(Đức vua Duṭṭhagāmaṇi Abhaya (421 PL)
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Được xem như đây là
thời hoàng kim
của Phật giáo Tích Lan.
Là một đức vua
vĩ đại, sáng suốt, hiền minh, trọn đời chỉ biết chăm lo cho sự vinh quang
của chánh pháp - như noi gương đức vua Asoka của Ấn Độ vậy.
Ông vốn là con trai của
đức vua Kākavaṇṇatissa, sau này giúp
cho Phật giáo một giai đoạn phát triển vinh quang. Niềm tin tôn giáo, tư chất,
phẩm hạnh của đức vua đều được vua cha giáo dục từ nhỏ.
Rút tư liệu từ Mahāvaṃsa, ta có thể tóm lược như sau:
- Vào thời ấy, ở tịnh
xá Koṭapabbata có một sa-di
sống một đời phạm hạnh, luôn để tâm phục dịch, hầu hạ các tỳ-khưu, luôn bận rộn
làm các thiện sự. Hôm kia, một mình khuân những tảng đá lớn để làm bậc cấp lên bảo
tháp, do làm quá sức mình nên sa-di bị nhuốm bệnh nặng; chư tỳ khưu biết ơn nên
hết lòng săn sóc.
Hoàng hậu Vihāradevī là
một cô gái trẻ đẹp, nết na, vợ của vua Kākavaṇṇatissa, có đức tin Tam
Bảo, luôn luôn cúng dường thực phẩm, hương liệu, tràng hoa, thuốc chữa bệnh, y
phục đến chư Tăng.
Hôm ấy, sau khi làm lễ
cúng dường lớn, vị trưởng lão thuyết pháp, sau đó nói lời phúc chúc đến hoàng
hậu:
- Con sẽ đạt những hạnh
phúc lớn nhờ những phước sự mà con đã làm ngày hôm nay.
Hoàng hậu Vihāradevī
buồn bã nói rằng:
- Hạnh phúc gì đâu khi
con chẳng có một mụn con nào!
Vị trưởng lão, vốn là
bậc có sáu thắng trí, hướng tâm là biết rõ mọi việc, nên gợi ý với hoàng hậu:
- Có một sa-di ở đây,
có phẩm hạnh rất tốt, hiện đang lâm trọng bệnh, sợ không qua khỏi; hoàng hậu nên
đến gặp vị sa-di ấy, thỉnh nguyện với vị ấy, nguyện tái sanh làm con của hoàng
hậu.
Y lời, hoàng hậu đến
thăm vị sa-di, cầu khẩn, năn nỉ mãi, vị sa-di vẫn không chấp thuận. Lần cuối, hoàng
hậu thiết lễ một cuộc cúng dường lớn, trang hoàng chùa tháp bằng tất cả hoa đẹp
trong thành phố, rồi nhân danh vị sa-di để cúng dường đến chư Tăng. Cảm động
trước việc làm có ý nghĩa của hoàng hậu, vị sa-di chấp thuận tái anh vào dòng
dõi nhà vua.
Thế là hoàng tử Duṭṭhagāmaṇi-Abhaya, hậu thân của vị sa-di được sinh ra -
với tất cả mọi hảo tướng, quý tướng - là niềm vui sướng của mọi người. Đồng sanh với quả
phước của hoàng tử là bảy thuyền châu báu và một con voi sáu ngà tên là Kaṇḍula.
Trong ngày lễ đặt tên,
vua thỉnh mời 1.200 vị tỳ-khưu đến hoàng cung để đặt bát cúng dường; nhưng nhà
vua thầm nguyện: “Nếu con trai của ta, sau khi nắm vương quyền khắp toàn cõi
Sri Laṇkā, sẽ làm cho giáo
pháp của đức Chánh Biến Tri chiếu sáng rực rỡ thì chư tỳ-khưu sẽ không đến đủ
1.200 vị, họ chỉ đến đúng 1.008 vị mà thôi; và trước khi đặt chân vào ngưỡng
cửa, các ngài sẽ cất đi cái dù và cái lọc nước. Còn nữa, sẽ có một vị trưởng lão
tên là Gotama - họ của đức Phật - sẽ thâu nhận con trai ta làm đệ tử, truyền tam
quy, ngũ giới cho nó!”
