(Bài 3)
Trong hai bài trước chúng ta đã có dịp tìm hiểu về nguồn gốc, sự hình thành cũng
như một vài nét chính yếu trong giáo lý của gia đình Phật Giáo Theravada. Bây
giờ thì chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu xem gia đình ấy sinh sống ra sao, "sinh
con đẻ cháu" và định cư ở những vùng đất nào, đã từng trải qua những gian nan gì
và tình trạng hiện tại ra sao?
-
Bài 1: Vài nét đại cương về Phật giáo Theravada
-
Bài 2: Các điểm chính yếu trong giáo lý Phật Giáo Theravada
- Bài 3: Lịch sử phát triển của Phật Giáo Theravada
Lịch sử phát triển của Phật Giáo
Theravada
Vài nét đại cương
Sau
gần ba thế kỷ phát triển và ngay sau lần kết tập thứ ba ở Hoa Thị Thành
(Pataliputra) được tổ chức vào khoảng năm 250 trước Tây Lịch, thì Đạo Pháp đã
được hoàng đế A-dục khuyến khích truyền bá ra khỏi biên giới thung lũng sông
Hằng. Đặc biệt nhất là vị hoàng đế này đã giao cho con trai mình là nhà sư
Ma-hi-đà (Malinda) hướng dẫn một phái bộ truyền giáo đến Tích Lan, một hòn đảo
thật xinh đẹp ở vùng biển phía nam đế quốc của ông. Quyết định trên đây của
hoàng đế A-dục đã mang lại một hưng thịnh đầu tiên của Phật Giáo kéo dài hơn
mười thế kỷ. Ba trung tâm phồn thịnh nhất của Phật Giáo được thành lập là: xứ
Ma-kiệt-đà trong thung lũng sông Hằng, xứ Kiền-đà-la (Gandhara) thuộc A-phú-hãn
và Pakistan ngày nay và hòn đảo Tích Lan.
Về
phía bắc, theo con đường tơ lụa thì Phật Giáo từ trung tâm Kiền-đà-la được đưa
vào các nơi khác ở Trung Đông, sau đó là Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều
Tiên và Nhật Bản. Về mạn nam, từ xứ Ma-kiệt-đà thì Phật Giáo mượn con đường biển
từ vịnh Bengale để du nhập vào Miến Điện, Thái Lan, Lào, Phù Nam (miền nam Việt
Nam ngày nay), Chăm-pa (Chiêm Thành / miền trung Việt Nam ngày nay), Chân Lạp
(Campuchia ngày nay), Inđônêxia... Sự lan rộng đó đã tạo ra một thời kỳ phát
triển cao độ và vàng son nhất của Phật Giáo, kéo dài từ thế kỷ thứ II trước Tây
Lịch đến hết thế kỷ thứ X sau Tây Lịch. Tất cả các học phái và tông phái lớn đều
được hình thành trong thời kỳ này. Sau đó thì Phật Giáo bắt đầu suy yếu dần cho
đến ngày nay.
Riêng gia đình Phật Giáo trên đảo Tích Lan thì vẫn "kín cửa then cài" và âm thầm
phát triển một cách khá biệt lập. Bắt đầu từ thế kỷ XI gia đình này mới có người
đi xa mang theo truyền thống tu tập và giáo lý cổ xưa mà mình đã bảo toàn được
đến các nơi khác như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia... Ngày nay ngoài các
quốc gia trên đây là những nơi mà gia đình Phật Giáo Theravada đã định cư và
phát triển một cách vững bền thì cũng có một vài vùng mà gia đình này đã để lại
dấu chân của mình, chẳng hạn như tín ngưỡng Ấn Giáo tại hòn đảo Ba-li bé tí ở
tận miền cực đông của Inđônêxia cũng cho thấy pha trộn một vài nét của Phật Giáo
Theravada. Miền nam Trung Quốc gần biên giới Miến Điện và một vài nơi khác thuộc
các nước Hồi Giáo cũng có một vài sắc tộc theo Phật Giáo Theravada. Trong khuôn
khổ của viết bài này, chúng ta sẽ chỉ nói đến các quốc gia theo Phật Giáo
Theravada từ lâu đời là Tích Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, và chỉ lướt qua
thật ngắn gọn về Phật Giáo Theravada tại các nước Hồi Giáo Á Châu mà thôi. Sau
cùng chúng ta sẽ đề cập đến một vùng đất mới đầy hứa hẹn cho gia đình Phật Giáo
Theravada là thế giới Tây Phương. Sự phát triển của Phật Giáo Theravada tại Việt
Nam là một chủ đề thật rộng lớn và phức tạp nên cũng xin dành riêng cho các nhà
nghiên cứu trong nước có nhiều tư liệu và khả năng hơn tác giả, và do đó trong
khuôn khổ của bài viết này chúng ta sẽ không đề cập đến.
