Trình độ của những pháp tu
trinh do
Hỏi: Thưa đức Dalai Lama,
xin ngài
vui lòng
giải thích rõ về ý nghiệp và nghiệp sở thành do ý (ý nghiệp và ý nghiệp đã hiện
thực hóa [đã cố ý thực hiện rồi]) như thế nào?
Đáp: Liên
quan đến nghiệp, nói chung, có
hai hệ thống giải thích khác nhau. Hệ thống thứ nhất giải
thích rằng, mọi
loại nghiệp nhất thiết phải sinh
ra từ sự cố ý (tính định hướng - volition) của yếu tố tâm
thức và
hệ thống khác thì cho
rằng, còn
có thân nghiệp hay
khẩu nghiệp nữa. Trong hệ
thống thứ nhất, chính
bản thân
yếu tố
ý hướng tâm
hay là tác
tố mà tâm
muốn thực hiện,
nghĩa là
vào thời điểm mà
tâm ý
đang thúc
đẩy một
hành vi, thì
đấy
được gọi là ý nghiệp (karma
volitif) và trong khi đó, trường phái thứ hai,
giải thích
rằng, tác tố
của ý hướng tâm này tiến hành thật sự bằng hành động (thực
hiện bằng hành động cụ
thể), thì đó
được gọi là nghiệp cố ý hay ý định được hiện thực hóa (karma voulu); như vậy thì cả hai
– ý
hướng tính và hiện thực hóa ý hướng -
gắn liền với nhau bằng tác
tố của
ý hướng tâm
(facteur mentel
volition- yếu tố tâm hướng).
Trường phái
này khẳng định rằng, còn
có sự hiện hữu của thân nghiệp và khẩu nghiệp, những hành
động cố
ý và, tất cả đều có ý nghĩa như nhau, thế nhưng xét rằng, hành vi được thực hiện hay
cố tình
thực hiện xảy ra bằng thân hay khẩu và do vậy, nghiệp hay những hành vi cố ý có thể là
thân, khẩu và
ý nghiệp. Lối
giải thích sau
này được trường phái
Trung
Quán Cụ
Duyên (Madhyamika- prasanguika) khẳng định là chính xác nhất.
Hỏi:
Ngược lại
với trường phái
Duy Thức, sự minh định của
nghiệp liên quan
đến thức, thì trường phái Cụ Duyên cho rằng, nền tảng tương tục trên những gì hình thành dấu ấn hay tập khí của
nghiệp, thì đó
là
cái tôi
đơn thuần
hay duy
ngã (nền
tảng tương tục của
ý hướng do
hành động gây nên, thì
đó là
cái tôi đơn thuần), còn nền tảng tạm thời, thì chính là thức
vậy.
Ngài có thể giải thích điều đó kỹ (chi
tiết) hơn nữa chăng? Nhất là, do
đâu mà
nền tảng tương tục trên những gì ghi thành
ý hướng (các dấu ấn
hay tập khí – prédisposition [empreinte])
lại có thể là cái ngã đơn thuần và rồi
do bằng cách
nào mà
nó không hiện hữu một cách cố hữu cũng không hiện hữu
một cách
tạm thời? Và
liệu rằng, điều đó –
các tập khí – có phải là động cơ
đưa tới quan
điểm nhất thiết duy
tâm tạo
chăng? Và cuối cùng,
các tập
khí ấy di hành ra sao từ đời này sang đời khác?