Kỳ diệu thay, mọi sự
việc, mọi diễn tiến đều xảy ra y hệt lời nguyện lạ lùng của đức vua.
Thời gian sau, hoàng
hậu sinh thêm một trai nữa và đặt tên là Tissa. Rồi cả hai được sống trong đức tin Phật giáo.
Hôm kia, sau khi cúng
dường món cơm sữa đặt biêt đến 500 tỳ-khưu, phần thừa còn lại, đức vua, hoàng
hậu và hai con cùng ăn. Sớt một ít trong cái muỗng bằng vàng sang cái đĩa của
hai con, đức vua nghiêm giọng nói:
- Này các con! Nếu các
con từ bỏ giáo pháp của đức Chánh Biến Tri thì cái bụng của các con sẽ không
tiêu hóa được vật thực này!
Một lần khác, khi các
hoàng tử đã trên mười tuổi, cũng nhân dịp cúng dường như vậy, đức vua lại sớt
thực phẩm thừa cho chúng ăn rồi dạy:
- Này các con! Ăn thực
phẩm này, các con sẽ nuôi dưỡng ý nghĩ, là chúng ta sẽ không bao giờ quay lưng
với các vị tỳ-khưu - là những vị thần linh ở trong nhà!
Rồi sau đó, một lần
khác:
- Khi ăn những vật thực này, hãy nuôi dưỡng ý nghĩ, chúng ta là hai
anh em, sẽ mãi mãi không bao giờ có lòng thù địch với nhau.
Những lần được giáo
dưỡng như thế, cả hai hoàng tử đều sung sướng, chúng ăn ngon miệng tựa như
ăn thực phẩm của cõi trời.
Trong thời gian Duṭṭhagāmaṇi-Abhaya còn nhỏ, tộc người Dāmiḷa từ Nam Ấn, theo
tà giáo, cố tàn sát đạo Phật, do các tướng quân Eḷāra dẫn binh đã xâm chiếm Bắc đảo. Quân của chúng rất cương mãnh,
lại hung tàn, bạo ngược, giết người như ngóe; đi đến đâu là chúng đập phá chùa
am, tàn sát Tăng lữ - nên vua cha Kākavaṇṇatissa, sau nhiều lần
thất trận, rút lui, về cố thủ kinh đô, khuyên các con nên tránh việc binh đao.
Nên một lần nọ, khi vua
nói với ý rằng:
- Tộc người Dāmiḷa bạo tàn, hung dữ lắm, đừng gây chiến tranh
với họ, chỉ cần cố thủ thành trì, các con nhé!
Thì cả hai hoàng tử đều
bất mãn, bỏ đi!
Lớn lên, Duṭṭhagāmaṇi-Abhaya là một thanh niên vừa tráng kiện vừa
thông minh, chứng tỏ có bản lãnh và uy lực nhiếp phục mọi người. Sau này, Tissa, người
em, dấy binh chống lại anh, nhưng được Duṭṭhagāmaṇi tha thứ vì tình máu mủ, vì
lời hứa với vua cha - mà cũng do nhờ các vị tỳ-khưu đùm bọc, chở che.
Khi vua cha băng hà,
thái tử Duṭṭhagāmaṇi-Abhaya lên ngôi, giao cho em mình chăm lo lương thực, thực
phẩm; còn mình âm thầm ren đúc vũ khí, chiêu mộ quân sĩ, ngày đêm rèn tập huấn
luyện, chuẩn bị cho việc khôi phục giang sơn một cách chu đáo hơn, vì có lần
theo vua cha, thái tử đã cảm giác một lần bại trận nó tủi nhục như thế nào.
Ngày khởi binh, với
quyết tâm cao độ, đức vua Duṭṭhagāmaṇi-Abhaya tôn trí, gắn chặt một viên xá-lợi Phật
trên đầu mũi thương, đến tịnh xá Tissamāhārāma, nói với chư Tăng rằng:
- Trẫm sẽ đi qua bên
kia con sông Bắc đảo, để đem lại sự vẻ vang cho giáo pháp. Trẫm rất tôn
kính chư Tăng, tôn kính giáo pháp, nên xin các ngài hãy cho 500 vị tỳ-khưu, đi
chung với quân binh; bởi vì các ngài là sự bảo vệ và niềm phúc lạc cho quân đội.