Phật Giáo Theravada Tích Lan
Vào
khoảng năm 250 trước Tây Lịch vua Tích Lan là Devanampiya-tissa trong một cuộc
săn bắn đã tình cờ gặp được nhà sư Ma-hi-đà con vua A-dục từ thung lũng sông
Hằng đến đây hoằng Pháp. Ma-hi-đà thuyết phục được vua Devanampiya theo Phật
Giáo và khoảng mười năm sau đó tức là vào khoảng năm 240 trước Tây Lịch, đã xây
dựng được một ngôi chùa lớn là Đại Tự Viện (Mahâvihâra) tại kinh đô Tích Lan
thời bấy giờ là Anurâdhapura. Không lâu sau đó người em gái của Ma-hi-đà là tỳ
kheo ni Sanghamitta mang một ít xá lợi của Đức Phật và một chồi cây Bồ-đề nơi
Đức Phật đắc đạo đến gặp anh mình ở ngôi chùa này. Sự kiện đó không ngờ đã mang
lại một tác động vô cùng lớn lao đối với những người Phật Giáo Tích Lan. Xá lợi
và chồi Bồ-đề biểu trưng cho sự hiện diện của chính Đức Phật trên hòn đảo này.
Phật giáo phát triển rất nhanh sau đó và lan dần xuống các vùng miền nam của
đảo. Chùa chiền được dựng lên khắp nơi. Ni sư Sanghamitta quyết định lưu lại
Tích Lan và thành lập tăng đoàn tỳ kheo ni.
Sự thành hình của kinh điển
bằng tiếng Pa-li và sự chia rẽ trong tăng đoàn
Vào
khoảng đầu thế kỷ thứ II trước Tây Lịch người Tamil từ miền nam Ấn xâm lược Tích
Lan, giết hại tăng sĩ và gây ra loạn lạc khắp nơi. Năm 109 vua Tích Lan
Dutthagâmani đánh bật được người Tamil ra khỏi đảo và tái lập giao hảo với các
vương quốc trên lục địa Ấn và đồng thời cho xây dựng bảo tháp đầu tiên trên đảo
là Thupârâma. Đến năm 43 trước Tây Lịch người Tamil lại một lần nữa tràn sang
Tích Lan và gây ra loạn lạc suốt 15 năm liền. Vị vua thời bấy giờ là Vattagâmani
nhờ nhà sư Mahâtissa ở một tỉnh nhỏ giúp sức, đã đánh bật được người Tamil ra
khỏi đảo. Để đền ơn Mahâtissa vua Vattagâmani xây cho vị sư này một ngôi chùa
thật đồ sộ là Abhayagirivihâra ngay tại kinh đô Anurâdhapura năm 24 trước Tây
Lịch. Các vị lãnh đạo ngôi Đại Tự Viện rất bất bình về sự kiện này bèn trục xuất
nhà sư Mahâtissa ra khỏi đại tăng đoàn. Nhà sư Mahâtissa đành phải thành lập một
tăng đoàn ly khai là Dhammaruciya. Các biến cố trên đây và tình trạng nơm nớp lo
sợ người Tamil có thể tràn lên đảo bất cứ lúc nào đã khiến các vị lãnh đạo ngôi
Đại Tự Viện quyết định cho ghi chép kinh điển bằng tiếng Pa-li lên các tờ lá bối
(một loại lá dừa nhưng rộng bản). Sự kiện này không ngờ lại là một phương tiện
bảo tồn Đạo Pháp vô cùng hữu hiệu và quý giá. Phương pháp bảo toàn giáo huấn của
Đức Phật bằng cách học thuộc lòng trước đây tuy mang tính cách thiêng liêng thế
nhưng với thời gian cũng khó tránh khỏi một vài thiếu sót và lầm lẫn nào đó.
