Nghĩ về hoằng pháp qua phương tiện Phật giáo tín ngưỡng ở Việt Nam

nghi ve hoang phap

Thích Hạnh Chơn

 

LTS:Việc truyền bá Phật pháp luôn là một sứ mệnh thiêng liêng nhưng cũng đầy cam go đối với người đệ tử Phật. Lịch sử truyền bá Phật giáo cho thấy, sự du nhập của Phật giáo vào mỗi xứ sở đều luôn chịu sử tác động của nền văn hóa bản địa. Việc dung hòa một số tập quán-tín ngưỡng của mỗi xứ sở vào trong Phật giáo, để từ đó giáo pháp Phật giáo dễ dàng được tiếp nhận hơn là điều những người truyền đạo xưa nay từng làm. Để Phật giáo được phổ truyền sâu rộng, người hoằng đạo đã biết khéo léo sử dụng những phương tiện khác nhau nhằm cho quần chúng có thể tiếp cận được với giáo lý Phật giáo theomột cách tốt nhất. Nhưng việc sử dụng phương tiện như thế nào để giáo lý Phật giáo vẫn giữ nguyên được bản chất của nó, và hình ảnh của Phật giáo không bị méo mó thì đòi hỏi đến lòng từ bi và trí tuệ của người hoằng đạo. Thực sự, theo Phật giáo, một người thực hiện phương tiện thiện xảo (upaya) phải luôn có đủ hai phẩm chất từ bi và trí tuệ. Bởi vì thiếu đi hai phẩm chất này, theo cách này hay cách khác, người hoằng đạo có thể gây hại cho tôn giáo của mình và rơi vào những hoạt động mang tính tư lợi. Bài viết dưới đây của thầy Thích Hạnh Chơn đã phác vẽ nên một khía cạnh sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam hiện nay. Khía cạnh đó, có thể được chuyển đổi khi người hoằng đạo nhận thức nó chỉ như một “phương tiện”, và khéo sử dụng nó cho việc đưa quần chúng đến với giáo lý đích thực của Đức Phật, chứ không xem nó như là một sự cứu cánh. Nguyệt san Giác Ngộ chân thành cám ơn tác giả và xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả.NSGN

Phật giáo hiện nay dù muốn hay không vẫn đang tồn tại hình thức tín ngưỡng được các tín đồ thực hành nhiều nơi. Trước nhu cầu thực hành tín ngưỡng rất lớn của các tín đồ (chưa quy y Tam bảo) nói chung và hàng Phật tử(đã quy y) nói riêng, các Tăng Niphải phục vụ nhu cầu ấy với những hình thức rất đa dạng. Qua việc phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, Tăng Niđưaquần chúng về với đạo Phật để từ đó dần dần hướng họ đi theoChánh pháp. Vấn đề này hầu như tất cả Tăng Ni đều biết và hầu hếtđều nỗ lực thực hiện.Tuy nhiên, điều kiện cuộc sống thực tế luôn thử thách ý chí của các nhà hoằng pháp và trong nhiều trường hợp nó kìm hãm vai trò của họ.Để tìm hiểu về vấn đề tế nhị và dễ gây tranh luận này, bài viết sẽ đề cập đến ba vấn đề là nhu cầu Phật giáo tín ngưỡng của tín đồ, việc Tăng Ni phục vụ nhu cầu ấy và sự hoằng pháp qua công việc này.

Hiện thực nhu cầu Phật giáo tín ngưỡng của tín đồ

Trở về nguồn cội của Phật giáo, bóng dáng của tín ngưỡng khó có thể tìm thấy trong đạo Phật. Dĩ nhiên, đạo Phật được đề cập ở đây hẳn phải là đạo Phật nguyên thủy hay đạo Phật nguyên chất theo như cách gọi hiện tại. Theo các kinh điển Pāli, Đức Phậtkhông khuyến khích đệ tử hay tín đồ lễ lạy và cầu nguyện trước bất cứ hình tượng các Đức Phậtquá khứ, các vị Bồ-tát hay các thần linh. Ngài chỉ khuyến dạy đệ tử kính lễ bậc đáng tôn kính nhằm bày tỏ lòng tôn kính đối với họ theo phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương. Đối với Đức Phật, các đệ tử bày tỏ lòng tôn kính bằng cách ôm chân Phật – một cách bày tỏ lòng tôn kính theo truyền thống văn hóa Ấn Độ. Sự cầu nguyện bằng cách xin ban phát lộc từ Đức Phật hay các Thánh đệ tử không tìm thấy trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy. Bài kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt(Sigālovāda sutta) thuộc kinh Trường bộ hay còn gọi là kinh Thiện Sanh thuộc bộ Trường A Hàm có thể được xem như là quan điểm của Đức Phật về lễ bái tín ngưỡng.

