� giới luật kh�ng cấm đo�n họ l�m gi�u, nếu l�m gi�u bằng những phương tiện sinh sống đ�ng tức ch�nh mạng trong B�t ch�nh đạo. Gi�o ph�p nh� Phật cũng lu�n nhắc nhở: �Phải biết sử dụng t�i sản v� gi�p đỡ người kh�c�. Thật thế, c� rất nhiều kinh s�ch đề cập đến vấn đề n�y, khuy�n người thế tục phải ti�u d�ng c�c nguồn lợi nhuận m� m�nh thu g�p được để mang lại hạnh ph�c, nu�i nấng mẹ cha, gi�p đỡ bạn b�, cấp dưỡng cho người tu h�nh (Anguttara Nikaya, III, 259); phải kiếm tiền một c�ch lương thiện, tức kh�ng g�y ra thiệt hại cho c�c ch�ng sinh kh�c (lường gạt, bu�n b�n c�c chất độc hại hay c�c thứ g�y ra nghiện ngập, hay chăn nu�i s�c vật để giết thịt�), kh�ng g�y thiệt hại cho m�i trường thi�n nhi�n (chặt c�y, ph� rừng�), v� nhất l� phải chia sẻ sự gi�u c� với những người chung quanh, v� phải lu�n tự cảnh gi�c kh�ng được để vướng v�o c�c thứ cảm t�nh ki�u căng (Anguttara Nikaya, I, 181), v.v.

N�i chung, đối với người thế tục, Phật gi�o kh�ng ngăn cấm việc t�m kiếm những thứ th�ch th� �gi�c cảm�, d� đấy chỉ l� những thứ hạnh ph�c hời hợt v� tạm bợ, bởi v� Phật gi�o � thức được l� kh�ng thể n�o gi�p tất cả mọi người trong chốc l�t c� thể qu�n thấy được nguồn gốc s�u xa của khổ đau ph�t sinh từ những thứ hạnh ph�c ấy. Dầu sao th� những niềm hạnh ph�c tạm bợ đ� �t ra cũng tr�nh cho họ được phần n�o những thứ khổ đau thật th� thiển, chẳng hạn như hận th�, hung dữ, �ch kỷ, tham lam, keo kiệt, bủn xỉn� V� thế trong b�i kinh tr�n đ�y Đức Phật khuy�n những người c� của cải n�n đem ra ti�u x�i để mang lại �niềm vui v� sự toại nguyện cho ch�nh m�nh, cho cha mẹ v� những người chung quanh�.

C�ch nay hơn hai ng�n năm trăm năm m� Đức Phật đ� n�u l�n tệ nạn ngh�o đ�i v� xem đấy l� một sự bất c�ng trầm trọng của x� hội:

Khi sự gi�u c� kh�ng được chia sẻ cho người ngh�o, th� t�nh trạng ngh�o đ�i lại c�ng gia tăng. Khi t�nh trạng ngh�o đ�i gia tăng, th� trộm cắp cũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, th� con số kh� giới (để tự vệ v� trừ khử bọn cướp giật) cũng sẽ gia tăng. Khi kh� giới gia tăng th� việc s�t nh�n cũng gia tăng (Anguttara Nikaya, III, 68).

Ng�y nay d�n số tr�n địa cầu đ� l�n tới bảy tỉ người, t�nh trạng ngh�o đ�i trở n�n trầm trọng hơn bao giờ hết. Ủy ban Nh�n quyền của cơ quan Li�n Hiệp Quốc cho biết l� cứ mỗi năm gi�y th� lại c� một đứa b� chết v� đ�i. Con số kh� giới tr�n h�nh tinh n�y cũng theo đ� m� gia tăng, c� khi c�n nhiều hơn cả sự cần thiết, để th�ch nghi với sự ngh�o đ�i đang gia tăng ấy, hầu để bảo vệ miếng ăn cho một số người, trong số đ� biết đ�u cũng c� cả ch�ng ta.

Phật gi�o lu�n lu�n khuyến kh�ch c�c h�nh động từ thiện c�ng việc bố th� (d�na) v� xem đấy l� những điều xứng đ�ng tạo ra nghiệp l�nh cho kiếp sống hiện tại v� cho cả c�c kiếp sống tương lai. Kh�ng n�n �ăn một m�nh� v� �l�m ngơ� trước c�i đ�i của kẻ kh�c. Những g� m�nh được hưởng h�m nay l� nhờ v�o những g� xứng đ�ng m� m�nh đ� tạo được trong c�c kiếp trước, thế nhưng nếu chỉ biết sống một c�ch bần tiện, keo kiệt th� tr�nh sao khỏi sẽ t�i sinh trong một ho�n cảnh đ�i ngh�o. Đấy l� những g� sơ đẳng nhất trong gi�o l� nh� Phật.

