Chân Hiền Tâm
Mạt pháp là thời kỳ thứ ba sau Chánh pháp và Tượng
pháp.
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật
diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1000 năm và Mạt pháp trải
qua 10.000 năm. Có thuyết lại cho Chánh pháp và Tượng pháp đều trụ thế 1.000
năm,
còn Mạt pháp thì 10.000 năm. Nhưng cũng có thuyết cho là Chánh pháp trụ thế 1.000
năm, nhưng Tượng Pháp thì trải dài đến 10.000 năm như thời Mạt pháp.
Vì sao lại phân ra ba thời? Là y cứ vào việc đầy đủ
hay không đầy đủ giáo, hạnh và chứng mà nói. Giáo là giáo pháp đã được nghe.
Hạnh, là chỉ cho việc tu hành. Chứng, là chỉ cho việc chứng quả. Chánh pháp là
thời mà người học Phật có đủ cả ba việc đó. Nghe pháp rồi ứng dụng tu hành. Tu
hành rồi liền chứng quả. Còn thời Mạt pháp, người nghe pháp và hiểu pháp thì
nhiều mà ứng dụng pháp tu hành thì hiếm, nên phạm giới thì nhiều và chứng quả
thì ít.
Theo Pháp uyển
châu lâm, thời Mạt pháp có 5 thứ loạn:
1/ Bạch y xưng
làm bậc mô phạm, còn Tỳ-kheo vô thức theo đó mà học. Nói về điều kiện cũng như chuyên môn, chư Tăng Ni là
những vị trực tiếp thọ nhận giáo pháp của Như Lai, là người có ưu thế hơn về
định lực, trí tuệ cũng như kinh nghiệm đối với Chánh pháp. Đáng lẽ chư vị mới là
người truyền pháp, nhưng thời Mạt pháp lại có tình trạng đảo lộn. Vì sự đảo lộn
đó mà gọi là loạn. Không phải Bạch y đứng ra giảng pháp mà Chánh pháp hay Tượng
pháp trở thành Mạt. Biểu hiện và tác nhân là hai thứ khác nhau. Đó là nói về nội
giáo.
Về ngoại giáo, không thể không lấy Bạch y làm thầy.
Ngoại giáo, tuy cần cho việc lợi tha, nhưng Tu sĩ dành thời gian cho ngoại giáo
cũng có nghĩa là thời gian nghiên cứu kinh luận và công phu bị thu hẹp, việc
chứng quả khó xảy ra. Đó là lý do nói mạt.
2/ Bạch y ngồi
tòa trên, Tỳ-kheo
ở dưới. “Ngồi tòa trên” và “ở dưới” nói
đây mang nghĩa “Bạch y tự xưng ta hiểu Đại thừa phải ở cương
vị trên, còn Tỳ-kheo
hành pháp nhỏ đương nhiên ở vị thấp”,
nên nói mạt.
Hoặc trong Phật sự, do uy lực và tài vật mà Bạch y ở thế thượng, Tỳ-kheo ở thế kém. Sự đảo lộn đó cho thấy
pháp của Như Lai ứng dụng vào đời sống thường nhật kém, nên nói
mạt.
3/ Tỳ-kheo thuyết pháp thì chẳng hành,
chẳng nghe. Bạch y thuyết pháp thì lại thuận hành. Trong việc giảng pháp và nghe pháp,
đòi hỏi “Sở thuyết” phải có duyên với “Năng thuyết”, và pháp được thuyết phải
đáp ứng được căn cơ và tính dục của người nghe. Bạch y thuyết chịu nghe chịu
hành, vì pháp được thuyết phù hợp với tâm người nghe. Tức phần ứng cơ tốt. Nhưng
pháp Phật không chỉ có khế cơ mà còn phải khế lý. Nếu không lìa lý mà thuyết thì
coi như hàng Phật tử xuất gia dụng pháp không tốt như hàng tại gia, nên nói mạt.
Nếu lìa lý mà thuyết thì rơi vào cái loạn thứ (4) sau.