Đức Phật khuyến dạy tu tập, thực hành các điều thiện, các điều đạo đức thay vì lễ bái tín ngưỡng để cầu xin suông. Theo nội dung bài kinh vừa nêu, nhân khi thấy chàng thanh niên tên Thiện Sanh (Sigala)lễ bái sáu phương (Đông, Nam, Tây, Bắc, dưới và trên), Đức Phậtđã hỏi chàng thanh niên nguyên do và ý nghĩa của việc lễ bái ấy. Sau khi nghe chàng thanh niên đáp xong, Đức Phật bảo chàng thanh niên trong pháp của Ngài cách lễ sáu phương không phải như vậy. Khi chàng thanh niên thưa hỏi về lễ bái sáu phương trong luật pháp của bậc Thánh, Đức Phật chỉ dạy cho anh về các pháp và các điều đạo đức mà một vị Thánh đệ tử phải từ bỏ hay thực hành theo. Tương ứng với sáu phương, Phật dạy phải hiểu ý nghĩa của nó như sau: phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là vợ con, phương Bắc là bạn bè, phương dưới là người thuê làm, và phương trên là các bậc trưởng thượng, xuất gia, tu sĩ. Tương ứng với mỗi phương hay mỗi mối quan hệ, Đức Phật dạy về bổn phận của mỗi bên[1]. Thực hành được những lời dạy này thì sự lễ bái và cung kính trong pháp và luật của bậc Thánh xem như là đã thành tựu. Tuy nhiên, lễ bái theo cách Phật dạy không phải ai cũng có thể thực hành trọn vẹn, nhất là trong thời đại Phật giáo tín ngưỡng thịnh hành.

Phật giáo tín ngưỡng gồm các hình thức thờ cúng, lễ lạy, cầu nguyện…dần dần xuất hiện sau Đức Phật nhập diệt vài thế kỷ và trở nên phổ biến sau đó cho đến ngày nay.Dựa theo sử liệu thì các hình thức lễ lạy các tháp thờ xá-lợi Phật và Thánh tăng rồi đến lễ lạy hình tượng các Đức Phật có thể xác định là khoảng thế kỷ thứ II, I trước Tây lịch[2]. Ban đầu, tín đồ lễ lạy là để bày tỏ lòng tôn kính, tưởng nhớ Đức Phật và cũng là để học theo đức hạnh của Phật. Nhưng sau đó, sự lễ bái hình tượng các Đức Phật không chỉ dừng lại ở mục đích ấy mà còn là để cầu nguyện và thậm chí cầu xin ban phát phước lộc. Ngày nay, chỉ một số ít các thiền viện, tự viện hướng dẫn các tín đồ lễ lạy thuần túy để tôn kính, học tập đức hạnh của Đức Phật và xem cầu nguyện như là pháp hành. Còn lại hầu hết các tín đồ đến chùa lễ bái đều cầu xin một điều gì đó từ Đức Phật haychư Bồ-tát, Thánh tăng. Điều đó thiết nghĩ cũng là rất bình thường và cũng tốt cho đời sống tín ngưỡng của họ.Tuy nhiên, vấn đề chúng ta cần quan tâm là các hình thức tín ngưỡng bản địa hay các tôn giáo bản địa được đạo Phật dung hóa trong quá trình truyền bá nhiều lúc lấn át Phật giáo tín ngưỡng, bị hiểu lầm là của Phật giáo và trong nhiều trường hợp các hình thức ấy đãlàm cho tín đồ hoang mang và lo lắng tai hại. Tại sao hiện tượng này tồn tại và phổ biến sẽ được đề cập ở phần dưới.

