Từ Bố-tát (uposatha) có nghĩa là “vào cư trú”,
và trong ngữ cảnh Phật giáo là cư trú trong một tinh xá hay một ngôi chùa. Nhưng
điều này có một lịch sử lâu dài trước thời Đức Phật khi đây là phong tục của
những người Bà-la-môn. Những người này thực hiện những nghi lễ và tế lễ Veda, và
họ đi đến các thánh địa xa nhà của họ để thanh tịnh bản thân bằng việc sống một
đời sống ẩn dật trong một ngày và một đêm, sau đó quay trở về nhà khi các nghi
lễ kết thúc. Bấy giờ, thời điểm họ thực hiện việc ẩn tu này được quyết định vào
các tuần trăng, quan trọng nhất là ngày trăng tròn và ngày trăng non. Hai ngày
khác, là những ngày giữa mỗi nửa tháng, cũng được thực hành.
Ở đây, có thể hữu ích
để nói một vài điều về tháng trăng. Đây là một tháng [về nguồn gốc từ tháng
(month) cùng gốc với từ trăng (moon)] có 29,5 ngày. Như vậy hai tháng có 59 ngày,
tức là một tháng có 30 ngày và một tháng có 29 ngày. Mỗi tháng được chia làm hai
phần: nửa tháng trăng tròn dần và nửa tháng trăng khuyết dành. Dó đó, mỗi nửa có
14 hoặc 15 ngày và trong mỗi nửa số ngày được đánh số từ ngày đầu tiên của trăng
tròn dần (ngày sau ngày của ngày trăng mới/non) đến ngày 14 (hoặc ngày 15) của
kỳ trăng tròn dần, và sau đó từ ngày đầu của kỳ trăng khuyết đến ngày 14 của kỳ
trăng khuyết. Một tháng lịch trăng mới luôn bắt đầu (theo tính toán của Phật
giáo) với nửa tháng trăng tròn dần. Ngày thứ tám (luôn luôn) của hai nửa sáng và
tối là ngày giữa hai nửa tháng trăng.
Vào thời Đức Phật, những nhóm ẩn sĩ và du sĩ
khác nhau sử dụng những ngày trăng tròn và trăng non truyền thống để thuyết
giảng về những giáo thuyết và sự thực hành của họ, trong khi Đức Phật cho phép
các Tỳ-kheo tập họp vào những ngày này để nghe tụng đọc giới bổn (patimokkha) và
giảng dạy Pháp (dhamma) cho những Phật tử tại gia đến tịnh xá.
Từ thời điểm đó cho đến nay, ngày Bố-tát đã
được cả giới xuất gia và tại gia, ở tất cả những quốc gia Phật giáo, thực hiện.
Việc thực hành của các Phật tử, như một tác giả từ Siam (Thái Lan) cho biết – và
có nhiều thay đổi theo địa phương – là như sau: Vào sáng sớm, người Phật tử tại
gia cúng dường thực phẩm cho các Tỳ-kheo đi khất thực, thỉnh mời đến một nhà cư
sĩ, hay người cư sĩ có thể mang thực phẩm đến tịnh xá. Thông thường, người cư sĩ
không ăn trước khi cúng dường thực phẩm của họ cho chư Tỳ-kheo và chỉ có thể ăn
một lần vào ngày đó, đặc biệt ở nơi các Tỳ-kheo chỉ ăn ngày một bữa. Bất luận
thế nào, thực phẩm của họ phải được kết thúc trước buổi trưa. Trước bữa ăn,
người cư sĩ thọ nhận tám giới mà họ phát nguyện thực hiện một ngày và một đêm.
Thường, các Phật tử tại gia đi đến một ngôi chùa địa phương và trải qua trọn một
ngày và đêm ở đó.
Tất nhiên, ở những ngôi chùa khác nhau, cách họ
sử dụng thời gian của họ sẽ không giống nhau và tùy thuộc nhiều vào khía cạnh
của Pháp được nhấn mạnh ở đó: học tập hay thực hành. Ở nơi chú trọng nhiều vào
việc học tập, họ sẽ nghe ba đến bốn bài pháp mà các Tỳ-kheo nhiều hạ lạp thuyết
giảng và họ sẽ đọc sách và có thể có những lớp học về Abhidhamma
để tham gia. Nhưng họ hoàn toàn tự do để sắp xếp thời gian của mình với việc
thiền định, thảo luận Pháp với các Tỳ-kheo.v.v… Ở một thiền viện, người cư sĩ sẽ
ít chuyên chú vào việc tiếp thu kiến thức mà sẽ chuyên về việc thực hành Pháp
hơn, khi hầu hết thời gian của họ được sử dụng cho việc thực hành chánh niệm -
thiền tọa và thiền hành với thỉnh thoảng được các Tỳ-kheo hướng dẫn những bổn
phận hàng ngày của họ.