4/ Ma thuyết
thì cho là chân đạo, Chánh pháp của Phật thì cho là chẳng
chân. Vì pháp ma thuyết đáp ứng được tâm
trạng và tính dục của người nghe. Nhưng khế cơ thì có mà khế lý thì không. Nên
nói mạt.
Chúng sanh thích danh vọng tiền tài, nhưng không muốn
nhọc lòng tu hành, làm phước, cũng không nắm đươc lý nhân
quả chi phối tới ba đời, không biết sung túc hiện tại là do cái nhân bố thí từ
trước v.v..,
nên khi ma nói “Không cần.
Để ta cho cái phép là được” liền theo. Tuy lời nói sai với lý nhân
quả, nhưng vì đáp ứng được tính dục của chúng sanh, nên chúng sanh cho là chân.
Muốn vãng sanh Cực Lạc, nhưng Niệm Phật thấy nhọc,
nhớ trước quên sau. Ma thuyết: “Không cần tự niệm. Chỉ cần nghe cái “chip” niệm,
vãng sanh càng mau, vì niệm mà vô niệm”. Lời nói tuy trái lý, nhưng vì đáp ứng
đúng tâm trạng của chúng sanh, nên được cho là chân.
Thích làm Tổ thành Phật, nhưng chánh kiến tu hành
không có, không muốn từ bỏ tham dục cũng như ngưng dứt dòng vọng niệm, thành khi ma thuyết: “Pháp thân sẵn đủ trong mỗi
người. Chẳng cần trừ vọng. Trừ, là pháp đối trị, chưa lìa nhị biên phân biệt,
không thể thành Phật. Không nghe Tổ nói “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân?”.
Tham, sân, si cũng chẳng cần diệt. Vì “Tánh của dâm nộ si là Phật tánh”,
liền cho là phải. Lời ma
nói tuy không sai với kinh luận, nhưng duyên khởi là thực lý chi phối thế giới
này. Duyên nào có pháp đó. Pháp Phật lập ra là tùy duyên mà lập. Dùng không đúng
duyên thì đề hồ thành độc dược.
Xưa, ngài A Nan dụng pháp cho chúng sanh không đúng
duyên, người phải tu sổ tức lại dạy quán bất tịnh, người phải dạy quán
bất tịnh lại dạy sổ
tức, nên không có kết quả.
Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Chỉ như
gìn giữ giới hạnh trong sạch không chút xao
lãng thì thế nào?”.
Thượng Sĩ
trả lời: “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chiêu
tội chẳng chiêu phước/ Muốn biết không tội phước/ Chẳng giữ giới nhẫn nhục”.
Nói rồi căn dặn: “Đừng nói cho người không ra gì biết”.
Người không ra gì, là người mà việc trì giới và nhẫn nhục chưa thể thực hành,
chưa được miên mật như Tổ Trúc Lâm. Trong khi pháp Thượng Sĩ nói chỉ dành cho hàng mà giới không còn
phạm và nhẫn đã thuần thục. Muốn được chỗ “không tội phước”, là chỗ lìa mọi chấp
thủ, mọi nhị biên phân biệt, thì
“chẳng giữ giới cùng nhẫn nhục”. Vì giới và nhẫn tuy cần thiết cho việc tu hành,
không thể không giữ, nhưng không nên chấp vào đó. Chấp, tức là trụ. Trụ, thì
không thể chứng nhập tánh vô trụ. Vì thế, pháp đó chỉ dành cho hàng căn cơ mà
việc giữ giới và nhẫn nhục đã thuần thục, không phải cho hàng tham dục còn đầy
dẫy, nên nói: “Đừng nói cho người không ra gì biết”. Thành có bệnh thì phải dùng
pháp đối trị, không thể dùng pháp dành cho người hết bệnh (hàng vô học),
bệnh càng thêm nặng. Không khác người bệnh mà đi uống nhân sâm, bệnh không lành mà còn tử vong.
5/ Tỳ-kheo chẳng trì giới luật, lưu dưỡng
vợ con cùng tục không khác.