Theo truyền thuyết thì công việc biên tập và ghi chép hai tạng Luật và Kinh đã
được một ngàn nhà sư uyên bác thực hiện trong vòng một năm. Thế nhưng trên thực
tế việc này đã kéo dài trong nhiều thế kỷ liên tiếp.
Một
biến cố bất ngờ khác lại xảy ra vào thế kỷ thứ IV, tăng đoàn ly khai
Dhammaruciya ngày càng lớn mạnh và gây ra áp lực với vị vua thời bấy giờ là
Mahâsena (trị vì: 334-362). Vị vua này đành ra lệnh san bằng ngôi Đại Tự Viện,
thế nhưng tăng đoàn của ngôi chùa này liền xây dựng lại ngôi chùa ngay sau đó.
Vua Mahâsena không còn cách nào khác hơn là cho xây dựng một ngôi chùa mới thật
to lớn là Jetavanavihâra nhằm hóa giải ảnh hưởng của ngôi Đại Tự Viện. Theo lời
của nhà sư Trung Quốc Huyền Trang thuật lại - tức là vào thế kỷ thứ VII - thì
tăng đoàn của ngôi chùa Jetavanavihâra có một vài chủ trương gần với Đại Thừa,
trong khi đó thì các vị lãnh đạo ngôi Đại Tự Viện vẫn cố gắng bảo toàn truyền
thống cổ xưa. Tóm lại là sự chia rẽ trên đây không nhất thiết là một sự ganh tị
nào cả mà lý do sâu xa hơn là có một số vị trong tăng đoàn có xu hướng nghiêng
về cách tu tập của Đại Thừa. Cũng xin nhắc lại là trong khoảng thời gian từ thế
kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VIII thì Phật Giáo Đại Thừa trong vùng thung lũng sông
Hằng đã đạt được một cấp bậc phát triển thật cao độ, biểu trưng cho thời kỳ vàng
son nhất trong lịch sử của Phật Giáo nói chung.
Sự thành hình của tạng Luận và
sự thắng thế của khuynh hướng bảo thủ
Nhận xét trên đây của nhà sư Huyền Trang trước hết cho thấy Đại Thừa Phật Giáo
cũng đã được đưa vào đảo Tích Lan, thế nhưng điều đáng suy ngẫm hơn hết là trong
thời gian này khi tăng đoàn của Đại Tự Viện ra sức bảo toàn giáo lý Phật Giáo cổ
xưa thì trong thung lũng sông hằng Phật Giáo Đại Thừa đã đạt được một cấp bậc
phát triển thật cao độ. Vô Trước sáng lập học phái Duy Thức vào thế kỷ thứ IV,
Kim Cương Thừa và Thiền Học được hình thành trong các thế kỷ thứ V và VI. Trong
khoảng thời gian từ thế kỷ thứ I đến thứ IV một số
lượng kinh sách Đại Thừa khổng lồ đã được trước tác trong thung lũng sông Hằng,
và trong suốt nhiều thế kỷ vùng thung lũng sông Hằng vẫn tiếp tục tạo ra thật
nhiều ảnh hưởng đối với các quốc gia như Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật
Bản... Đồng thời từ vịnh Bengale Đại Thừa Phật Giáo, Kim Cương Thừa, Ấn Giáo, và
cả nền văn minh Ấn Độ nói chung cũng đã được đưa vào các nước Chân Lạp, Phù Nam,
Chiêm Thành, các đảo Sumatra và Java... Cũng xin nhắc lại là nước Phù Nam thuộc
vùng châu thổ miền nam Việt Nam ngày nay được thành lập vào các thế kỷ đầu kỷ
nguyên thế nhưng sau đó đã bị nước Chân Lạp (Chen-la / Campuchia ngày nay) đánh
chiếm và sáp nhập vào lãnh thổ của họ vào thế kỷ thứ VII.
Chúng ta hãy trở lại với ngôi Đại Tự Viện và tăng đoàn khép kín với các vị lãnh
đạo bảo thủ của ngôi chùa này. Vào thế kỷ thứ V nhà sư Buddhaghosa (Phật Âm) từ
miền bắc Ấn đến đảo Tích Lan nghiên cứu hai tạng Luật và Kinh, đồng thời dịch
các văn bản bình giải bằng tiếng Cinhalese lưu giữ ở ngôi Đại Tự Viện này sang
tiếng Pa-li. Sau đó ông trước tác một tập luận vô cùng quan trọng là
Visuddhimaga (Thanh Tịnh Đạo) nhằm hệ thống hóa và thiết kế toàn bộ phép luyện tập
thiền định của Phật Giáo Theravada. Ngoài ra cũng phải kể đến hai vị sư khác là
Buddhadatta (Phật Thọ) và Dhammapâla (Hộ Pháp) từ miền nam nước Ấn cũng đã thân
hành đến ngôi Đại Tự Viện để nghiên cứu các kinh điển ghi chép trên lá bối và
cũng đã góp phần thật tích cực vào việc hình thành tạng Luận tức là tạng thứ ba
của Tam Tạng Kinh.