Như vậy, suốt ngày và đêm này (và người cư sĩ
nhiệt tâm sẽ hạn chế việc ngủ nghỉ) là dành cho Pháp. Các Tỳ-kheo vào những ngày
này phải hội họp (nếu họ có bốn người hoặc nhiều hơn) và lắng nghe một vị
Tỳ-kheo tụng đọc thuộc lòng 227 học giới ở trong Patimokkha. Sự hội họp
này có thể mất một giờ hoặc nhiều hơn và người cữ sĩ có thể, hoặc không thể,
tham gia, tùy theo truyền thống của ngôi chùa đó. Sau khi xong lễ Bố-tát định
kỳ, một số Tỳ-kheo có thể thực hành những phương thức tu khổ hạnh hơn, chẳnh hạn
như không nằm vào đêm Bố-tát, và nỗ lực hành thiền ở trong ba tư thế là đi, đứng
và ngồi trong suốt đêm.
Đây là tóm tắt sự thực hành về việc “vào cư
trú” (uposatha) tại một ngôi chùa ở châu Á. Hiển nhiên một Phật tử mà không có
những điều kiện giống như những điều trên ở trong một quốc gia không phải Phật
giáo thì phải trải qua ngày Bố-tát của mình có sự sai khác. Có lẽ điều đầu tiên
cần xem xét là coi nó có xứng công để cố gắng giữ những ngày Bố-tát hay không.
Tại sao chúng được thực hành vào những kỳ trăng này của tháng? Nguồn gốc của
những ngày Bố-tát trong Phật giáo được tìm thấy ở câu chuyện sau:
Nhân duyên là thế này: Đức Thế Tôn đang trú tại
núi Linh Thứu ở Rajagaha (Vương Xá) và bấy giờ có những du sĩ của những giáo
phái khác nhau có thói quen tập họp lại vào ngày thứ 14 và 15 của mỗi nửa tháng,
và ngày thứ 8 của mỗi phần tư tháng, để giảng thuyết về Pháp (dhamma). Dân chúng
đến nghe họ thuyết pháp. Họ yêu mến các du sĩ của những giáo phái khác nhau và
tin tưởng vào những người này. Vì vậy những du sĩ nhận được sự hỗ trợ.
Trong khi Seniya Bimbisara, vua của nước
Magadha (Ma-kiệt-đà) một mình ở nơi ẩn dật, suy xét điều này và nghĩ: “Tại sao
những Tôn giả (Tỳ-kheo) không cùng hội họp vào những ngày này?”
Thế rồi ông đi đến Đức Thế Tôn và thưa với Ngài
những gì ông đã nghĩ, rồi nói thêm: “Bạch Thế Tôn, sẽ là tốt nếu những Tôn giả
cũng hội họp với nhau vào những ngày này”.
Đức Thế Tôn thuyết giảng pháp cho nhà vua; sau
đó nhà vua ra về. Thế rồi Đức Thế Tôn nhân dịp này thuyết một bài pháp và Ngài
nói với các Tỳ-kheo như sau: “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép hội họp vào ngày thứ
14 và 15 của mỗi nửa tháng và ngày thứ tám của mỗi phần tư tháng”.
Thế rồi các Tỳ-kheo hội họp lại vào những ngày
này khi được Thế Tôn cho phép, nhưng họ chỉ ngồi im lặng. Dân chúng đi đến nghe
pháp. Họ khó chịu, rồi xầm xì và phản đối: “Sao chư Tăng, những người con trai
của dòng họ Sakya, hội họp cùng nhau vào những ngày này lại có thể ngồi câm lặng
như những khúc gỗ thế kia? Sao họ không thuyết pháp khi hội họp nhỉ?”.