Các ngài đi theo
chỉ để hộ trì uy lực của chánh giáo mà thôi!
Chư Tăng ở đây cảm giác
mình có lỗi - vì trước đây đã vô tình bảo vệ cho hoàng tử Tissa soán nghịch, gây
chiến với vua nên đồng ý cho 500 trăm tỳ-khưu đi theo.
Thế rồi, với đội quân hùng hậu, với những toán dũng sĩ với khiên, giáp, vũ khí
chói ngời; trên mình con voi Kaṇḍula sáu ngà vô địch,
đức vua lần lượt đánh chiếm tất cả mọi thành trì đi ngang qua. Thế trận như chẻ tre, tướng lãnh và quân đội của Eḷāra khiếp phục, chiến bại, đa phần đám tàn
quân bỏ lại vũ khí, chạy dài.
Thấy người chết nhiều
quá, chư
Tăng than phiền, ghê sợ chiến tranh, quyền uy, tham vọng thống trị của con
người. Chuyện đến tai, đức vua xem đấy như lời buộc
tội, khiển trách nặng nề của những bậc hiền trí, ông lập đàn, phát nguyện:
“- Chẳng phải vì tham
vọng, chẳng phải vì quyền uy thống trị, cũng chẳng phải vì lãnh thổ, đất
đai - khiến tôi gian nan, cay đắng thực hiện cuộc chiến tranh này. Tất cả
mọi nỗ lực, ý chí của tôi, mãi mãi vẫn là để thành lập một quốc độ chánh pháp
của đức Chánh Biến Tri. Và nếu đấy là sự thực, là ước nguyện thiêng liêng tận
đáy lòng thì xin cho những chiếc áo giáp trên thân của những chiến sĩ oai hùng
của tôi, có màu của lửa!”
Lạ lùng thay, nhiệm mầu
thay, sau lời phát nguyện, áo giáp của toàn bộ quân sĩ, màu sắc lửa rực lên như
mặt trời màu đỏ.
Đức tin của đoàn quân
bách chiến, bách thắng được xông lên tận mây xanh, sau đó không có thành trì
nào, sức mạnh nào ngăn chặn được họ. Không lâu sau, đức vua
thu
phục lãnh thổ, lấy lại toàn bộ Bắc đảo.
Quân đội vào kinh đô ca
khúc khải hoàn. Vua bước qua những xác người
và những dấu tích đổ nát, điêu tàn của khói lửa, lòng chùng xuống. Trên thượng lâu, mọi trần thiết xa hoa mỹ lệ, nhạc công, vũ nữ, tiên
nga, thượng yến được dành sẵn cho vị anh hùng chiến thắng; nhưng đức vua không
vui.
Đành rằng là ước nguyện chánh đáng, nhưng giết người nhiều quá
đã làm cho tâm nhà vua bất an, phiền não.
Những vị đại trưởng lão
A-la-hán có 6 thắng trí, biết được tâm ý của đức vua, tức tốc cử 8 vị A-la-hán
xuyên qua hư không, nửa đêm, đáp xuống cung điện. Đức vua sợ hãi, bước ra đảnh
lễ rồi hỏi lý do.
Các ngài đáp rằng:
- Các bậc đại tôn túc
trưởng lão ở trong rừng sâu cử chúng tôi đến đây để an
ủi bệ hạ.
Đức vua thở dài:
- Làm sao có được sự an
ủi nào dành cho trẫm được, thưa chư
đại đức! Khi mà trẫm đã gây ra cuộc tàn sát, giết người với đầu rơi, máu chảy
bạo tàn, kinh khiếp như thế!
Một vị A-la-hán chậm
rãi, mỉm cười giải thích:
- Đức vua chỉ thấy một,
biết một nên sinh ra buồn rầu, lo nghĩ. Cái tâm ăn năn hối quá ấy là rất tốt.
Tuy nhiên, chư
đại trưởng lão cho biết rằng, trong mười phần số người bị chết, chỉ có một phần
rưỡi là bị chết oan - vì họ là người hiền lành, sở dĩ đi lính là vì bị cưỡng
bức. Số còn lại, tám phần rưỡi là không có đức tin với thiện pháp, họ sống
theo tà giáo, ác giới đã quen nề! Họ chết là do nghiệp của họ.