Chỉ cần vướng vào các loại tham dục bình thường như ăn uống, ngủ nghỉ v.v… pháp
Phật diễn nói đã thấy khó tiếp thu, huống là ái dục? Thân tâm không thể thanh
tịnh, đạo vô thượng nhất định không thành. Hàng tại gia tu đạo xuất thế còn phải
tránh xa các dục, huống là Tỳ-kheo
mà việc lìa ái dục đã trở thành giới luật? Đó là lý do nói pháp mạt.
Đó là 5 hiện tượng thường xảy ra vào thời Mạt pháp.
Cũng có 5 pháp khiến Chánh pháp không diệt ở thời Mạt
pháp. Dụng được 5 pháp này thì có thể duy trì Chánh pháp vào thời Mạt pháp, ít
nhất là cho bản thân mình.
1/ Chỉ y Chánh
giáo tiến tu, xa lìa các thuyết tà lệch của Tiểu thừa và ngoại đạo.
Chánh giáo, là loại giáo phù hợp với thực lý chi phối
thế gian này.
Thực lý chi phối thế gian này là Duyên khởi, được
triển khai thành nhân duyên và nhân quả.
Các pháp ở thế gian đều theo duyên mà khởi. Vì thế
tùy duyên mà pháp có giá trị. Không pháp nào mang tính phổ quát. Pháp Phật cũng
vậy, được lập ra là tùy căn cơ của chúng sanh. Vì thế, Chánh giáo là loại giáo
phải vừa mang tính khế cơ, vừa mang tính khế lý. Khế cơ, là ứng đúng căn cơ và
tánh dục của chúng sanh mà thuyết. Khế lý, là dù theo duyên mà thuyết, cũng
không được lìa tinh thần mà kinh luận đã nói.
Cho nên, dù là giáo của Phật, nhưng khi ứng dụng vào
duyên, nếu không đáp ứng đủ hai điều đó thì Chánh pháp cũng thành tà pháp. Đó là
do không đủ trí tuệ trong việc dụng pháp mà chánh thành tà.
Ứng với cái duyên chúng sanh chỉ thích hạnh phúc ở
thế gian thì thuyết phần giáo liên quan đến Nhân Thiên thừa. Pháp dù biến hóa
thế nào, cũng không được lìa Ngũ giới, Hiếu hạnh, Thập thiện hạnh… mà nhân quả là lý chi phối tất cả.
Ứng với cái duyên chúng sanh thích quả vị A-la-hán,
thì thuyết phần giáo có liên quan đến Tứ đế, khổ, không, vô thường, vô ngã v.v…
Biến hóa thế nào, cũng không được lìa việc trừ “tập” diệt “khổ”, mà liễu thoát
sanh tử là đích đến.
Ứng với cái duyên chúng sanh thích quả vị Bích Chi
Phật, thì thuyết phần giáo có liên quan đến Thập nhị duyên sanh, khổ, không, vô
thường, vô ngã… Biến hóa thế nào, cũng không được lìa việc phá trừ ba chi thọ,
ái, thủ, mà đích đến là liễu thoát sanh tử, được quả vị Bích Chi Phật.
Ứng với cái duyên chúng sanh thích vãng sanh Cực lạc của Phật Di
Đà, thì thuyết phần giáo có liên quan đến thế giới Di Đà và việc trì niệm danh
hiệu Phật, quán tưởng hình tượng Phật v.v… Biến hóa thế nào, cũng không được lìa
ba thứ Tín, Nguyện và Hạnh. Tín, là tin có cõi Phật Di
Đà, tin niệm Phật được nhất tâm bất loại nhất định sẽ về cõi đó. Nguyện, là
nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc. Hạnh, là phải tự mình niệm Phật, tùy
lực tùy căn của mình mà niệm. Nếu không có Tín thì không đủ niền tin để niệm
Phật. Không có Nguyện, thì không có gì có thể thành tựu, dù chỉ là việc bố thí
bình thường. Không có Hạnh thì không do đâu hàng phục được dòng
vọng tưởng tương tục, tâm khó tương ưng với cảnh giới Di Đà. Nếu nói máy niệm mà
mình có thể vãng sanh Cực lạc, đó là ma
nói không phải Phật nói.