Đáp:
Khi chúng
ta nói
về cái
tôi hiện hữu bằng cách đặt tên hay hiện hữu giả danh (manière
nominal ), rằng, nó chỉ là cách đặt tên đơn thuần, không có nghĩa
là cái
tôi này, cái
ngã không
có gì
khác hơn
là
cách đặt tên
(không chỉ thuần là
tên gọi mà thôi.) Thực tế là
đối tượng là cái tôi không tự sinh – nó không
tự tồn do tự thể của nó (nó
vô tự
thể), do tính độc lập
của cách giả
danh này, thế nhưng nó duy trì sự tồn tại của mình theo cách đặt tên,
sự giả danh bằng niệm tưởng – người ta ứng dụng các cách biểu đạt thuần danh hoặc giả danh đơn thuần, danh sở
thị. Mọi
danh xưng ấy, đều biểu đạt cho cái tôi thuần túy: thuần túy có nghĩa là,
người ta đã công nhận rằng, khi cái tôi
này được phân
tích sâu
xa, thì nó vốn vô bản chất – nó không thể được
tìm thấy. Thế nhưng, nó không
chỉ là cái tôi (nền tảng thiết
lập trên những gì thành tập khí, những vết in đã được tích tập), chẳng những cái
ngã ấy bị giả danh mà bản thân
của các
tập khí
đó cũng là nguyên nhân tạo nên nghiệp quả:
tất cả điều đó được quy
bằng
tên gọi, mọi hiện tượng cũng đều như
thế. Khi ta nói mọi hiện tượng chỉ là tên gọi, không có nghĩa là chúng không tồn tại;
thế nhưng điều đó minh định rằng, chúng không tồn tại bằng tự tính của chúng (propre
pouvoir), bằng ý nghĩa thật sự của chính chúng, bằng bản chất độc lập của chúng.
Khi cho rằng, căn bản tập khí,
sự lan truyền của các vết in
chỉ là
tên gọi đơn thuần, thì
bạn nên
nhớ rằng, sự hiện hữu của chúng là bất thực (n’a
pas réalité). Sự giải thích vừa qua, cho phép bạn biết đúng sự
thật như vậy và thậm chí không
có gì là khó hiểu. Bạn phải thấy điều này khi
liên hệ đến nghiệp quả: trong ngôn ngữ quy ước của chúng ta, ta nói “có một lúc
nào đó, tôi đã làm nên những việc như thế này,
như thế kia”; vậy, tác giả
của những hành
vi (nghiệp) này là chính tự thân của tác giả - tác giả tức
thọ giả, đấy là
một sự thật. Trên quan
điểm đó, chính bản thân mình là một cái ngã đơn thuần (giả
danh) tương tục, tác giả của hành vi (auteur de l’action - người tạo nghiệp), ta có lý do để nghiệm chứng như thế. Thế nhưng, nếu ta quan
sát vấn
đề cẩn thận, tức là ta quán chiếu nghiệp – khi nghiệp dừng lại – lúc này
ta ghi nhận là, cái tôi của sát-na hiện tại, không phải là cái tôi của sát-na
vừa qua. Tuy nhiên, trong tư duy nội
tại, ta không ngần ngại tuyên bố: “Tôi
đã làm
điều đó.”
Và, những hành vi này
là hoàn
toàn đúng với sự kiện ấy. Do
vậy
(do được
quan chiếu như vậy), cá nhân chịu trách nhiệm (người chủ - possesuer-détenteur) về
hành vi của mình, tức ta là người thừa tự của nghiệp. Có một
sự liên
hệ giữa hành vi (nghiệp - karma) và tác giả của nó, và chính do căn bản-tương tục này mà những gì gắn liền cùng nghiệp (quá
khứ) với quả tương lai của nó (in hình cùng nghiệp với quả tương lai
của nó),
bất luận là trải qua
bao nhiêu
thời gian bị chia cắt (phân hóa)
như thế nào. Sự tương tục của cái tôi –
nghiệp được hoàn
thành và
tích tập – từng thời khắc, nó bám vào cuộc đời ta và rồi nghiệp trước trổ
sanh quả sau. Chính cái tôi đơn thuần tích tập nghiệp này cho ra kết quả
và cũng chính cá nhân đó thôi (không có cá nhân nào khác ngoài anh ta ra –
personne d’autre que lui).
Cái tôi giả danh phụ
thuộc hoàn toàn vào thế giới tâm uẩn và các thân uẩn
(l’agrégat mental et des agrégat physiques –
căn và thức, cảnh giới sắc tâm).