Vậy, nghiệp giết người vô tội của bệ hạ, chưa hẳn là chướng ngại ngăn chặn con
đường đến với cõi trời - nếu bệ hạ biết tìm cách sám hối, biết tìm cách đem lại
vinh quang cho giáo pháp của đức Phật trong suốt quảng đời còn lại. Hãy
tức khắc bỏ đi nỗi lo lắng trong tâm đi, hỡi chúa của loài người!
Cuộc đời của vị minh
quân này là như vậy đấy.
Và sau đây là một số
việc làm đặc sắc để phụng sự giáo pháp của đức vua:
- Kiến tạo tịnh xá
Maricavattvihāra:
Sau khi được các vị
A-la-hán dùng lời đúng đắn giải thích, đức vua Duṭṭhagāmaṇi-Abhaya tạm thời nguôi ngoai, sự bứt rứt, ăn
năn có lắng xuống; tuy nhiên, vị ấy luôn luôn tự vấn, xem xét lại mình, là trong
quá khứ, có lần nào xúc phạm đến Tam Bảo, có lần nào không nghĩ đến Tăng và có
khiếm khuyết nào trong việc hộ độ, cúng dường hay chưa? Rồi đức vua thấy rằng,
chưa có lần nào tâm tịnh tín lay động, chưa có lần nào là không nhiệt tình, chí
thành trong việc phụng thờ Tam Bảo, cúng dường chư Tăng. Nhưng quả thật, có một
lần, một lần duy nhất, khi dùng một món ăn ngon, ông đã không nghĩ đến chư Tăng!
Do nghiêm túc, nghiêm khắc với chính mình, vua nghĩ, phải làm một công đức lớn
để sám hối, để chuộc lại lỗi lầm này. Thế rồi, sau những lễ hội, những cuộc vui
ăn mừng chiến thắng, đức vua bắt tay xây dựng một công trình vĩ đại, ròng rã
suốt ba năm mới hoàn thành. Đấy là một công trình kiến trúc
quy mô, gồm có tịnh xá, bảo tháp, những tòa nhà lớn bằng những vật liệu tốt
nhất, quý nhất thời bấy giờ.
Ngày khánh thành, vua thỉnh chư Tăng trong nước, hàng ngàn vị, cúng dường trọng
thể, rồi sau đó làm lễ cúng dường toàn bộ công trình ấy đến Tăng. Vua cũng tuyên
bố lý do của công trình là sám hối một lần trong đời “là dùng một món vật
thực ngon mà không nghĩ đến chư Tăng”! Thật là bài học của
người hiền trí, ngài muốn cả quốc độ noi gương ngài để hết lòng phụng thờ Tam
Bảo, làm cho chánh pháp được rạng ngời và vinh quang.
Ngân ngoản chi phí cho
công trình này - theo Mahāvaṃsa - là gần một Koṭi tiền vàng (mười
triệu).
- Kiến tạo Đại Bảo
Tháp (Mahāthūpa) còn được gọi là Thanh Đồng Điện (Lohapāsāda)
.
Một sự tình cờ, hôm
kia, đức vua tìm thấy một cái đĩa bằng vàng, nằm trong một cái rương cũ đựng
châu báu, đã có ghi một hàng chữ có từ thời đức vua Devānaṃpiyatisa: “Trong tương lai, đúng 136 năm sau, một đứa con trai
của đức vua Kākavaṇṇa là Duṭṭhagāmaṇi, cai trị vương quốc, sẽ xây dựng một tòa bảo tháp vĩ đại như
vậy… như vậy… để thờ Xá-lợi - là dấu ấn vinh quang của triều đại chánh pháp”.
Đức vua vui mừng, bảo
đọc cho cả triều đình cùng nghe, sau đó, đến công viên Mahāmegha, thỉnh mời
chư vị tôn túc trưởng lão ở kinh đô. Chư Tăng đề cử 8
vị A-la-hán có thắng trí, tổ chức một buổi hội thảo, lấy ý kiến của các ngài về
công trình sẽ kiến tạo.
Để đúc kết, đức vua
nói:
- Quý ngài có năng lực
thần thông, vậy xin hãy gởi đến con một bản vẽ giống cung điện của
chư thiên, con sẽ thực hiện y như vậy.