Khi nghe điều này, các Tỳ-kheo bèn đi đến Đức
Thế Tôn và bạch lại với Ngài. Nhân đó, Đức Phật đã thuyết giảng pháp, và nói với
các Tỳ-kheo như sau: “Này các Tỳ-kheo, khi có một sự hội họp vào ngày thứ 14 và
15 của mỗi nửa tháng và ngày thứ tám của mỗi phần tư tháng, Ta cho phép thuyết
giảng pháp”. (The Life of the Buddha, trans. by the late Bhikkhu Ñanamoli,
tr.157)
Từ câu chuyện này, chúng ta có thể thầy rằng,
ngày Bố-tát đã phổ biến vào thời đó; và trong thực tế Ấn Độ đã có lịch trăng.
Đức Phật đôi khi cho phép làm theo những thực hành mang tính tập quán sau khi
Ngài đã kiểm tra xem chúng có ích lợi hay không. Trong trường hợp này, Ngài thấy
rằng có những ích lợi đối với việc thực hành Pháp ở trong những ngày Bố-tát, vì
vậy Ngài cho phép. Chúng ta nên hiểu rõ rằng, Pháp (dhamma) ở một vài khía cạnh,
không được Ngài giảng dạy khi không phù hợp với những truyền thống tiền Phật
giáo. Pháp luôn được Ngài giảng dạy dựa trên sự giác ngộ - sau khi nhìn thấy mọi
thứ như chúng thật sự là. Ví dụ, sự giảng dạy về nghiệp – là bởi vì Ngài đã nhìn
thấy sự thật của điều này. Tương tự với những ngày Bố-tát, tầm quan trọng của
những ngày này được nhấn mạnh bởi một số bản kinh ở trong quyển 8 của Tăng chi
bộ (Anguttara-nikaya).
Nhưng nếu việc tính toán thời gian của những
ngày Bố-tát trong truyền thống Phật giáo được ấn định chỉ để trùng với lịch
trăng và những tuân thủ truyền thống nối kết với nó, thế thì ngày nay khi hầu
hết mọi người làm việc ở những quốc gia không theo lịch trăng, nó có lẽ thực tế
là dành những ngày cuối tuần cho khóa tu đặc biệt của Phật giáo này. Có ý nghĩa
nào khác về những ngày Bố-tát rơi vào các kỳ trăng? Một phân ngành của sinh vật
học, được gọi là ngành khoa học nghiên cứu về thời gian và những sự kiện tái
diễn, nghiên cứu sự tái diễn ở trong thiên nhiên và khai mở tầm quan trọng của
những ngày Bố-tát, đặc biệt là việc tuân thủ ngày trăng tròn. Tiến sĩ W. Menaker
ở New York, khi viết trên Chuyên san của Hoa Kỳ Journal of Obstetrics and
Gynecology,
đã nhận xét về kết quả của một sự phân tích dữ liệu dựa trên việc sinh sản và sự
thụ thai rằng, sự trùng hợp giữa tháng trăng là 29.53 và khoảng thời gian trung
bình của chu kỳ kinh nguyệt là 29 1/2 ngày “tạo nên một sự kết hợp những trường
hợp mà chúng chỉ ra tháng trăng hội họp tu tập là trùng vào thời điểm của chu kỳ
sinh trưởng nhục dục của con người”.
Dường như rằng, việc số lượng lớn những Phật tử
tại gia giữ những ngày Bố-tát mãi đến thời gian gần đây giúp giới hạn việc gia
tăng dân số ở những quốc gia Phật giáo. Một vài người cũng đã nhận xét rằng tham
muốn nhục dục đi đến đỉnh vào ngày trăng tròn. Những người mà họ hiểu rằng việc
kiềm chế ở vấn đề này và những tham muốn nhục dục khác là tốt, sẽ thấy rằng có
nguyên do tốt đối với việc giữ ít nhất một ngày trăng tròn như là ngày Bố-tát.
Những người nghiên cứu niên đại bây giờ đang giả định rằng như những đại dương
bị ảnh hưởng bởi mặt trăng, nước ở trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng – “Khi cơ thể
của chúng ta vào khoảng 2 phần 3 là ‘biển’ và một phần ba là ‘đất’, chúng ta
phải phải chống đỡ những ảnh hưởng của ‘thuỷ triều”. (Dr. Menaker). Điều này
dường như hợp lý khi nó được quan sát từ lời dạy của Đức Phật về những yếu tố
(tứ đại): “Những gì là yếu tố chất lỏng bên trong và những gì là yếu tố chất
lỏng bên ngoài, thật sự đây là yếu tố chất lỏng” (xem Maharahulovada Sutta,
Trung bộ) - mặc dù ngữ cảnh của sự trích dẫn này là sự phát triển tuệ quán.