Trong
các trường phái Mật Tông-Du
Già (Tantra-yoga),
người ta phân sắc và tâm uẩn thành những mức độ tinh
và thô. Còn với trường phái Mật Tông Du
Già Tối Thượng (Tantra
yoga Supérieur), thì bản
chất tối hậu của sự giả danh về cái ngã phải là
một uẩn xứ tinh tế, tùy hành cùng
chúng ta
từ vô thủy (commencement des temps); nó chịu
tác động bởi một mức
độ tinh vi
của thức giới, một trạng thái vô thủy,
bất tức
và
tính rốt ráo của nó
là dẫn tới
trạng
thái chứng nghiệm Phật quả (thành tựu quả vị Phật).
Vấn đề ở đây,
không phải để biết là
liệu tâm thức bị các yếu tố tâm phiền não chi
phối mà ta có thể đạt tới Phật
quả hay không,
tất nhiên,
các yếu tố ấy là không thể rồi và, các mức độ
của tâm thức thô trọng lại càng không
thể; chỉ
có tâm thức ở mức độ tối tinh vi mới có tiềm năng đưa ta
tới Phật quả mà thôi. Cái thức tối
vi tế này
diễn tiến từ vô thủy đến vô
chung. Khi chúng
ta chết, thì mức độ thô của thức cũng
biến mất. Vào
phút giây lâm chung, cái thức tối hậu xuất hiện, chính là
cái thức tinh tế này,
được gọi là tâm tịnh quang (claire lumière);
chính cái thức này
đây lập nên sự tương ưng với đời sống tương lai của chúng ta (in bóng xuống đời sống tương
lai của
chúng ta). Theo quan
điểm này, các uẩn xứ của tâm thức tế
vi ấy, tồn tại tương tục một
cách vô gián (trong chiều trải rộng của thời gian).
Theo trường phái
Trung Quán Cụ Duyên, khi một nghiệp sinh
và diệt, thì sự phân rã
của nó có một nguyên nhân,
cũng y như trạng thái phá hủy diễn ra, bởi vì những trạng thái này cũng là những
hiện tượng duyên sinh, bản thân của chúng là một hiện tượng vô thường, tương tục
tồn tại cho đến khi sát na trổ và
thành kết quả.
Liên hệ đến vấn đề cái tôi
xuất hiện, chúng ta đi
tới hiểu biết là
có một cái tôi tồn tại từ vô
thủy đến giờ.
Thế nhưng, vẫn có một cái tôi đặc
thù, được phẩm định bằng các đặc tính,
chẳng hạn, vào thời trẻ
tuổi, hay đời sống con người, các
sai biệt của những kiểu khác từ cuộc sống, của sự cách
tân v.v…Trong
cuộc sống thật sự,
chúng ta dễ
dàng hướng đến cái tôi trẻ tuổi của
mình và nói rằng: “Ồ!
Khi tôi còn
bé, tôi là
một thằng nhóc
ranh mãnh,
nhưng giờ đây, tôi
đã tiến bộ nhiều rồi!”
Người ta có thể phân biệt một phẩm
chất đặc thù định tính
cho một cái ngã, một cái tôi. Một vài tính chất thuộc
về số chung, và tương tục, còn một số tính chất khác,
thì cá biệt và tạm thời.
Hỏi: Thưa ngài, liệu năng
lượng vật chất có đồng nhất với năng
lượng tâm?
Đáp: Nói chung,
bản chất của tâm và vật là hai lãnh vực
khác nhau, người ta thấy rằng, những năng lượng mà
chúng được liên hệ đều hoàn toàn khác biệt. Đối với năng lượng
tâm, nó vốn tồn tại nhiều mức độ thô và tế của tâm thức.
Rất nhiều mức độ của thức phụ thuộc vào các bộ phận thân thể hiện tại của
chúng ta, nó
rất thô
trọng. Trong khi đó,
thức còn có một mức độ tinh tế hơn, ít liên hệ đến thân thể vật chất thô
phù.