Ứng với cái duyên chúng sanh thích Phật quả, thì
thuyết phần giáo có liên quan đến những việc như Phật tánh, tự lợi, lợi tha,
phát bồ-đề tâm và thanh tịnh thân tâm bằng con đường Trung đạo. Kinh Pháp hoa
nói: “Vì các Bồ-tát, nhân Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nói Lục độ
ba-la-mật, rốt ráo trí tuệ Phật”. Biến hóa thế nào, cũng không được lìa việc trừ
bỏ vọng tưởng (là nhận ra được thực tánh của vọng tưởng), như Đại sư Tông Mật đã
nói trong cuốn Nguồn
thiền:
“Dứt vọng tưởng là chánh tu. Làm các điều lành là trợ tu”.
Pháp Phật cần dụng cho đúng duyên. Dụng pháp mà không
đúng duyên, ứng cơ mà không khế lý, khế lý mà thiếu khế cơ thì thuyết Chánh pháp thành tà pháp.
Nói: “Xa lìa
các thuyết tà lệch của Tiểu thừa và ngoại đạo”, thì “tà” là ứng với “ngoại đạo”.
“Lệch” là ứng với “Tiểu thừa”. Tiểu thừa là muốn nói đến các
thừa nhỏ, chỉ cho Tiểu thừa và Trung thừa.
Sao gọi là thừa nhỏ? Vì lý chưa tận nên nói nhỏ, chưa dạy người được Niết-bàn vô
sở trụ nên nói nhỏ.
Ngoại đạo mà nói “tà”, là chỉ cho những loại giáo xa
lìa nhân
quả, lầm nhân lộn duyên, nếu chúng sanh theo đó mà tu thì rơi vào các đường khổ,
nên nói “xa lìa...”.
Nhị thừa mà nói “lệch”, là khi người tu dừng trụ ở
các quả vị La-hán và Bích Chi Phật, lấy đó làm Niết-bàn rốt ráo, tức lấy hóa
thành làm bảo sở, lấy giải thoát cho riêng mình làm cứu cảnh, bỏ mất tâm bồ-đề sẳn đủ trong mỗi người. Không phải
phần giáo pháp cũng như pháp tu của Nhị thừa là sai trái. Vì dù là tu Đại thừa,
cũng không ra ngoài việc trừ Tập, chứng Đạo. Chỉ là sâu hay cạn. Nhị thừa phá
các Tập thuộc phiền não chướng. Đại thừa phá sâu vào phần Tập thuộc sở tri
chướng. Nhị thừa, lìa nhị biên phân biệt thô. Đại thừa, phải lìa nhị biên phân
biệt tế.
Về pháp tu, pháp của Nhị thừa hay Đại thừa đều dạy
người tu bất động với tám gió,
căn không dính với trần v.v… Nói chung giáo của Nhị thừa và Đại thừa khác nhau ở
phần tinh thần là chính. Nhị thừa được quả vị giải
thoát. Đại thừa lấy quả bồ-đề làm Niết-bàn rốt ráo, trong đó bao
gồm cả quả giải thoát. Nghĩa là, quả vị chứng ngộ
không phải một, nhưng pháp tu thì không khác.
Tùy bệnh tùy cơ mà dù tu Đại thừa, có khi vẫn phải
học phần giáo của Nhị thừa, áp dụng pháp tu của Nhị thừa. Trong kinh Lăng-già tâm ân, Đại sư Hàm Thị
nói: “Bồ-tát trụ tướng trí tuệ mà vẫn dùng thiền tịch của Nhị thừa để trừ sạch
pháp chấp vi tế. Đây là chẳng bỏ phương tiện mà chẳng chấp là thật pháp”.
Nói “tiểu thừa”, còn mang nghĩa chấp pháp. Chấp pháp,
là cho pháp mình tu là chân lý, đúng mọi lúc mọi nơi mà không thấy mặt duyên khởi không tánh của vạn pháp, thành
đối với những pháp còn lại đều thật tâm bài bác.
Vì thế, dù học pháp Đại thừa mà tâm chấp pháp quá nặng, chỉ thấy Đại thừa mới là
pháp Phật nói, bài bác Nhị thừa, thì Đại thừa cũng thành Tiểu
thừa.