Những ô nhiễm và những cảm xúc có thể được kiểm
soát một cách tốt nhất khi chúng có thể được nhìn thấy – vào khi chúng mạnh
nhất. Nó là không thể để kiềm chế những ô nhiễm trong ta khi chúng không hiển
hiện, mặc dù chúng có thể hoạt động ngấm ngầm. Ví dụ, những người mà họ được
cung ứng đầy đủ tài sản và sự sung túc có thể không nhìn thấy lòng tham hay
không tham nơi bản thân mình ở nơi sở làm; những ô nhiễm này không nổi lên bởi
vì biển tham muốn thoã mãn, mà ở trong đó họ bơi, là đủ độ sâu. Nhưng mỗi khi
người này ở trong một túp lều nhỏ trơ trọi với thức ăn không đầy đủ chỉ một bữa
một ngày và một kỹ luật nghiêm khắc để kiềm chế những hành động của anh ta, vậy
thì hãy xem những gì sẽ xảy ra. Những con yêu quái của biển cả đồng loạt trồi
lên trên bề mặt và la hét đòi vùng biển rộng hơn để nô đùa trong đó. Ngược lại,
thái độ của những Tỳ-kheo chân chính cho thấy con đường đúng giải quyết những ô
nhiễm. Một số trong những thứ mạnh nhất - nhục dục và biếng nhác - hiển lộ chính
chúng vào ban đêm; vì vậy ban đêm được Đức Phật khuyên dạy là thời điểm khi
chúng có thể được giải quyết một cách hiệu quả nhất. Một kẻ thù mà người ta
không nhìn thấy và không nhận biết thì không thể bị đánh bại, nhưng một kẻ thù
được biết rõ và bị tấn công với vũ khí Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh tư
duy, thì kẻ thù đó có thể bị đánh bại.
Điều đó là giống như vào những ngày Bố-tát. Những ô nhiễm mà
chúng xuất hiện thế thì có thể kiềm chế và được giới hạn với việc giúp đỡ của
giới Bố-tát, mà nó bao gồm tám giới.
Chúng ta hay xem xét nó từ một quan điểm khác.
Buông xả là một sợi chỉ chạy xuyên suốt tất cả những thực hành Phật giáo. Nếu
một người thực hành bố thì thì người ấy buông xả những thú vui mà tài sản đó có
thể mang lại. Khi thực hành năm giới là người ta xả bỏ những hành vi mà bao bọc
lấy chúng là những điều có thể làm cho người ta thích thú hay khoái chí, mà
trong trong mọi trường hợp, là bất thiện. Và khi sự nỗ lực được sử dụng để thiền
định, vị hành giả nhiệt tâm nhất sẽ sớm thầy rằng một số lạc thú và sự giải trí
mà cuộc đời này cung cấp thật sự không đi cùng với một tâm thức tự tại và chánh
niệm, vì vậy họ từ bỏ chúng.
Tám giới sẽ được thảo luận bên dưới là phần của
cách thực hành như vậy, một phương pháp tu tập dành cho việc xuất gia tạm thời
của một người Phật tử tại gia. Trong bản kinh được đề cập ở trên, Đức Phật nói
về một người đệ tử chân chính suy nghĩ: Bằng việc cam kết thực hành ngày Bố-tát
với tám giới trong một ngày và một đêm, tôi từ bỏ lề thói của người thế gian và
sống như những bậc A-la-hán đã sống suốt đời của họ: từ bi, thanh tịnh và trí
tuệ. Vì vậy những Chánh giới là một bài kiểm tra về cách người ta có thể rèn
luyện bản thân đến đâu. Điều đó thật sự muốn nói, những trạng thái tâm thiện
tương thích với Pháp đến mức độ nào-tức là sự thực hành tâm tính của ta vượt qua
những tham muốn bất thiện mà chúng được xây dựng trên tham, sân và si là được
bao nhiêu? Việc thực hành tám giới trao cho ta cơ hội tìm thầy điều đó. Và đây
là một sự thẩm tra mà người ta có thể thực hành bốn lần một tháng nếu chúng ta
muốn.