Nói cách khác, những mức độ tinh tế của tâm thức có nhiều năng lực hơn là các
mức độ thô, nếu người ta có thể
sử dụng chúng
một cách hữu ích, thì điều đó sẽ tạo
nên nhiều hiệu quả
cho việc chuyển hóa tâm.
Để thảo luận chính xác những khác biệt về năng lượng, người ta cần
khởi sự kiểm tra các khác biệt năng lượng giữa vật chất và ý thức (tâm và vật)
như thế nào.
Hỏi:
Thưa ngài!
Ta có thể tự
giải thoát khỏi vô minh căn bản (vô
minh khởi thủy bẩm sinh – ignorance initial
innée) bằng cách nào?
Đáp:
Có một vài loại vô
minh có
thể được loại trừ bằng
những nỗ lực
nhỏ. Thế nhưng với
loại vô minh căn bản, gốc của sinh tử
luân hồi, chúng chỉ có thể bị trừ diệt bằng những nỗ lực siêu việt mà thôi.
Chủ đề quan trọng của các cuộc thảo luận này là để thấu
hiểu pháp thoại về vô minh như thế nào. Cho đến giờ, tôi đã từng
nói về những căn bản, những nguyên lý nền tảng này. Bằng cách tự cùng nhau
thảo luận, người ta có
thể bắt
đầu thực hành tu
tập.
Hôm nay,
tôi sẽ
trình bày những mức độ của việc tu hành.
Hỏi:
Phương tiện nào là phương tiện
thiện xảo để ứng xử với sân và hận (tham, sân và si) mà không cần chiến thắng kẻ
sân si (cảm hóa mà không cần đấu tranh),
cũng như không
tự mình
biến thành
sân hận?
Đáp:
Nếu như các
bạn cứ
tha hồ
sân hận,
thì nó sẽ
(được dịp) thể hiện bất
tận và bạn
hay cô ấy sẽ luôn
bị phiền não vây khốn. Do vậy,
sân hận càng lúc càng tăng. Điều đó (cách ứng xử
ấy) sẽ không đem lại bất cứ
kết quả khả
quan nào và,
chỉ làm phiền lụy nhiều hơn. Cho dầu
trong một vài trường hợp, thái độ này có thể cần thiết để chống lại hành
vi xấu của kẻ
khác. Tuy nhiên,
tôi cho
rằng, ta
có thể
ứng xử (tùy duyên – cela peut se dérouler) mà không cần phải sân hận. Hãy
đặt mình
vào vị
trí thanh tịnh mà phản kháng, thì ta sẽ nhận được
hiệu quả tích
cực
hơn là phản ứng dưới sự chi phối của những cảm xúc đời
thường (phiền não – vives émotions), bởi
lý do
đơn giản là, những ảnh hưởng như thế sẽ không đưa ta đến với chánh nghiệp (empêchent
d’agir manière judicieuse – ngăn cản tác động của chánh nghiệp). Sân
hận phá hủy những phẩm chất vĩ đại
của trí não loài người, sự đánh giá chính xác thiện,
ác: khả năng của tư
duy “việc này
là xấu xa”, và để chứng nghiệm những hệ
quả thật sự,
tạm thời hay dài
lâu của một hành vi.
Để mang
lại một quyết định sáng suốt, thì điều cần thiết là đánh giá đúng những
nhân duyên và kết quả. (Thay vì) tha hồ sân hận, thì năng lực
để ta dùng thẩm lự là ưu tiên hơn hết.
Đương nhiên,
trong một
xã hội đầy cạnh tranh, nếu các bạn là người thật thà và lương
thiện, trong một số trường hợp, người ta sẽ tìm cách lợi dụng bạn. Nếu như bạn để một cô nào đó hành
động như vậy,
cô
ấy sẽ tự dẫn
mình vào nghiệp bất thiện (hành vi bất lợi – action dommageable) và
tích lũy một nghiệp bất như ý và trong tương lai, nó sẽ làm hại cô ta. Ở trường hợp này,
bằng động cơ từ mẫn, cho phép người ta phản ứng lại tác giả của
hành vi tiêu cực này để
trong tương lai người ấy không
phải hứng lấy những kết quả của nó. Chẳng hạn, những bậc
cha mẹ
từng trải, thỉnh thoảng có thể rầy la, cho con mình ăn
đòn mà không có bất cứ sự sân hận nào; điều đó hoàn toàn hợp lý.