Mặc
dù sự cô lập địa lý của hòn đảo Tích Lan là một yếu tố quan trọng góp phần vào
việc bảo toàn truyền thống cổ xưa của gia đình Phật Giáo Theravada, thế nhưng
không phải vì thế mà có thể ngăn bước tiến của Đại Thừa và Kim Cương Thừa chính
thức du nhập vào đảo vào thế kỷ thứ VI. Dầu sao thì hai thừa này cũng không đủ
sức lấn át được gia đình Phật Giáo Theravada đã bắt rễ từ lâu đời trên trên đảo
Tích Lan, và thật ra một phần cũng là nhờ vào quyết định của vua Vijayabâhu đệ
nhất (1059-1111) đưa Phật Giáo Theravada lên làm quốc giáo. Dầu sao thì từ khi
Đại Thừa và Kim Cương Thừa được đưa vào Tích Lan thì sự bất đồng chính kiến giữa
ngôi Đại Tự Viện với chủ trương phải giữ gìn truyền thống cổ xưa của Phật Giáo
Theravada và ngôi chùa Abhayagirivihâra chủ trương một số đường nét cải tiến của
Đại Thừa, ngày càng trở nên lộ liễu hơn. Tình trạng phân tách này chỉ thật sự
chấm dứt vào thế kỷ XII nhờ vị vua thời bấy giờ là Parakkamabâhu đệ nhất thừa
dịp di chuyển hoàng cung sang kinh đô mới là Polonnaruwa đã lấy quyết định thống
nhất toàn thể các tăng đoàn trong nước và đặt dưới sự lãnh đạo của ngôi Đại Tự
Viện. Kể từ đó trên toàn hòn đảo Tích Lan chỉ còn lại duy nhất gia đình Phật
Giáo Theravada.
Tình trạng độc quyền mang lại
sự tê liệt và cằn cỗi của Phật Giáo Theravada
Tình trạng "bá chủ" và "đồng hóa" trên đây đã khiến cho Phật Giáo Theravada trở
nên cằn cỗi, tê liệt và suy yếu dần suốt trong nhiều thế kỷ sau đó, và cũng đã
đưa đến nhiều hậu quả tai hại. Dựa vào uy
thế độc quyền, tăng đoàn tự cho mình phải đảm nhận nhiều trọng trách: nào là
thực thi nghi lễ, giảng Pháp, triển khai giáo lý, tham gia vào việc giáo dục
cũng như các sinh hoạt xã hội khác. Chủ trương ôm đồm này ngày càng lộ liễu hơn
nhất là trong những sinh hoạt nông thôn. Sự chuyển hướng đó của tăng đoàn lại
càng trở nên trầm trọng hơn nữa khi chùa chiền bắt đầu làm chủ ruộng đất và tham
gia vào việc sản xuất nông phẩm. Nói chung là tình trạng "nhập thế" trên đây đã
khiến cho tăng đoàn biến thành một công cụ phục vụ vương quyền và không còn nhìn
thấy trọng trách tối thiểu của mình là phải tuân thủ giới luật, tu tập và bảo
toàn Đạo Pháp. Dưới một góc cạnh nào đó các vị lãnh đạo chùa chiền đã biến thành
các lãnh chúa phong kiến.
Bắt
đầu từ thế kỷ XII tăng đoàn bị phân hóa nặng nề, một số tỳ kheo chỉ biết chăm lo
thực thi lễ lạc, một số thì rút lui vào những nơi hoang dã để tu tập thiền định.