Thế nhưng o�i oăm thay, n�o c� mấy người trong ch�ng ta lại tự nhận l� m�nh gi�u c� đ�u. Gặp nhau th� than thở, n�o l� chứng kho�n dạo n�y tuột nhanh qu�, kh�ng biết rằng như thế thật l� dại v� tiền dư bao nhiều l� dồn cả v�o đấy cho mất toi, trong khi đ� th� tiền mua nh� trả g�p cho ng�n h�ng c�n hơn chục năm nữa mới hết; hoặc tệ hơn nữa l� than rằng h�m qua vừa dốc t�i mua mấy chục tấm v� số m� chẳng tr�ng được đồng n�o. Tết nhất đến nơi, c�n phải qu� c�p biếu x�n cho thầy c� của bọn trẻ. Vật gi� th� gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ra vẻ với người ta chứ�, to�n l� nợ nần v� c�c chuyện phải ti�u x�i. Thương thay cho sự t�ng quẫn của họ.

Thật vậy, c� mấy ai nh�n thấy c�i �gi�u c� của m�nh đ�u? Của cải thật ra chỉ l� những con số v� nghĩa, sự gi�u c� đ�ch thật l� ở trong đ�y tim m�nh. Tết nhất đến nơi, khi ra đường ta tr�ng thấy một đứa b� lang thang, r�ch rưới, đen đ�a v� bẩn thỉu đang đứng nh�n những chiếc quần �o mới treo lủng lẳng trong c�c cửa h�ng, đ�i khi cũng khiến cho ta phải bật kh�c. Những giọt nước mắt ấy mới đ�ng thật l� sự gi�u c�, tuy y�n lặng thế nhưng rạt r�o như đại dương m�nh m�ng.

Ngo�i ra c�n c� một sự gi�u c� kh�c nữa m� tất cả mọi người đều ngang h�ng nhau, kh�ng thể vin v�o đấy để ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy l� tất cả mọi người trong ch�ng ta đều c� hai mươi bốn giờ trong một ng�y. Ch�ng ta sử dụng ch�ng như thế n�o? Phải chăng để xem phim H�n Quốc bất tận, xem c� n�y �y�u� cậu kia, cậu kia �thương� c� kh�c, ghen tu�ng, kh�c l�c, đủ mọi chuyện �o le, gay cấn? Hay l� ch�ng ta th�ch sang nh� h�ng x�m t�n gẫu hay đ�nh b�i, hoặc rủ nhau đi qu�n nhậu, đi uống �c�-ph� vườn�, �c�-ph� đ�n mờ� để nghe nhạc �trữ t�nh� bất tận? Đấy l� một sự phung ph� lớn lao nhất của kiếp con người, tương tự như ch�ng ta c� một c�i �hồ nước m�t v� tinh khiết�, thế nhưng kh�ng biết lấy nước ấy để tắm v� cũng kh�ng c� ai đến được để uống một ngụm n�o, cứ để cho nước tr�n đi v� thất tho�t.

Nếu biết sử dụng những gi�y ph�t qu� b�u của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi hầu gi�p m�nh trở n�n những con người xứng đ�ng hơn v� cao cả hơn, th� những gi�y ph�t ấy sẽ trở th�nh một gia t�i kếch x�, một nguồn t�i nguy�n bất tận v� v� gi�. Đấy cũng l� một c�ch �mang ra ti�u x�i của cải của m�nh một c�ch th�ch đ�ng�. Nếu quay nh�n lại qu�ng đời đ� trải qua th� mỗi người trong ch�ng ta cũng n�n tự hỏi xem m�nh đ� ph� phạm bao nhi�u gi�y ph�t qu� b�u ấy của kiếp nh�n sinh n�y.

Tuy nhi�n cũng c� thể c� người phản kh�ng lại v� cho rằng việc học hỏi v� tu tập vượt qu� khả năng của họ. Thật vậy, những g� m�nh muốn thu đạt được từ b�n ngo�i th� c� thể đ�i hỏi nhiều cố gắng v� ki�n tr�, thế nhưng những g� ph�t xuất từ đ�y tim m�nh th� cũng kh�ng đến đỗi kh� khăn g� cho lắm. Chẳng hạn, nếu tr�ng thấy cha m�nh ngồi trong y�n lặng, b�ng khu�ng nh�n ra đường, th� r�t một t�ch nước tr� để mời cha rồi ngồi xuống với cha v�i ph�t, nếu tr�ng thấy những n�t u uẩn hiện l�n trong đ�i mắt của mẹ th� cố t�m một v�i lời ngọt ng�o để gợi chuyện với mẹ, nếu kh�ng th� cũng c� thể chạy sang nh� h�ng x�m chơi đ�a với mấy đứa trẻ con để cho mẹ ch�ng c� th� giờ dọn dẹp nh� cửa hoặc bắc nồi cơm l�n bếp. Những việc nhỏ nhoi như thế n�o c� kh� khăn g� đ�u, dần dần rồi ta sẽ c� thể thực hiện được những việc kh� khăn hơn, �t ra th� những gi�y ph�t đ� cũng �ch lợi hơn l� ngồi xem�C� g�i Đồ Long� tung chưởng hết hiệp n�y sang hiệp kh�c, đến khi đứng l�n th� uể oải, t�m tr� trở n�n đờ đẫn v� � l�.