Ngược lại, nếu bạn thật
sự sân
hận, hành
hạ con
mình quá
đáng, thì
bạn sẽ tự hối tiếc một cách sâu xa trong tương lai.
Như vậy, bằng một động cơ trong lành, bậc cha mẹ sẽ dẫn
con mình
đi đúng hướng (cải thiện cách ứng xử sai lầm của con mình).
Điều đó có thể biểu lộ bằng các
phản ứng
gắn cùng với
sự quan tâm
của đứa trẻ ấy vào đúng
thời điểm này. Theo phương pháp ấy ta sẽ có được những lời phúc đáp.
Nếu người ta y trên hệ thống
Kinh thừa (véhicule des soutra ), thì sân
hận được tuyên bố là không thích hợp trong con đường tu tập tâm linh (không
thích hợp với đường tu).
Ngược lại, theo Mật Tông thì sân hận có thể hữu dụng trong tiến trình tu tập.
Trong trường hợp sau này, động cơ nền tảng mãi mãi chính
là đại bi,
còn sân hận, chỉ là động cơ tạm thời. Đối tượng hay mục
đích (của hành
giả) là
phải dùng sức mạnh của sân
hận (như
là phương tiện tu
tập) mà không bị những hiệu quả tiêu
cực của nó chi phối. Nhờ vậy mà sự tu tập đạt được kết quả
nhiều hơn; cũng
chính cách này
mà trong
dòng đời, sân hận vận chuyển nghiệp nhanh chóng,
mạnh mẽ và đầy hiệu quả.
Hỏi:
Cách tốt nhất có phải là thử duy
trì nghiệp sân (thử sống với nghiệp), hoặc để khảo sát nó,
hoặc để chạm trán đó?
Đáp:
Để học cách nhận ra sân hận
hay lòng căm thù (aversion) – thấu hiểu đối tượng sân hận
xuất hiện như thế nào, và tâm thức phản ứng với nó ra sao, bản
chất của sân
hận là
gì, v.v- trong
Phật giáo, có một pháp tu dạy hành giả tự làm
cho tâm thức mình sân hận, mục đích là để quán chiếu nó; thế nhưng, thật sự là không
có hoạt động nào từ sân
hận hiện ra chống lại ai. Nếu, bạn cảm thấy là mình có
thể bị nguy hiểm khi sân hận trào vọt ra, thì cách tốt nhất là nên “cài
then cánh
cửa lòng
mình” –
bên trong của chính mình – và lúc này để sân hận thể hiện toàn diện, sau
đó quán sát nó.
Đối
với một vài loại thuộc về vấn đề
niệm tưởng, chẳng
hạn,
sự thoái
tâm (dépression),
có
thể
rất
hữu ích khi
để nó xuất
hiện và sau
đó chỉ
nên
thảo luận về nó:
điều đó sẽ
làm thanh
tịnh cảm thọ của
chúng ta
(làm giảm đi
các
cảm giác tiêu cực bên trong của
chúng
ta
bằng cách phân tích chúng). Tuy
nhiên,
một
vài
loại
niệm tưởng hỗn loạn khác, chẳng hạn, sự sân hận, thế lực bám chấp, chúng có khả năng tự tái hiện
hơn
là
người ta bắt chúng lộ diện; để làm cho những
loại (phiền
niệm) này yếu
đi, chỉ
có
một
giải
pháp duy nhất
là chúng
phải
được chuyển
hóa
(kềm chế). Người ta không nên chờ đợi và để sân hận cũng như
bám
chấp phát
triển theo hướng tăng thượng, rồi ra
sức
kiểm soát, vì
làm như
thế
sẽ rất
khó mà
chế ngự chúng. Tốt hơn hết là bao giờ ta
cũng nên
phản tỉnh bằng cách
tu tập
hằng ngày
về sự
lợi lạc của lòng bi, tâm yêu
thương, và sự tử tế
v.v…về những phiền não và sự sai lầm của sân hận. Từ những quán
chiếu
như
thế, đưa tới sự
tích tập, nối kết với việc
phát triển
nhận thức về
giá trị
của
lòng
yêu thương (đại
bi
tâm);
khi
chánh kiến
và sự
phát
triển được liên
tục
nhân
lên,
thì
kết
quả là ta giải thoát khỏi sân hận
và
trú
trong
đại bi.