Tương truyền, sau đó,
các vị trưởng lão đã phải lên cõi trời Ba Mươi Ba, vẽ theo mẫu một cung điện đẹp
nhất, bằng đất tỳ sương(?) trên một tấm vải lụa rồi
mang về trình chư Tăng xem, đưa cho đức vua thực hiện.
Thật không thể kể hết
sức người, sức của, ngọc vàng châu báu, nhiệt tình, một lòng một dạ, tâm huyết,
đức tin từ chư Tăng, đức vua, triều đình bá quan và bách tính để kiến tạo công
trình lịch sử, tôn giáo tín ngưỡng có một không hai trên trần thế. Chúng ta thật
không thể tưởng tượng công phu và thời gian, sự chu đáo, toàn mãn, nguy nga, đồ
sộ của ngôi Thanh Đồng Điện cao chín tầng, một ngàn căn phòng ở xung quanh với
tất cả sự trang trí, hoa văn, họa tiết rực rỡ sắc màu; những bức tường được chạm
trổ, điêu khắc các tiền thân Phật cũng như các chi tiết, hình ảnh đức Phật từ
Đản sinh đến lúc ngài Nhập diệt… nó huy hoàng, lộng lấy, hoành tráng, kỳ vĩ như
thế nào; nhưng rõ ràng là đức vua đã làm đúng với ước nguyện của mình.
Sự tôn trí xá-lợi, sau đó, cũng là việc duy nhất và hy hữu trong tầm quy mô,
long trọng không thời nào có được. Đức vua còn thiết lễ cúng dường, hàng
ngàn, hằng vạn, như sông như biển đến chư Tăng, không
thiếu sót bất kỳ một ai (xem thêm Mahāvaṃsa).
Đến cuối đời, trước lúc
lâm chung
của đức vua hiền thiện, Mahāvaṃsa thuật lại như sau:
Hôm ấy, vị quan viết sử
đọc cho vua nghe những công đức, những việc làm của đức vua cho chánh pháp:
- Vua đã xây dựng được
99 tịnh xá. Đặc biệt là tịnh xá Marivavaṭṭivihāra, phí tổn 19 koṭi;
Thanh Đồng Điện chi phí hêt 30 koṭi. Còn phần mỹ thuật, trang trí các nơi bằng ngọc vàng châu báu lên đến
1000 koṭi.
- Nạn đói xảy ra ở Koṭṭa, vua đã bán hai chiếc
bông tai quý giá, làm một món cháo kê chua, tự mình không ăn mà đem dâng cho năm
vị trưởng lão với tâm tịnh tín.
- Trong cuộc chiến bại
trận ở Cuḷanganiya (trước đây khi
quân của Eḷāra chiếm Nam Đảo), vua
đã nhịn ăn
để dâng vật thực cho trưởng lão Tissa.
- Lễ dâng cúng Thanh
Đồng Điện, suốt một tuần lễ, vua tổ chức một cuộc cúng dường lớn đến
chư tăng với vật thực thượng vị.
- Vua đã tổ chức được
24 đại lễ Vesak.
- Đã ba lần dâng cúng Y
đến chư Tăng.
- Đã năm lần, mỗi lần 7
ngày, vua đã dâng “địa vị cai trị - vương quyền” đến giáo pháp.
- Cúng 1000 cây đèn với
những tim bấc trắng thường xuyên ở 12 tịnh xá để cúng
dường Phật.
- Ở 18 tịnh xá, vua
cúng dường đều đặn cơm đề hồ trộn với mật ong, bánh Jāle nướng bằng
bơ.
- Cúng dầu để đốt đèn
mỗi tháng một lần ở 8 tịnh xá.
- Vì nghe bố thí pháp
là cao quý, nên ở Thanh Đồng Điện, đức vua đã thuyết pháp trên chiếc ghế của
pháp sư bài kinh hạnh phúc (Maṇgalasutta); nhưng do lòng kính trọng Tăng, vua đã không thuyết
được; sau đó vua truyền lệnh cho tổ chức các buổi thuyết pháp khắp các tịnh xá
trong nước. Vua đã khuyến khích và ban thưởng cho các vị pháp sư.
Vua làm công đức rất
nhiều, phước sự rất nhiều, nhưng chẳng có việc nào làm vua hoan hỷ bằng hai lần
cúng dường: Lúc đói lòng và lúc nguy khốn dâng vật thực cho các vị trưởng lão.