Chúng đã thấy cách người tại gia trong những quốc gia Phật giáo
dành 24 giờ theo định kỳ để đến một ngôi chùa thực hành một vài Pháp (dhamma)
đặc biệt. Nhưng ở nơi không có chùa, không có chư Tỳ-kheo, và không thể trích
thời gian từ công việc thì phải nên làm gì?
Trước hết, vào những ngày này, hay vào một số
ngày trong chúng, ta có thể ở lâu hơn trong phòng thờ. Điều này sẽ bao gồm việc
tụng đọc tám giới thay vì năm giới và nếu ta biết những bài kinh cụ thể nào đó
của Đức Phật, ta có thể tụng đọc. Có một bản kinh thật sự thích hợp để tụng đọc
là kinh Tám giới Bố-tát
(Uposatha-atthangika Sutta, Tăng chi bộ IV), và có thể bổ sung thêm những bài
kinh thông dụng khác chẳng hạn như kinh Từ bi (Karaniya-metta Sutta) và
kinh Đại hạnh phúc (Maha-mangala Sutta). Những kinh dài hơn chẳng hạn như
kinh Châu báu (Ratana Sutta) và kinh Chuyển Pháp luân
(Dhammacakkappavattana Sutta) là thích hợp nếu chúng ta có thời gian.
Ngoài những giới và các kinh, nhiều thời gian
hơn thì nên dành cho việc thiền định vào những ngày này. Vì vậy nếu chúng ta sử
dụng phòng thờ chỉ một lần vào những ngày khác, thì nên sử dụng hai lần vào
những ngày này, trong khi cố gắng ngồi lâu hơn. Khi tám giới được nâng đỡ bằng
tâm thức điềm tĩnh và vững chãi do thiền định mang lại thì chúng sẽ dễ dàng để
giữ.
Pháp mà chúng ta có thể thực hành trong suốt
ngày ở nơi làm việc có thể tự mỗi người quyết định, cần xét đến căn cơ của chính
người ấy và những tình huống xung quanh người ấy. Tất nhiên, ta cố gắng giữ hạnh
kiểm của mình bên trong ranh giới của tám giới và chỉ làm những điều mà chúng
phù hợp với tinh thần của các giới. Ta có thể thực hành bố thí (dana) theo cách
nào đó vào những ngày này, và có những khoảng thời gian ngắn dành cho một vài sự
quán chiếu – nó tùy vào mỗi người để tìm những phương cách cho chính mình.
Tám giới
Đây là tám giới và một vài nhận xét về chúng.
Các giới là như sau:
1. Tôi cam kết giữ giới không giết hại sinh
vật.
2. Tôi cam kết giữ giới không lấy những gì
không cho.
3. Tôi cam kết giữ giới không dâm dục.
4. Tôi cam kết giữ giới không nói dối.
5. Tôi cam kết giữ giới không sử dụng những
chất gây say và kích thích mà chúng là nguyên nhân của sự buông thả, phóng dật.
7. Tôi cam kết giữ giới không thực hiện việc
nhảy múa, ca hát, chơi nhạc, đi xem những buổi biểu diễn giải trí, mang vòng
hoa, xức nước hoa và làm đẹp với mỹ phẩm.
8. Tôi cam kết giữ giới không ngủ chỗ cao rộng.
Người Phật tử tại gia luôn luôn hiểu rằng mỗi
khi họ cam kết giữ tám giới này thì họ cần nên nỗ lực hết mình để không phạm bất
cứ giới nào. Năm giới đưa ra một biện pháp chung dành cho đời sống thường ngày
và trong thực hành người ta có một thái độ linh động đối với những vi phạm nhỏ
của một vài trong chúng. Nhưng tám giới là một nhiệm vụ nghiêm ngặt hơn và không
nên khinh suất vi phạm. Vậy nếu ta thọ trì chúng, ta cần nên thấy có thể chắc
chắn giữ được, mà những trường hợp bên trong hay bên ngoài bất kể là gì, rằng
không có giới nào sẽ bị phạm.
Trong trường hợp của giới thứ nhất, không chỉ
ta không nên sát hại bất kỳ sinh vật nào mà cũng không nên làm loại công việc
nào đó mà nó có thể khiến ta dính vào việc sát hại vô ý. Thậm chí những hành
động mà theo cách này hay cách khác chúng gây hại cho người khác cũng nên tránh
làm vào ngày Bố-tát...