Tóm lại, thứ mà người tu phải xa lìa là những cái
lệch của Nhị thừa và cái tà của ngoại đạo, không phải là chính ngoại đạo hay Nhị thừa. Bởi những gì trong
giáo pháp của chư vị, nếu là thiện pháp, thì chúng cũng chính là thiện pháp
trong giáo pháp Đại thừa. Và đã học pháp Đại thừa thì phải nhớ đến tinh thần vô
chấp của nó. Học và hành tất cả các thiện pháp mà không dừng trụ lưu giữ. Đó
chính là pháp của Đại thừa.
Đã không trụ chấp thì ngay với pháp Đại thừa, cũng
không nên chấp. Không cho Đại thừa mới là Chánh pháp nên học, còn Nhị thừa thì
không đụng đến. Nói “xa lìa” là xa lìa những cái lệch và tà,
không phải xa lìa những cái không lệch không tà mà trị đúng bệnh của mình. Bởi
trong Đại thừa có Nhị thừa. Trong Nhị thừa có Đại thừa. Đại thừa không lìa Nhị
thừa. Nhi thừa không lìa Đại thừa. Vì chúng là pháp duyên khởi. Vấn đề là phải dụng pháp cho
đúng duyên. Có bệnh thì uống thuốc. Hết bệnh thì thuốc không dùng. Tránh tình
trạng bệnh lành vẫn chấp thuốc, dụng pháp này lại bác pháp kia.
Pháp Phật không lỗi, không có gì để bài bác nếu chúng
ta ứng dụng nó đúng duyên. Pháp trở thành lỗi là do sự cố chấp và dụng pháp
không đúng duyên. Là do người không phải do pháp. Muốn hộ pháp được trường tồn ở
thế gian này thì cần có cái nhìn duyên khởi đối với các pháp. Biết pháp ứng
cơ mà hiện thì cũng sẽ tùy cơ mà được lợi ích. Không sinh tranh cải, không khiến Chánh
pháp bị hủy diệt chỉ vì cái thấy hạn cuộc của mình.
2/ Thường hành
nhẫn nhục, không sinh sân nhuế, công đức vang xa khiến người quy ngưỡng.
Dù là tu Đại thừa hay Nhị thừa thì việc chính cũng là trừ bỏ tham, sân, si.
Nghĩa là không để tham,
sân, si làm chủ, dẫn
dắt mình ra vào trong Lục đạo. Nói cách khác, là không để tham,
sân, si thành tập
nghiệp của mình. Tu Đại thừa, là để nhận ra thực tướng của tham, sân, si. Muốn
nhận ra được thực tướng của chúng thì trước cần làm cho chúng mất lực, hiện
nguyên hình là vọng. Vì thế trong quá trình tu hành, người tu Nhị thừa hay Đại
thừa đều phải hành nhẫn nhục, không để tham, sân, si tăng trưởng.
Trong việc lợi ích chúng sanh, nếu để tham và sân làm
chủ thì việc lợi ích không thể thực hiện. Chúng sanh cang cường, không nhẫn nhục
khó mà thành tựu hạnh lợi tha. Vì thế cần phải hành nhẫn nhục và không sinh sân
nhuế.
“Công đức vang
xa, khiến người quy ngưỡng”
là cái quả tất yếu của việc trừ bỏ tham, sân, si và hành nhẫn nhục. Việc trừ bỏ
đó cũng là duyên khiến chúng sanh kính ngưỡng mà quy về học pháp.
3/ Đối với các
vị có đức lớn ngồi ở tòa trên thì cung kính thuận sự, siêng cầu pháp yếu.
Kinh Pháp hoa,
phẩm Thường Bất Khinh nói: “Sau lúc Chánh pháp đã diệt, trong đời Tượng pháp,
những Tỳ-kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn…”. Để
sửa trị pháp tăng thượng mạn đó mà xuất hiện hình tượng Tỳ-kheo
Thường Bất Khinh. Tỳ-kheo Thường Bất Khinh, chẳng chuyên đọc tụng kinh
điển, chỉ làm một hạnh lễ lạy. Bất cứ khi nào thấy Tứ chúng, thảy đều
đến lễ lạy mà nói: “Tôi chẳng dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ thành Phật”.