Ở Việt Nam, Phật giáo tín ngưỡng xuất hiện ngay từ những ngày đầu truyền vào Việt Nam[3]và vẫn tồn tại cho đến ngày nay.Từ chỗ Đức Phật là bậc Đạo sư dẫn đường, tín đồ xem Đức Phật như đấng quyền năng cao tột nhất có thể ban phước.Tuy nhiên, vì họ chưa đủ niềm tin tuyệt đối vào Đức Phật và Thánh chúng Bồ-tát nên họ thờ cúng thêm các vị thần khác xuất phát từ các tôn giáo khác hay từ tín ngưỡng địa phương.Dù rằng việc thờ cúng, lễ bái, cầu nguyện là những nhu cầu không thể thiếu của các tín đồ nhưngviệc thờ phụng, lễ bái không đúng Chánh pháp nhiều khi lại đem đến bất an và tổn thất. Một ví dụ dễ thấy là việc cúng sao giải hạn được diễn ra hàng năm vào đầu năm.Rất nhiều người lo sợ gặp sao hạn xấu và tìm nhiều cách đến chùa nhờ thầy cúng giải sao hạn.Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ, các chùa tổ chức cúng lễ cầu an. Tuy nhiên, nhiều chùa còn muốn tu hút tín đồ nên đã tổ chức cúng sao giải hạn với nhiều hình thức đa dạng mặc dù tín ngưỡng này không phải của Phật giáo và cũng chẳng có kinh điển nào dạy về cách cúng giải trừ các sao hạn này. Có thể nói đây là một thử thách lớn đối với Phật giáo nói chung và các vị hoằng pháp (các trụ trì) nói riêng.

Vấn đề phục vụ Phật giáo tín ngưỡng

Phật giáo tín ngưỡng đã và đang tồn tại và việc phục vụ nhu cầu ấy có thể nói là trách nhiệm của Tăng Ni.Tuy nhiên, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng để truyền bá Chánh pháp và phục vụ tín ngưỡng như là cách mưu sinh hoàn toàn khác nhau về bản chất và cách thức hành đạo.Cách thứ nhất thì đòi hỏi thời gian lâu dài và phải có tâm vì Phật pháp trong khi cách thứ hai đem đến kết quả tức thời nhưng mang tính thực dụng không cần biết tương lai Phật pháp. Đứng trước hai vấn đề vừa nêu, sự lựa chọn có thể rơi vào ba trường hợp là: chỉ chọn cách thứ nhất, chỉ chọn cách thức hai, hay có thể chọn cả hai cách và ưu tiên chúng theo từng giai đoạn. Cách thức thứ nhất dành cho những người có tâm muốn truyền bá Chánh pháp thông qua phương tiện tín ngưỡng.Cách thức thứ hai dành cho những người đang có nhu cầu lợi dưỡng vật chất.Và cách thức thứ ba dành cho những người có cả hai yếu tố trên.Tăng Ni sẽ chọn phục vụ tín ngưỡng theo cách nào là hoàn toàn phụ thuộc vào tâm nguyện của họ. Phật giáo không có một quy định cụ thể nào về vấn đề này bởi do tính đặc thù của đạo Phật là tự giác, dùng đức cảm hóa. Nhưng có thể nói, những Tăng Ni chân chánh phát tâm truyền bá Chánh pháp thì cách thức thứ nhất là ưu tiên trước nhất.

Phục vụ Phật giáo tín ngưỡng là trách nhiệm của Tăng Ni nhưng đồng thời cũng là điều kiện sống của nhiều chùa, nhất là ở các tỉnh lẻ.Có thể nói các chùa là nơi đáng tin cậy nhất so với đình, miếu để các tín đồ đến thực hiện nhu cầu tín ngưỡng.Hơn nữa, chùa cũng là nơi có các Tăng Ni kế thừa ổn định để một mặt giữ gìn Phật pháp và mặt khác phục vụ tín ngưỡng.Điều này lý giải tại sao việc cúng sao hạn vẫn tồn tại trong các chùa như đã nêuở phần trên.Trong Phật giáo, điều kiện sống ở các tự viện hoàn toàn phụ thuộc vào Phật tử, tín đồ xa gần có mối liên kết với chùa đó.Phần lớn tín đồ đến chùa để được đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng thay vì học hỏi giáo lý.Thực tế, có rất ít Phật tử đến chùa tư vấn về giáo lý để áp dụng tu tập chuyển hóa những nỗi khổ của họ.Về tín ngưỡng, các hình thức phổ biến bao gồm cúng sao hạn dịp đầu năm, xem ngày giờ, cầu an và đặc biệt cầu siêu lễ tang. Các chùa ở các tỉnh lẽ nếu không phục vụ nhu cầu này thì khó có thể tồn tại vì không có tín đồ, không có tài chính sinh hoạt.Do đó, cách mà hầu hết các chùa đang làm hiện nay là phục vụ tín ngưỡng để có thể duy trì sinh hoạt bổn tự và qua đó ít nhiều đưa tín đồ về với đạo Phật.