Giới thứ hai cần chú ý vào những vấn đề như
việc sử dụng cho mục đích riêng những tài sản thuộc về một công ty mà ta làm
việc, hay lấy thêm sản vật hay sản vật dư thừa cho riêng mình hay cho người khác
mà không có sự cho phép để làm như vậy. Lấy những gì không cho cũng bao gồm
những việc làm chẳng hạn như giả mạo nguyên liệu để bán và bắt người khác làm
việc mà không trả công đầy đủ…
Giới thứ ba được thay đổi từ năm giới. Ở năm
giới, “tà hạnh” có nghĩa là tất cả mọi loại tình dục mà kết quả là gây hại người
khác – ví dụ, phá vỡ hôn nhân của người khác, hãm hiếp và dụ dỗ trẻ em. Nhưng ở
nơi giới không “dâm dục” này nó có nghĩa rằng tất cả mọi hành vi dâm dục cần
phải được tránh cho dù chúng là sai về hạnh kiểm đạo đức hay chúng được phép ở
trong đời sống thế tục thông thường, cho dù đối với người khác hay là tự kích
thích. Đức Phật nói rằng:
"Không sống trong phóng dật,
Không đến gần dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được nhiều an lạc". (Pháp cú 27)
Và khi sự kiêng cữ này chỉ trong một, hai hay
bốn ngày mỗi tháng thì không có sự khó khăn lớn nào.
Giới thứ tư đòi hỏi một sự xem xét đặc biệt vào
cái lưỡi phóng túng. Điều này có nghĩa là sự nỗ lực thực hành Chánh ngữ, tức là
nói lời chân thật, mang lại hòa hợp giữa người với người, nói hòa ái và có ý
nghĩa. Pháp có tất cả những phẩm chất này và lời nói của ta nên phù hợp với nó.
Người mà giữ những giới Bát quan trai nên cố gắng không vướng vào những tranh
cãi vô bổ và chuyện gẫu thế gian. Và tương tự với những ngôn từ trên giấy: những
báo giấy và tạp chí mà chúng thật sự làm rối tâm trí thì nên tranh xa vào ngày
hôm nay. Nếu ta muốn đọc thì nên đọc một cuốn sách về Pháp.
Nó thật khó để giữ giới thứ năm một cách nghiêm
túc vào ngày nay. Nơi giới này ta phải bao gồm mọi loại chất gây say nghiện mà
chúng được sử dụng cho việc vui chơi giải trí, do đó những loại thuốc phiện nhẹ
và nặng cũng như rượu được xếp vào đây. Một người Phật tử sẽ cố gắng phát triển
phẩm chất cẩn trọng (không phóng dật) trong mọi lúc.
"Không phóng dật, con đường bất tử,
Phóng dật là con đường tử vong:
Không phóng dật, người ta không chết,
Người phóng dật như kẻ chết rồi". (Pháp cú 21)
Giới thứ sáu là theo sự thực hành của các
Tỳ-kheo và nhằm vào việc cắt bỏ sự giải đãi có mặt sau một ngày làm việc và một
buổi ăn tối no nê, trong khi chắc chắn rằng cơ thể nhẹ nhàng thư thái thì thích
hợp cho việc hành thiền. Ở giới này, từ “phi thời” có nghĩa là sau 12 giờ trưa
mãi cho đến bình minh của ngày hôm sau. Không nên ăn trong suốt thời gian này.
Tuy nhiên, ở đây cần có sự linh động đối với những người ra ngoài làm việc. Nếu
ta thấy không yên bởi mõi mệt sau một ngày làm việc khi giữ những giới này thì
trà hay cà phê được phép như là những thức uống làm tỉnh táo. Nếu cơn đói là sự
quấy rầy thế thì bột ca-cao nên chữa nó. Không có thứ nào trong những đồ ăn thức
uống nhẹ này có sữa, mà nó được xem như là thức ăn, mặc dù đường, mật ong và bơ
được phép. Nước trái cây ép (không có cơm trái cây) là những thức uống hợp lý
khác.