Dưới
sự ảnh
hưởng
của sức mạnh
yêu
thương, thì ngay cho dù bạn bị sân hận bủa vậy, thì nó chỉ xuất hiện trong cùng một cách (như là nó),
và
dụng lực của nó chẳng có gì đáng kể. Đấy là con đường của thực hành:
người ta cần phải trải qua
nhiều thời gian (hành
giả cần phải có quá
trình công phu), bởi vì, những trạng thái của tâm thức chỉ có thể
chuyển
hóa
dần
dần mà thôi.
Hỏi:
Nếu như
cái tôi, cái
ngã là
bất thực, vậy người ta phải nỗ
lực như thế nào
để tu thiền (thực
hành thiền định)?
Đáp: Thật là một câu
hỏi tuyệt vời. Ở đây,
cái ngã tác
động đến cách
lý giải sai mà ta
vừa luận bàn. Ta hiểu không đúng về bản chất trống rỗng
của hiện thể (tánh
không của
các pháp), chúng
ta kết
luận về hiện thể là tự
không, dẫn
đến quan điểm là không có gì
tồn tại
cả - đoạn kiến. Chủ nghĩa hư
vô là một sai lầm (tà
kiến). Nếu các bạn cho
rằng mình
không hiện hữu, vậy thì, bạn hãy dùng một vật nhọn nào đó đâm vào ngón
tay mình đi! Dẫu cho, bạn chưa nắm bắt được cái tôi này, nhưng rõ ràng là nó tồn tại –
Tôi đau.
Hỏi: Tôi đã nhận được từ
thầy (bổn sư)
mình các giáo chỉ và những bài
học vỡ lòng, nhưng giờ đây tôi đã
mất một ít
niềm tin
vào vị
ấy. Tôi phải làm gì đây?
Đáp: Đấy là một dấu hiệu cho biết là bạn đã
không được thận
trọng lúc sơ phát
tâm.
Nếu niềm tin duy nhất là đủ (nếu chỉ có tin là đủ), thì đức Phật đã không
có lý do gì thị
hiện những phẩm tính tối yếu của một bậc đạo sư, bằng cách giảng dạy những chi tiết vĩ đại về
chủ đề này trong Luật Tạng (Traités
d’éthique), Kinh
Tạng
(Discours) và trong
Mật Tạng (Mantra secret).
Đây là tầm
quan trọng không thể thiếu cho bất
cứ ai, bậc đạo sư, vị Lama,
học
trò hay môn đệ phải trải qua một số thời
gian để đánh
giá mỗi một người nào khác. Tuy nhiên,
tình trạng mà ta bàn luận
phải
nên
hình
thành một
cách cụ
thể.
Chúng ta
phải xem
những kinh
nghiệm
như thế
là những
lời
cảnh báo
và
hiểu rằng, ta cần đến một nền tảng vững chắc: đó
là điểm cốt yếu
để phân tích, để tự thân mình
đánh giá.