T�m lại, h�y hiến d�ng những g� m�nh c� trong hai tay, trong đ�y tim m�nh v� cả những gi�y ph�t của kiếp người n�y. Ch�ng ta lu�n lu�n gi�u c� hơn l� ch�ng ta tưởng v� thế đ�i khi cũng n�n nh�n lại xem m�nh c� keo kiệt lắm hay kh�ng. Thiển nghĩ b�i kinh tr�n đ�y dạy cho ch�ng ta hiểu rằng những g� ch�ng ta �m lấy khư khư chẳng những kh�ng �ch lợi g� m� ch�ng sẽ mất đi v�o một l�c n�o đ�.

Để thay cho phần kết luận cũng xin tr�ch th�m một b�i kinh kh�c thật ngắn mang t�n l� Aditta-Sutta, t�m thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Aditta c� nghĩa l� bốc ch�y, do đ� c� thể tạm dịch b�i kinh n�y l� b�i Kinh về Hỏa Hoạn. Khi một căn nh� bốc ch�y th� những g� cất giấu trong đ� sẽ h�a th�nh tro bụi, chỉ c� những g� đ� mang cho người kh�c th� mới c�n lại m� th�i.

Thế nhưng đ�u phải chỉ c� một gian nh� bốc ch�y m� cả thế gian n�y đang bốc ch�y theo c�ng với sự gi� nua v� c�i chết. Theo định nghĩa của Phật gi�o th� qu� tr�nh của sự gi� nua bắt đầu từ khoảnh khắc tiếp nối ngay sau khi thụ thai, v� c�i qu� tr�nh đ� vận h�nh kh�ng ngưng nghỉ cho đến l�c c�i chết xảy ra. V� thế tất cả ch�ng sinh trong thế giới n�y, kh�ng c� một ngoại lệ n�o cả, đều đang bị ngọn lửa của v� thường thi�u đốt. Một người tu tập khi đ� � thức được ngọn lửa m�nh m�ng đ� đang thi�u đốt th�n x�c m�nh v� cả thế gian n�y, th� sẽ kh�ng c�n nghĩ tới việc so k� từng xu m� phải biết nh�n lại xem trong hai tay m�nh c�n lại những g� để hiến d�ng cho kẻ kh�c.

Bối cảnh của b�i kinh n�y thật thi vị v� thi�ng li�ng. Đức Phật đang ngồi thiền y�n lặng giữa đ�m khuya nơi ng�i vườn Kỳ Vi�n th� c� một nữ thi�n nh�n (devata) hiện ra, �nh h�o quang soi s�ng cả khu vườn. Vị nữ thi�n nh�n tiến đến gần Đấng Thế T�n v� đảnh lễ, rồi ngồi sang một b�n. Đấng Thế T�n cảm ứng cho vị nữ thi�n nh�n h�t l�n b�i h�t của một trận hỏa hoạn để h�ng ng�n đệ tử của Ng�i v� c�c người thế tục đang mơ m�ng trong khu vườn c� thể lắng nghe giữa đ�m th�u thanh vắng. Sau đ�y l� phần chuyển ngữ to�n bộ của b�i kinh tr�n đ�y dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu (The Access to Insight, June, 2010):

T�i từng được nghe như thế n�y: C� một lần Đấng Thế T�n đang ngụ tại tịnh x� của ng�i Anathapindika (Cấp C� Độc) trong khu vườn Kỳ Vi�n, gần th�nh Savatthi. V�o l�c nửa đ�m, hiện ra một nữ thi�n nh�n tỏa �nh h�o quang chiếu s�ng cả khu vườn. Vị nữ thi�n nh�n tiến đến gần Đấng Thế T�n, đảnh lễ rồi ngồi sang một b�n. Sau khi ngồi sang một b�n th� cất tiếng để h�t l�n b�i h�t sau đ�y:

�Khi căn nh� bốc ch�y,

Những g� c�n s�t lại,

L� những vật đ� cho.

K�a của cải giữ lại,

Đang h�a th�nh bụi tro.

Cả thế gian bốc ch�y!

Tuổi gi� thanh củi mục,

C�i chết ngọn lửa hồng.

Bảo to�n nhanh của cải:

Hiến d�ng bằng hai tay.

Vật cho l� quả ngọt,

Giữ lại, mối lo buồn:

N�o vua quan d�m ng�, N�o kẻ trộm r�nh m�,

Hỏa hoạn, một đống tro. K�a th�n x�c bỏ lại,

Nằm kia c�ng của cải.

Hỡi những ai gi�c ngộ! Nắm lấy hạnh ph�c n�y, Bằng hai tay để ngửa. H�n hoan đ�i b�n tay, D� chỉ l� �t ỏi,

Một ch�t n�y hiến d�ng. Con đường n�o rộng mở, C�i thi�n nh�n đ�n chờ�.

(Tương Ưng Bộ kinh, Samyutta Nikaya, I, 41)

Chia sẻ: facebooktwittergoogle