Giới thứ bảy thật sự là một sự kết hợp của hai
giới ở trong mười giới của một vị Sa-di và do đó chia làm hai phần: thứ nhất là
về “nhảy múa, ca hát, chơi nhạc, đi xem những buổi biểu diễn giải trí”, và thứ
hai liên quan đến “mang vòng hoa, xức nước hoa và làm đẹp với mỹ phẩm”. Nửa đầu
là nhằm giữ tâm, lời nói và thân thể tránh khỏi tất cả những loại tiêu khiển.
Tất nhiên rằng không phải chúng là “tội lỗi”, mà rằng chúng hướng tâm ra ngoài
thông qua các căn, sanh khởi ô nhiễm và gây nên những xung đột ở nơi có thể là
có yên bình. Vì thế ngày nay, phải gộp vào giới này là radio, ti-vi, nhà hát,
rạp chiếu bóng và những sự kiện thể thao. Đây là tất cả những cách thức làm mất
sự yên tĩnh. Nửa phần hai của giới này là trực tiếp chống lại sự kiêu căng ngã
mạn sanh khởi qua khía cạnh thân thể. Truyền thống ở châu Á là, với những Phật
tử giữ những giới này, họ ăn mặc đơn giản bằng vải màu trắng và không có sự
trang điểm nào. Điều này là không thể đối với những cư sĩ đi ra ngoài làm việc,
nhưng vào những ngày như vậy đồ trang sức có thể để ở nhà, không được sử dụng
nước hoa hay mỹ phẩm, cũng không trang điểm mặt mày.
Giới cuối cùng liên quan đến vấn đề ngủ nghỉ.
Khi tất cả những sự xa hoa đã được từ bỏ, thì sự xa hoa của một chiếc giường lớn,
êm ái nên phải từ bỏ vào đêm này. Ở những quốc gia Phật giáo có thời tiết âm
nóng, một chiếc chiếu trải trên sàn nhà là đủ, nhưng ở nơi thời tiết lạnh lơn
thì một tấm nệm dày hay một chiếc mền gấp đôi đặt trên sàn nhà có thể được sử
dụng. Ở trên một bề mặt cứng cơ thể thật sự buông lõng hơn trên một bề mặt mềm,
cũng có ít dục vọng hơn để ngủ sâu hơn. Vào những đêm này, cần nỗ lực hạn chế
việc ngủ nghỉ đến mức tối thiểu. Một “chiếc giường lớn” muốn nói chiếc giường mà
hai người ngủ. Người Phật tử thực hành những giới này cho một ngày và một đêm
luôn ngủ một mình.
Đây là sự tóm tắt việc thực hành ngày Bố-tát.
Một vài người có thể nghĩ rằng những giới này quá khó để thực hiện ở nơi một xã
hội xa lạ. Những người khác có thể nghĩ chúng dễ tạo nên lo lắng. Nhưng trước
bất kỳ sự phán quyết nào về chúng, hãy cố gắng thực hành chúng vào một vài ngày
Bố-tát và xem kết quả là gì. Sự nỗ lực được bỏ ra để thực hành Pháp không bao
giờ trổ những quả xấu.
Theo truyền thống, ta có thể thực hành tám giới
vào ngày trăng tròn, ngay trăng non và hai ngày giữa nửa mỗi tháng. Điều này
dành cho người mà họ thật sự nhiệt tâm và những điều kiện xung quanh cho phép họ
làm như vậy. Những người khác có thể giữ chúng vào hai ngày Bố-tát – ngày trăng
tròn và ngày trăng non. Hay nếu chúng được thọ trì một ngày trong một tháng, thì
nó sẽ luôn là vào ngày trăng tròn.
Nếu hoàn toàn không thể thực hiện được vào
những ngày như được đề cập, thì ngày Bố-tát có thể được sắp xếp vào những ngày
cuối tuần. Như vậy còn tốt hơn là không thực hành gì cả! Nhưng những người tại
gia có gia đình có thể thấy rằng điều này sẽ xung khắc với những trách nhiệm gia
đình của họ - có thể đối với những thành viên khác ở trong những gia đình mà họ
không phải là Phật tử. Đây là điều mà mỗi cá nhân Phật tử tự quyết định cho mình.
Bhikkhu Khantipālo
Nghiệp Đức dịch
Nguồn: Bhikkhu Khantipālo, Lay Buddhist Practice The Shrine
Room, Uposatha Day, and Rains Residence, Buddhist Publication Society, Kandy,
Sri Lanka, 2007