Tôi hay nói rằng, khi người ta tiếp nhận
những giáo
chỉ, thì người
ta không
nên
xem người dạy như
là
thầy; chỉ nên xem thầy như là một người
bạn tâm
linh (một
pháp
lữ) mà
bạn thọ pháp
từ họ. Như vậy,
dần dà bạn
sẽ tự
đánh
giá được
con
người ấy
và
nắm
bắt chính xác những phẩm chất của vị ấy; và
chỉ
còn
chuyện tiếp
theo
là bạn
có thể
công
nhận họ
như
là bổn sư của “các bạn”.
Đây
là
cách
tốt
nhất để tiến hành.
Nhằm trả lời câu hỏi để bạn biết
bây giờ mình sẽ phải làm gì: nếu như bạn đang ở trong tình huống mà ngay từ lúc
sơ phát tâm niềm tin của mình đã được dâng
hiến hoàn
toàn và,
giờ đây
bạn ghi nhận
là
nó đã mất, thà
tự mình
nuôi dưỡng những trách cứ về người ấy,
còn hơn là mong phát triển một trạng thái lạnh cảm trơ tâm (attitude de
neutralité, d’indifférence). Nói
cách khác, đôi khi sự trách cứ ấy sẽ rất hữu ích khi nghĩ đến giáo chỉ của Phật giáo,
nhất là Phật giáo Đại Thừa mà ở đây khẳng định rằng, một trong những bậc
thầy khéo nhất của chúng ta, chính là kẻ
thù của mình.
Nếu một kẻ
thù làm hại bạn một cách có tính toán, thì đó chính là một
pháp tu
cơ bản
nhầm phát triển lòng tôn kính
sâu sắc và hướng về kẻ đó với lòng
biết ơn. Chính trường hợp này khác hẳn với bậc thầy của các
bạn, bằng mọi khả
năng, bậc thầy không bao giờ
có ý đồ làm hại chúng ta. Xét
theo quan
điểm này,
thì tình huống ấy giúp cải
thiện trạng thái tâm thức của các bạn một cách tích cực nhất.
Hỏi:
Ý kiến của ngài như
thế nào về
những Phật tử Tây
Phương đang
tu pháp Thủ Hộ Thần
(déités protectrices)?
Đáp:
Đây là một vần đề rất phức tạp. (Cho
dù) người ta
có (đức tin) tu tập
tôn giáo hay
không, thì đó là việc của cá nhân và chỉ liên quan đến bản thân
vị hành
giả đó
mà thôi.
Tuy
nhiên, vấn
đề cốt lõi là người ta có nắm bắt được,
vị trí, chức năng của việc tu tập như vậy hay không. Khi quan sát lịch sử
của truyền thống này, thì ta biết rằng,
tu pháp ấy có nguồn gốc
từ Mật giáo.
Trong
hệ thống Kinh Thừa, đôi khi
người ta
đề cập đến bốn bậc đại thánh, và không
có những vị
thánh nào khác
hơn là: Văn Thù Sự Lợi, Quán Thế Âm,
Tara,
Di Lặc và Phổ Hiền.
Trong tác phẩm Đại thừa trang nghiêm kinh (Ornement pour la Claire Réalisation) của Di Lạc, người ta tìm thấy trong chuỗi tu
tập Sáu
Nhiếp Pháp, một phép tu nhiếp tâm với hai hoặc những chư
hộ thần và đó có
thể là
các vị
thánh Tara
hoặc bốn vị đại thánh vừa nêu,
họ hiện thân trong cơ
cấu
của tu pháp này. Mục đích của
pháp tu như thế là
tự mình phải nhất tâm về các vị ấy, những bậc thánh với tư cách chứng tri
được các nghiệp chướng của hành giả.
Ở phương diện
khác, có tất nhiều văn bản Mật giáo đề cập
đến pháp tu Thủ Hộ Thần.
Trong
Mật
Thừa (Véhicule des Tantra), hành giả tu pháp ấy, trước hết phải thụ giới (initiation –
lễ quán đỉnh)
và
rồi
vị ấy phải đắc định (đạt tới trạng thái sâu thẳm của thiền tư) mà trong những quán chiếu như thế về các
Du-già hộ thần
(Thần hộ trì
của phép tu Du-già) dẫn đến
khả năng thực hiện tu pháp này
(đưa hành giả
thành tựu tu pháp này).
Trong thời gian qua,
nhiều người Tây Tạng chống đối phép
tu ấy:
họ hoàn toàn
quên lãng
nó và hài lòng đi tìm những tán thưởng của một nữ
hộ thần nào đó. Điều đó là
một sai lầm tuyệt đối. Đấng hộ trì chỉ có
thể thừa nhận chúng ta
sau khi
ta hiện quán được hành tướng của chính mình như là một vị trời, nghĩa là trên
mặt ý thức, đấng hộ trì này được chứng nghiệm hoàn
toàn; tu
hành không
cốt ở đấng hộ trì mang lại sự hàng phục tâm thức của chính mình.
Trên thực tế, sự
phòng hộ tối ưu của chúng
ta, chính là (Quy
Y) Tam Bảo:
Phật, Pháp và Tăng bảo.
Trong ý
nghĩa thâm
thúy nhất, thì nghiệp của chúng
ta mới thật sự hộ trì và phá hủy
chúng ta. Nếu như ta muốn biết rõ cái gì thật sự ích lợi, thì câu trả lời sẽ là:
thiện nghiệp của mình. Nếu như ta muốn biết cái gì thật sự gây hại cho ta, ta có thể khám phá rằng,
chính nghiệp ác, những hành vi không được tán thưởng của chúng
ta đã
đem tới.
Và, hiểu được điều đó mới là
quan trọng. Với giáo
pháp cơ
bản này, tôi
đi đến kết luận với các bạn rằng, mỗi người có thể tự
mình đánh giá và đơn phương chọn lựa.
Hỏi:
Thưa ngài! Có
phải tham
dục luôn
dẫn tới
(luôn là tác nhân của) bám chấp?
Đáp:
Trong
ngôn ngữ
Tây
Tạng, người ta phân biệt rất
rõ
giữa hai thuật ngữ: ‘dod pa’
và
‘dod
chags’; thuật ngữ thứ nhất chỉ cho tham dục, mong muốn hay
thích thú –
hợp lý hay
phi lý.
Còn
thuật ngữ thứ
hai, dứt
khoát chỉ
cho yếu
tố
phá hủy
(phiền
não).
Người ta
gọi
A-la-hán
là một vị đã thành tựu quả vị bất sinh,
giải thoát khỏi luân hồi (không còn tái sinh, chấm dứt sinh
tử
luân
hồi
– a réussi à
passer
au-delà).
Trong dòng tâm tương tục của một vị A-la-hán, người ta tìm thấy một hình thái của sự ham thích, tuy nhiên, đây là một
hình
thái dục
hợp lý, và
được kiểm soát (thông tuệ -
maîtrise). Bất chấp sự phân biệt về từ ngữ, ngay từ
đầu tu tập, khi người ta còn là một phàm phu (une
être
ordinaire),
thì
việc tách rời khỏi dục đơn thuần – tịnh dục (simple désir) -
và
tham
dục
mang tính phiền
não
như thế nào là vô cùng khó khăn.
Và
thậm chí,
niềm tin
và
lòng
bi
của chúng ta vẫn còn bị vấy bẩn lâu
dài
do khái
niệm
sai lầm
(tà
kiến) về
tự tính
của các pháp, do tập khí chính mình, và do đối tượng của niềm
tin
hay lòng
bi
của
chúng
ta bị
lệch lạc về
tính tuyệt đối nội tại của hữu thể.
Chánh
kiến, ngay khi sơ phát
tâm
là rất
khó,
thế nhưng,
trên
nền tảng
tu hành
có
giới
luật, cho phép chúng ta dần dần nhìn ra được
tác tố
của vô minh,
và các
nhân
tố phá
hoại (phiền não)
và
nhờ
thế, đường tu của chúng ta càng lúc càng
chính xác hơn.
Pháp Hiền cư sỹ dịch