Được nghe chuyện đó,
trưởng lão Abhaya, bậc có 6 thắng trí, giải thích thêm cho vua biết rằng:
- Cả hai lần bố thí ấy
đều hy hữu và vi diệu. Khi vua bán hai chiếc vòng tai quý giá để làm món
cháo kê chua; tự mình nhịn đói, không ăn, lại đem dâng cho 5 vị trưởng lão
A-la-hán; vì muốn cho phần phước báu của bệ hạ trổ sanh to lớn hơn, các ngài đã
dùng năng lực thần thông chia sớt vật thực ấy cho nhiêù chục ngàn vị tỷ-kheo
khác rồi mình dùng sau.
Đức vua hoan hỷ quá,
ông nói:
- Trong 45 năm trị vì,
trẫm đã làm người bảo trợ cho chư Tăng không kể đến thân mình, điều ấy có thật. Bây giờ,
phía bên ngoài đại bảo tháp, nơi chư Tăng thường hay hành lễ, tại chỗ ấy, chư
Tăng hãy thiêu xác trẫm; trẫm muốn cái xác của trẫm cũng là người hầu hèn mọn
của chư Tăng!
Nói thế xong, vua quay
qua trăn trối với hoàng đệ:
- Công trình xây dựng
bảo tháp, còn chỗ này chỗ kia
chưa hoàn mỹ, hoàng đệ hãy quan tâm đúng mức. Sáng và chiều, hoàng đệ hãy cúng dường hoa đến bảo tháp. Tất
cả những buổi lễ trong năm cúng dường chánh pháp, hộ độ chư
Tăng mà ta đã thực hiện, hoàng đệ hãy làm theo như thế. Đừng bám víu vào của cải, tài sản.
Chánh pháp là trân quý nhất. Đừng bao giờ buông lơi
phận sự đối với chư Tăng.
Ngay lúc ấy, biết đức
vua sắp ra đi, chư
Tăng bèn tụng kinh. Cũng lúc ấy, đức vua thấy 6 chiếc xe
có 6 vị trời cao sang xuất hiện; họ nói với ông, chỉ riêng ông nghe: “Hãy đi
theo chúng tôi đến cõi trời để hưởng hạnh phúc, tâu đại vương!” Đức vua làm
một cử chỉ xua tay rồi nói với họ: “Hãy đợi chút, để ta nghe kinh đã!”.
Thấy cử chỉ ấy, một số
chư
Tăng còn phàm tưởng đức vua bảo ngưng tụng kinh nên dừng lại. Đức vua bảo:
- Không phải vậy, thưa
quý ngài!
Tất cả triều thần ở
xung quanh đều suy nghĩ như nhau: ”Đức vua bị
khiếp đảm vì sự chết nên nói lảm nhảm rồi!” Để đoạn trừ hoài nghi ấy, trưởng
lão Abhaya bèn nói với đức vua rằng:
- Làm thế nào đức vua
cho mọi người biết rằng là có 6 chiếc xe của cõi trời
đã hiện đến đây?
Vua là người có trí
tuệ, bèn sai quan hầu tung
những tràng hoa vào không trung; tức khắc, những tràng hoa này bị mắc, dính vào
những chiếc xe và lòng thòng giữa hư không. Lúc ấy mọi người
mới biết vua nói thật, và ngài đã rất tỉnh táo vậy.
Đức vua chợt hỏi trưởng
lão Abhaya:
- Cõi trời nào là khả
ái nhất, thưa ngài?
- Đẩu-suất-đà, tâu đại
vương! Là cảnh giới khả ái nhất, lại luôn có Bồ-tát Metteyya (Di-lặc) đầy
lòng bi mẫn, đang ngụ ở đấy.
Đức vua nghe xong, quay
nhìn Đại Bảo Tháp một lần nữa rồi nhắm mắt, tức khắc hóa sanh vào cung trời
Tusita.
Như vậy, cuộc đời của
một đấng minh quân, vốn là hậu thân của một vị sa-di sống đời phạm hạnh, đã đem
đến vinh quang rạng ngời cho chánh pháp tại Đảo Quốc, một lần nhưng mà còn mãi,
khó có triều đại nào ở đất nước xinh đẹp này sánh được.
(Trích Sử Phật giáo
Sri-Laṅkā - sắp phát hành)
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH