Minh Thạnh
Sức mạnh mềm Phật giáo
Trong những bài viết
trước đây, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về sức mạnh mềm, gồm sức mạnh mềm quốc
gia, sức mạnh mềm văn hóa, từ đó ứng dụng vào đạo Phật, với khái niệm sức mạnh
mềm Phật giáo.
Sẽ có câu hỏi, tu Phật
thì khuất phục ai, chỉ huy ai, điều khiển ai, mà nói đến sức mạnh? Đạo Phật là
đạo nội tâm, đạo hướng nội, thì cần gì đến sức mạnh?
Đúng là khái niệm sức
mạnh mềm mà GS J. Nye nêu ra có liên hệ đến đối tượng tác động, với ý muốn điều
khiển, chi phối. Sức mạnh mềm khác với sức mạnh cứng ở tài nguyên, phương thức,
nhưng cũng đều là sức mạnh, đều có mục tiêu là điều khiển, chi phối đến đối
tượng. Với cách hiểu như vậy về sức mạnh mềm thì liệu đạo Phật có sức mạnh mềm?
Khái niệm sức mạnh là
khái niệm vẫn có trong đạo Phật. Một trong 3 đức tính siêu việt của Đức Phật là
từ bi, trí tuệ và hùng lực. Đức Phật là đấng đại hùng, đại lực. Không hề có việc
đạo Phật đối lập với sức mạnh, không hề có sức mạnh.
Trong kinh Phật, hình
ảnh sư tử hống vẫn thường được sử dụng, biểu trưng cho sức mạnh. Từ “nhiếp phục”
trong đạo Phật chính là động thái thực hiện sức mạnh. Nếu xét sức mạnh liên quan
đến việc tác động người khác, ngoài tự giác, thì một trong 3 yêu cầu của việc tu
tập là giác tha, tức là đem sự giác ngộ đến với người khác, đưa họ đến với chính
pháp.
Phật giáo là một tôn
giáo, mà “tôn giáo vừa là một sản phẩm của
văn hóa, một nhân tố cấu thành của văn hóa” (1). Sức mạnh mềm văn hóa đã là
một khái niệm tương đối thống nhất. Vì vậy, sự tồn tại của sức mạnh mềm Phật
giáo là điều hiển nhiên. Sức mạnh Phật giáo không phải là sức mạnh bạo lực,
cưỡng bức, mua chuộc, đánh đổi…, mà phải là điều phát tâm, tự nguyện. Những yêu
cầu như thế hoàn toàn tương đồng với sức mạnh mềm.
Gần đây, trong triết học
phương Tây, lại có khái niệm “quyền lực tri thức” của A. Toffler. Đây
là một khái niệm khác với sức mạnh mềm nhưng giữa chúng có mối liên hệ, chúng ta
sẽ có dịp tìm hiểu. Ở đây, chỉ muốn nói rằng các yếu tố thuộc về hoạt động tư
tưởng ngày càng được coi là có sức mạnh, tự thân đã là sức mạnh, càng được
nghiên cứu như là những dạng sức mạnh, để sử dụng như một sức mạnh. Điều đó
đương nhiên xác định sức mạnh mềm Phật giáo.
Thống nhất về sức mạnh
mềm Phật giáo, ở đây chúng ta bàn luận xem, sức mạnh mềm Phật giáo có định lượng
được không? Tìm hiểu vấn đề này chính là chúng ta tiến thêm một bước nữa trong
việc xác định, tìm hiểu sức mạnh mềm Phật giáo.
Định lượng sức mạnh mềm
Trước khái niệm sức mạnh
mềm, giới học thuật đã có những ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng khác
với sức mạnh cứng, sức mạnh mềm không thể định lượng, mà chỉ có thể định tính,
cảm giác mà thôi. Ở đây, có vẻ người ta hình dung mềm thì vô hình, sức mạnh mềm
là sức mạnh vô hình, chỉ có thể có cảm tính về nó, khó mà xác định cụ thể.
Trong bài “Think again: soft power” (tạm dịch:
Suy nghĩ một lần nữa: sức mạnh mềm),
GS J. Nye bác bỏ ý kiến cho rằng không thể định lượng sức mạnh mềm. Ông cho là
vẫn có thể định lượng sức mạnh mềm, thông qua các thao tác khoa học xã hội như:
ghi nhận ý kiến, so sánh…
Sức mạnh mềm là một vấn
đề khoa học xã hội. Mà khoa học xã hội vẫn là khoa học. Nó không trừu tượng, mà
vẫn rất cụ thể, và có thể định lượng trong việc nghiên cứu bằng những phương
pháp vẫn dùng trong khoa học xã hội.
Sức mạnh là sự điều
khiển hướng đến một đối tượng. Kết quả đó có thể xác định bằng con số, vì nó là
một thực thể, không phải vô hình mà chỉ có thể cảm thấy.
Văn hóa không phải là
việc cảm thấy, mà có thể định lượng, bằng nhiều đại lượng, thậm chí bằng tiền.
Thí dụ, xu hướng làn sóng văn hóa Hàn, được coi là một đại lượng về sức mạnh mềm
văn hóa Hàn Quốc, có thể tính bằng giá trị hiện kim thu được qua việc xuất khẩu
phim ảnh Hàn Quốc.
Tuy nhiên, trong sức
mạnh mềm, có đại lượng không thể đo được hoặc không thể định lượng chính xác.
Cũng thí dụ đối với làn
sống văn hóa Hàn. Sức mạnh mềm từ làn sóng văn hóa Hàn Quốc có thể định lượng
qua số lượng các sản phẩm Hàn Quốc khác xuất khẩu dưới tác động của làn sóng văn
hóa Hàn. Nhưng trong thực tế, không thể xác định đâu là sản phẩm Hàn Quốc xuất
khẩu dưới tác động của làn sóng văn hóa Hàn. Vì vậy, nếu nói có thể định lượng
sức mạnh mềm, thì chỉ là một phần mà thôi.
Sức mạnh mềm vẫn có yếu
tố vô hình và cảm tính, có nghĩa là phi định lượng. Điều đó gồm cả đối với sức
mạnh mềm quốc gia, sức mạnh mềm văn hóa, sức mạnh mềm tôn giáo.
Thí dụ dưới đây sẽ giúp
chúng ta hình dung về vấn đề vừa nói.
Vatican là một quốc gia.
Vì vậy hoàn toàn áp dụng được khái niệm sức mạnh mềm quốc gia, sức mạnh mềm văn
hóa (trong sức mạnh mềm quốc gia), là các khái niệm của khoa học quan hệ quốc
tế.
Nhưng Vatican là thiết
chế trung ương của Giáo hội Ca tô La Mã toàn cầu. Vì vậy, có thể vận dụng cách
hiểu sức mạnh mềm tôn giáo ở đây, và cả sức mạnh mềm cá nhân, chẳng hạn đối với
giáo hoàng.
Việc giáo hoàng
Phăng-xi-cô nhận chức đã tạo ra chuyển biến mới trong sức mạnh mềm trong các
trường hợp nói trên. Nhưng ở đây có những điều định lượng được và không định
lượng được.
Số người tham dự các
thánh lễ của tân giáo hoàng tại quảng trường thánh Phê-rô có tăng, phản ánh việc
gia tăng sức mạnh mềm. Đại lượng này định lượng được bằng kỹ thuật không ảnh
chụp đám đông (không ảnh là ảnh chụp từ máy bay hay vệ tinh). Nhưng sự chuyển
biến trong suy nghĩ, tâm tư tình cảm của đám đông đó, phản ánh sự gia tăng các
loại sức mạnh mềm nêu ở trên, không thể định lượng được.
Định lượng sức mạnh mềm
Phật giáo
Vì cũng là sức mạnh mềm,
nên sức mạnh mềm Phật giáo có thể định lượng một cách tương đối, như đã nói ở
trên.
Ở Phật giáo Việt Nam,
việc định lượng ít được chú trọng. Chẳng hạn như số lượng tín đồ. Vì vậy, khi
nghiên cứu về sức mạnh mềm Phật giáo Việt Nam, thiết tưởng nên chú ý nhiều đến
những yếu tố định lượng, gồm các con số thống kê trong nghiên cứu khoa học xã
hội như thống kê tín đồ, tu sĩ, ấn bản phát hành, xuất bản phẩm, số lượng truy
nhập các website Phật giáo, diễn tiến tịnh tài hiến cúng, diễn tiến số người
tham dự các lễ hội, hành hương…, các ý kiến về những vấn đề cụ thể…
Đây là những con số định
lượng có thể quan tâm từ nhiều khía cạnh, trong đó có khía cạnh sức mạnh mềm
Phật giáo.
(1)
Trần Quốc Vượng: Tôn giáo và văn hóa,
dẫn theo Thích Thanh Thắng “Những thách thức đối với Phật giáo Nam tông trong tiến trình hội nhập
văn hóa”, trong “Phật giáo Nguyên thủy – từ truyền thống đến
hiện đại” nhà xuất bản Hồng Đức, 2013, trang 574.