Trải qua nhiều năm, dù bị mắng nhiếc hủy phạm cũng chỉ một tâm đó. Khi sắp mất,
trên hư không bỗng vang ra hai mươi nghìn muôn ức bài kệ
Pháp hoa,
thảy đều nghe hết. Nghe rồi đều có thể thọ trì. Liền được lục căn thanh tịnh
v.v... Thì biết, tâm cung kính đối với tất cả chúng sanh cũng là một pháp tu. Vì
nó là duyên giúp phá trừ ngã tướng. Người tu Chánh pháp cần y đó mà tu để tránh
những điều sai lệch không đáng có.
Thắng Man Phu nhân, tuy là cư sĩ nhưng bà là một đại
Bồ-tát thuyết pháp Đại thừa. Một trong 10 Đại nguyện của bà là: “Con từ hôm nay
cho đến khi chứng quả Bồ-đề, đối với các bậc Sư trưởng chẳng khởi tâm kiêu mạn”
thì biết việc tôn kính Sư trưởng cần thiết cho việc tu hành.
Hai hình tượng, một thuộc Tăng bảo, một thuộc Cư sĩ
đều cho thấy, hạnh tôn kính người khác luôn cần thiết đối với một người tu, dù
đó là xuất gia hay tại gia.
Trong luận Tối
Thượng thừa
của ngài Hoàng Bá, có người hỏi: “Thế nào là tâm ngã sở?” Hoàng Bá trả lời: “Là
có chút tâm cho ta hơn người. Tự nghĩ ta hay như thế. Tâm ngã sở đó là bệnh
trong Niết-bàn”. Đây nói “bệnh trong Niết-bàn” thì biết bệnh này khá phổ biến
trong giới tu hành, nhất là với những người từng thủ chứng được chút gì.
Phu nhân biết mình có công đức và trí tuệ hơn người,
bà cũng biết nếu không khéo, cái thấy hơn người đó sẽ làm phát sinh lòng kiêu
mạn, là một loại phiền não chướng, bệnh trong Niết-bàn, thành “Chẳng khởi tâm
kiêu mạn” trở thành một trong 10 đại nguyện của bà. Nguyện, vì lòng tha thiết
đối với con đường Phật đạo. Nguyện, cũng là để chặn
đứng một thói xấu. Vì lời nguyện ngoài tác dụng biểu hiện sự phát tâm của mình,
bản thân nó cũng tạo ra những duyên giúp hành giả thực hành được điều đã nguyện.
Đây không chỉ nói cung kính mà còn thuận sự và siêng
cầu pháp yếu. Là đối với việc nhận pháp tu hành thì siêng tham vấn những chỗ
chưa biết, để trí tuệ được phát triển, việc tu hành luôn tăng tiến. Với Phật sự,
cũng khéo nghe làm không chống trái.
4/ Đối với diệu
pháp đã nghe, sinh sâu sự yêu thích, hoan hỉ phụng hành.
Nói đến diệu
pháp, thì thường ai cũng nghĩ đến loại giáo pháp liễu nghĩa. Với hàng Nhị thừa
chấp pháp thì cho pháp mình mới là Diệu pháp.
Với cái nhìn duyên khởi không tánh, loại giáo pháp
nào ứng đúng với căn cơ và tính dục của chúng sanh mà không lìa lý, gọi là Diệu
pháp. Gọi Diệu, vì với pháp đó chúng sanh có thể thông hiểu và ưa thích. Hiểu,
mới có thể theo đó mà hành. Thích, mới có thể thực hành đến nơi đến chốn. Vì thế
dù là pháp tối thượng mà chúng sanh không hiểu, cũng không thể theo đó thực hành
thì pháp đó, trong cái duyên của chúng sanh đó, chẳng còn là diệu pháp. Cho nên
nói đến thực tướng của Pháp thì không bàn diệu hay không diệu, chỉ khi ứng duyên
mới nói diệu hay không diệu. Vì thế, nói diệu hay không diệu là tùy pháp, tùy
duyên. Pháp nào vừa khế cơ vừa khế lý thì pháp đó là diệu.