Phật giáo tín ngưỡng là phương tiện hoằng pháp

Phật giáo tín ngưỡng là phương tiện Tăng Ni sử dụng để truyền bá Chánh pháp.Như trên đã nói, nhu cầu Phật giáo tín ngưỡng của tín đồ rất phổ biến và việc phục vụ nhu cầu ấy được xem như là trách nhiệm của các chùa.Đó là một lợi thế lớn để các Tăng Ni thông qua hình thức tín ngưỡng đưa tín đồ về với Phật giáo.Đầu năm, chùa nào cũng tổ chức lễ cầu an và thậm chí có chùa cúng sao hạn cho tín đồ. Dĩ nhiên, những chùa nào bày vẽ nhiều cách và đánh trúng vào tâm lý tín đồ thì sẽ thu hút nhiều người đến tham dự. Xét về số lượng thì các chùa ấy thành công. Tuy nhiên, hạn chế của nó là số tín đồ ấy sẽ tiếp tục tin theo sao hạn thay vì tin vào kinh Phật và khó có cơ hội từ bỏ chúng. Kết quả là Phật giáo thường bị chỉ trích là mê tín vì các hình thức không phải của Phật giáo vẫn được áp dụng ở nhiều chùa.

Hướng dẫn cách thức phục vụ tín ngưỡng phù hợp với Chánh pháp sẽ góp phần làm cho Phật giáo thành công trong việc chấn hưng Phật giáo. Trước hết, các chùa cần phải giúp tín đồ ý thức được đâu là giáo lý Phật giáo và đâu là tín ngưỡng không phải của Phật giáo.Một là Giáo hội có thể ra thông tư hướng dẫn tổ chức lễ hội theo tinh thần Phật giáo và tất cả các chùa đều phải đồng loạt thực hiện. Hai là, cho đăng và phổ biến rộng rãi các bài trả lời phỏng vấn mang nội dung hướng dẫn, định hướng của chư tôn đức giáo phẩm có uy tín lớn như bài “Giáo lý nhà Phật không có nghi lễ dâng sao giải hạn” đã đăng trên báo Đời Sống và Pháp Luật[4].Ba là các chùa thuyết giảng, làm tờ rơi, dán thông báo…với nội dung giải thích ý nghĩa và cách thức tổ chức lễ hội đúng Chánh pháp.Sau đó, các chùa phải đồng tổ chức phục vụ tín ngưỡng theo tinh thần Phật giáo, tránh bày biện để câu khách. Hình thức tổ chức tụng kinh Dược Sư cầu an đầu năm thay vì đọc tên sao hạn… là một ví dụ đang được áp dụng tại nhiều chùa. Một khi các chùa – “chủ thể văn hóa”[5] - và người dân có ý thức thì thói quen không phù hợp với giáo lý đạo Phật sẽ dần thay đổi.

Lời kết

Hoằng pháp thông qua phương tiện Phật giáo tín ngưỡng đã được thực hiện ở Việt Nam kể từ khi đạo Phật truyền vào. Trong quá trình truyền đạo, chư vị Tổ sư đã khéo léo dung hóa với các tín ngưỡng khác nhằm cảm hóa tín đồ và ở mức độ nhất định chư Tổ đã thành công. Tuy nhiên, từ khi Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo từ phương Tây thì sự hoằng pháp gặp nhiều khó khăn hơn. Sự cạnh tranh thu nhận tín đồ giữa các tôn giáo buộc Phật giáo phải thay đổi cách thức hành đạo và phong trào chấn hưng Phật giáo là một minh chứng. Dù phong trào đã đem lại những kết quả tích cực nhưng vẫn còn nhiều điều mà Phật giáo hiện tại phải tiếp tục chấn hưng, trong đó có vấn đề Phật giáo tín ngưỡng. Ngày nay, hoằng pháp thông qua phương tiện tín ngưỡng vẫn chiếm phần lớn.Do đó, nếu không có chiến lược cải cách về hình thức và nội dung phù hợp với giáo lý đạo Phật thì số lượng tín đồ mê tín vẫn khó giảm thiểu. Xa hơn, họ có thể bị cải đạo vì không hiểu được giá trị đích thực của Phật giáo.

 



[1] Xem chi tiết nội dung trong kinh Trường Bộ, bài kinh số 31, kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigālovāda sutta).

[2]Nguyệt san Giác Ngộ số 212/11/2013, tr. 3.

[3] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập.1, (Hà Nội: NXB Văn Học, 1994), tr. 54, 55.

[4]http://www.doisongphapluat.com/xa-hoi/giao-ly-nha-phat-khong-co-nghi-le-dang-sao-giai-han-a21036.html#.UwI_AbQZeME

[5]http://dulich.dantri.com.vn/du-lich/quan-niem-vu-loi-cua-xa-hoi-xam-nhap-nang-vao-doi-song-tin-nguong-839706.htm

Chia sẻ: facebooktwittergoogle