Mỗi khi người Tamil gây hấn thì một số tỳ kheo tham gia rất hăng say vào việc
chiến đấu. Gia đình Phật Giáo Theravada bị phân chia thành hai nhóm tương phản
nhau rõ rệt: một nhóm sống tách rời thế tục còn một nhóm thì sống bám vào chùa
chiền và tham gia vào các sinh hoạt xã hội cũng như chính trị. Đồng thời thì
vương quyền cũng không tránh khỏi tình trạng phân hóa chung đó của xã hội. Đấy
là tình trạng của hòn đảo Tích Lan vào đầu thế kỷ XVI khi người Bồ Đào Nha xâm
chiếm các vùng ven biển để thành lập các hải cảng giao thương và buôn bán.
Tình trạng ngược đãi và sự hồi
sinh của Phật Giáo Theravada dưới các chế độ thực dân
Người Bồ Đào Nha đổ bộ lên đảo năm 1505 và hầu như không gặp một sự kháng cự
nào, bởi vì lúc đó Tích lan bị phân chia thành bảy vương quốc và đang lâm vào
cảnh nội chiến. Người Bồ Đào Nha vốn rất cuồng tín, nên đã cưỡng bức người dân
sinh sống trong các vùng chiếm đóng của họ phải theo Thiên Chúa Giáo. Điều này
cũng dễ hiểu bởi vì Âu Châu nói chung và quê hương họ nói riêng vừa thoát ra
khỏi một giai đoạn lịch sử thật cuồng tín là thời kỳ Trung Cổ kéo dài suốt mười
thế kỷ - từ thế kỷ thứ V đến XV - sau khi đế quốc La Mã đa thần bị sụp đổ. Các
cuộc chiến tranh tôn giáo và tranh dành lãnh thổ xảy ra triền miên giữa các nước
ở Âu Châu, đấy là chưa nói đến các cuộc viễn chinh chống người Hồi Giáo ở Trung
Đông.
Năm
1638 lại đến lượt người Hòa Lan đổ bộ lên đảo Tích Lan đánh người Bồ Đào Nha.
Cuộc chiến bất phân thắng bại và hai bên đành phải ký hòa ước vạch ranh giới để
cùng sống chung trên đảo. Mãi đến năm 1656 nhờ liên kết với hoàng triều Tích Lan
- khi đó đã phải rút lui vào "thánh địa" muôn thuở của người dân trên đảo là
vùng đồi núi Kandy để cố thủ - người Hòa Lan mới đánh bật được người Bồ Đào Nha
ra khỏi đảo và chiếm đóng thủ đô Colombo. Tuy nhiên đến năm 1660, người Hòa Lan
lại trở mặt tấn công Kandy và chiếm trọn hòn đảo Tích Lan. Thế nhưng trên phương
diện tôn giáo thì lại xảy ra nhiều cảnh thật trớ trêu: người Hòa Lan theo đạo
Tin Lành không như người Bồ Đào Nha theo Thiên Chúa Giáo. Không những chỉ truyền
bá đạo Tin Lành mà người Hòa Lan lại còn tàn sát những người dân trên đảo trước
kia bị người Bồ Đào Nha bắt ép phải theo Thiên Chúa Giáo, hoặc cưỡng bức họ phải
cải đạo theo Tin Lành. Điều này có thể khiến một vài độc giả ngạc nhiên đôi
chút, thế nhưng nếu tự đặt mình vào địa vị của người Hòa Lan trong bối cảnh lịch
sử của đầu thế kỷ XVII nơi quê hương họ, thì cũng có thể sẽ dễ hiểu hơn về cái
thái độ hung bạo và cuồng tín đó của họ. Chiến tranh tôn giáo đã tàn phá toàn
thể Âu Châu từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII. Riêng nước Pháp trong hậu
bán thế kỷ XVI đã phải liên tiếp đối đầu với tám cuộc chiến tranh tôn giáo liên
tiếp. Nước Hòa Lan thì lâm vào một trận chiến tôn giáo khác không kém phần khốc
liệt gọi là "cuộc chiến tám mươi năm"
kéo dài từ 1568 đến 1648. Vì thế khi người Hòa Lan Tin Lành đổ bộ lên đảo Tích
Lan năm 1638 để đánh người Bồ Đào Nha Thiên Chúa Giáo thì những vết thương gây
ra bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo trên quê hương họ vẫn còn đang rướm máu
trong lòng. Những người dân trên đảo theo Thiên Chúa Giáo vì bị người Bồ Đào Nha
cưỡng ép trước đây cũng chỉ là nạn nhân mà thôi.