Đây nói sinh sâu sự yêu thích, nghĩa là không phải
chỉ thích mà còn thích sâu. Muốn thích sâu thì hiểu phải đi đôi với hành. Nghĩa
là phải có thực hành ít nhiều phần giáo pháp mà mình đã học thì niềm tin mới
được củng cố sâu đậm, nên nói hoan hỉ thực hành, là vui vẻ mà thực hành, thấy
lợi ích cho mình và người mà thực hành.
5/ Với pháp Đại
thừa, phương tiện diễn thuyết khiến người sơ tâm học tập, có chỗ y tựa tiến tu
vào đạo.
Đây chỉ nói Đại thừa mà không nói đến Nhị thừa hay
Nhân Thiên thừa, vì tính bao quát của nó. Ở mặt Lý, Đại thừa dẫn người đến phần
lý tột cùng. Không chỉ dừng ở mặt hiện tượng duyên khởi mà còn hiển bày bản chất của duyên
khởi. Ở mặt Sự, Bồ-tát đạo gồm đủ các hạnh từ Nhân Thiên thừa cho đến Lục độ ba-la-mật
của Đại thừa. Hành giả tu hành có thể tùy phần tùy lực của mình mà hành các
hạnh. Ngoài ra phần giáo Tánh không duyên
khởi được hiển bày qua các kinh luận Đại thừa, còn có thể giải quyết được sự
bế tắc của triết học và khoa học,
đáp ứng được nhu cầu tri thức của thời đại, nên đây chỉ nói đến Đại thừa. Nói
Đại thừa, nhưng là nói đủ các thừa.
Phương tiện diễn
thuyết, là ứng cơ mà thuyết để
người sơ cơ có thể theo đó học tập. Vì ứng cơ, nên Lý thì không hai mà pháp thì
vô số. Nhưng muôn hình vạn trạng bao nhiêu, cũng không được lìa phần lý mà Phật
đã nói.
Học Đại thừa, chỗ đến là quả vị Phật. “Nguyện
đem công đức này/ Hồi hướng khắp tất cả/ Đệ tử và chúng sanh/ Đều trọn thành
Phật đạo”. Nhưng để đạt được quả vị đó, không phải ai cũng hành Lục ba-la-mật. Có người tham thiền, có người
niệm Phật, có người tụng kinh, có người làm công quả ở các chùa, có người tham
gia làm việc ở các bệnh viện hoặc nơi khốn khó v.v… Rất nhiều hạnh để làm. Tùy
phần tùy lực mà làm. Làm thứ gì cũng được, miễn là thiện hạnh. Hành rồi đừng
quên lời hồi hướng “Nguyện đem công đức này/… Trọn thành Phật đạo”
thì những Sự mình làm dù nhỏ nhặt, cũng không ngoài Lý mà Phật đã dạy. Lời
nguyện đó có thể giúp mình tùy duyên mà bất biến. Đi Đông, đi Tây,
lên núi, xuống biển… rồi cũng quy về một đích. Chỉ là hạnh có khác thì
thời gian đạt quả có khác. Như Thích Ca và Di Lặc, thời gian tu hành có khác,
rốt cuộc đều thành Phật đạo.
Đó là 5 pháp mà Phật tử xuất gia hay tại gia đều nên
y cứ thực hành, tùy căn tùy lực của mình mà hành ít hay nhiều, cạn hay sâu.
Trong đó vừa có phần tự lợi, vừa có phần lợi tha. Duyên khởi, nên tùy phần tùy
lực mà lúc thì ứng dụng phần tự lợi nhiều, lúc thì ứng dụng phần lợi tha nhiều,
hoặc vừa tự lợi vừa lợi tha xen kẻ. Đó là những phương thức giúp Chánh pháp
trường tồn ở thế gian. Cũng là cách hộ trì Chánh pháp không để mất trong thời
Mạt pháp.