Năm
1973 nước Pháp gây chiến với Anh Quốc và Hòa Lan. Dân bản địa của Hoà Lan là
Batave vì muốn tránh bớt cảnh đổ máu, đã thừa dịp nổi lên cướp chính quyền thành
lập nước Cộng Hòa Batave và lập tức tuyên bố "đồng minh" với Pháp. Biến cố này
khiến người Anh lo sợ là hòn đảo Tích Lan - cửa ngõ vào Á Châu - sẽ lọt vào tay
người Pháp, do đó thừa cơ hội những người thực dân Hòa Lan bị bỏ rơi ở Tích Lan
bèn chiếm lấy hòn đảo này. Sự đô hộ của người Anh kéo dài một thế kỷ rưỡi
(1796-1948). Chính sách kỳ thị tôn giáo của thực dân Anh vô cùng tinh tế. Họ
mang người Tamil theo Ấn Giáo từ Ấn độ sang Tích Lan để phá rừng, lập đồn điền
trồng trà và cao su. Người nào có học thì được sử dụng vào việc hành chánh và
quản lý. Thực dân Anh không tin dùng người Cinhalese Phật Giáo trên đảo mà chỉ
dùng người Tamil đưa từ Ấn vào, trước hết cũng vì lý do Ấn Độ là thuộc địa của
Anh từ trước nên một số người Tamil cũng đã bập bẹ được chút vốn tiếng Anh, sau
đó là để tiếp tay với họ canh chừng người dân Cinhalese. Họ tìm cách gạt những
người Phật Giáo ra ngoài các cơ cấu chính quyền, các nhà sư không được giữ các
chức vụ hành chánh như trước... Việc giáo dục được giao cho nhà thờ Tin Lành
(Anglican church), trường học Phật Giáo bị đóng cửa, Phật Giáo không được tổ
chức lễ lạc ở nơi công cộng v.v... Các biện pháp cải đạo được áp dụng đối với
người Phật giáo Cinhalese nhưng nhân nhượng hơn đối với người Tamil theo Ấn
Giáo.
Thế
nhưng lịch sử đôi khi cũng dành cho chúng ta nhiều sự kiện đáng ngạc nhiên và
bất ngờ, nếu không muốn nói là trớ trêu. Năm 1873, một người Anh là William Rhys
Davids (1843-1922) đã mang Tam Tạng Kinh từ Tích Lan về mẫu quốc để dịch và
chuyển thành ngữ tự La-tinh, và nhờ đó chẳng những đã giúp cho Phật Giáo hồi
sinh ở Tích Lan và các nước Đông Nam Á khác mà ngày nay lại còn quảng bá giáo
huấn của Đức Phật trên toàn thế giới (độc giả có thể xem lại bài 1). Năm 1880
một người Mỹ là Henry Steel Olcoots (1832-1907) đến Tích Lan xin quy y và cũng
là người đã có công thiết kế lá cờ Phật Giáo (độc giả có thể xem bài
Nguồn gốc và ý nghĩa của lá cờ Phật Giáo, trên trang web Thư Viện Hoa Sen).
Phật Giáo Theravada Miến Điện
Rất
có thể Phật Giáo đã được đưa vào Miến Điện vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch nhờ
một phái bộ truyền giáo do hoàng đế A-dục gửi đi dưới sự hướng dẫn của hai nhà
sư Uttara và Sona, và theo kinh sách thì nước Miến Điện (Myanmar) ngày nay vào
thời kỳ của hoàng đế A-dục mang tên là Suvarnabhumi. Thế nhưng theo các sử liệu
mới hơn thì Phật Giáo chỉ thật sự bắt đầu được quảng bá và phát triển trong toàn
vùng Đông Nam Á kể từ thế kỷ thứ III đến
thứ V. Trong thời kỷ sơ khởi này hình thức Phật Giáo được đưa vào Miến Điện rất
có thể là Phật Giáo Đại Thừa, tương tự như các vùng Đông Nam Á khác.
Phật Giáo Theravada chỉ chính thức được du nhập vào Miến Điện từ thế kỷ thứ V.
Dù căn bản giáo lý được dựa vào kinh điển bằng tiếng Pa-li, thế nhưng hình thức
Phật Giáo Theravada này cũng đã được pha trộn với một số đường nét tiêu biểu của
Phật Giáo Đại Thừa và Kim Cương Thừa, và thường được gọi là Phật Giáo Môn (Môn
là một sắc dân thuộc miền nam Miến Điện). Ngoài ra vào thế kỷ thứ IX đã xảy ra
nhiều đợt di dân từ cao nguyên Tây Tạng đến Miến Điện, những người di dân này
đều theo Kim Cương Thừa.
Phật Giáo Theravada được chính thức chọn lựa vào
thế kỷ XI
Người Miến Điện gồm nhiều sắc tộc khác nhau, nói chung dân chúng trong vùng phía
nam thuộc sắc tộc Môn, ngôn ngữ gần với tiếng Khmer, dân trong các vùng miền
trung và miền bắc thuộc sắc tộc Birman (còn gọi là Bama) thì có nguồn gốc Tây
Tạng và ngôn ngữ cũng khá gần với ngôn ngữ Tây Tạng. Thời bấy giờ Miến Điện gồm
có hai vương quốc lớn: vương quốc miền bắc được thành lập vào năm 849 với kinh
đô là Pagan, vương quốc miền nam lâu đời hơn được thành lập từ thế kỷ thứ III
trước Tây Lịch với kinh đô Thaton là một hải cảng mở vào vịnh Bengale. Có lẽ
phái bộ truyền giáo của hoàng đế A-dục đã ghé vào hải cảng này và gọi nơi đây là
xứ Suvarnabhumi (ghi chép trong kinh Jâtaka / Bản Sinh Kinh / tiếng Phạn
suvarna
có nghĩa là vàng, bhumi có nghĩa là đất hay xứ sở).
Vua
Anawrahta (trị vì: 1044 đến 1047) của vương quốc Pagan lúc đầu tu tập theo Kim
Cương Thừa thế nhưng sau đó vì ảnh hưởng của nhà sư Shin Arahan theo Phật Giáo
Môn - tức là Phật Giáo Theravada của vương quốc miền nam - nên lại đổi sang Phật
Giáo Môn. Vua Anawrahta nhờ nhà sư Shin Arahan yêu cầu vua Manuha theo Phật Giáo
Môn của vương quốc miền nam gửi cho mình một bộ Tam Tang Kinh bằng tiếng Pa-li.
Thế nhưng vị vua này lại từ chối. Vua Anawrahta bèn khởi binh đánh chiếm vương
quốc Thaton năm 1057 và thống nhất lãnh thổ. Thế nhưng theo các học giả Tây
Phương thì vua Anawrahta sở dĩ đánh chiếm vương quốc Taton không phải là vì bị
vua Manuha từ chối không gửi cho mình bộ Tam Tạng Kinh mà đúng hơn là để ngăn
chận đế quốc Khmer (nước Chân Lạp) lúc đó đang vào giai đoạn cực thịnh và có ý
đồ xua quân mở rộng biên giới về phía tây. Vua Manuha và 30 000 nhà sư cùng với
rất nhiều nghệ nhân của vương quốc Thaton được đưa về Pagan tiếp tay xây dựng
kinh đô này, và họ cũng đã thực hiện được 2 000 ngôi chùa và bảo tháp. Vua
Anawrahta giao hảo với Tích Lan và được vua Tích Lan là Vijayabâhu gửi tặng xá
lợi của Đức Phật.
Vào
thời kỳ này thì Tích Lan cũng đang bị người Tamil từ lục địa Ấn xâm lược và
khuấy phá. Đế quốc Cola (còn viết là Chola, thế kỷ XI-XIII) ở miền nam Ấn lúc đó
rất mạnh, người Tamil xâm lược khắp nơi từ bắc Miến Điện đến Mã Lai và cả
Indônêxia. Chùa chiền trên đảo bị người Tamil phá hủy nặng nề, tăng đoàn phân
tán, không còn giữ được "truyền thống tu tập" (tạm dịch từ chữ
nikaya
trong tiếng Pa-li, có nghĩa là một tập thể tu tập hay một hệ thống giáo lý
chung) như trước đây nữa. Tất nhiên là trong các thời kỳ loạn lạc không sao
tránh khỏi việc kinh sách bị mất mát và tăng đoàn tan rã. Vua Vijayabâhu của
Tích Lan phải cậy nhà sư Sin Araham làm trung gian xin vua Anawratha của Miến
Điện gửi cho mình một bộ Tam Tạng Kinh để phục hồi lại Phật Giáo Theravada.
Năm
1071, ngoài việc gửi tặng vua Tích Lan một bộ Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pa-li để
hồi đáp lại món quà vô giá là xá lợi của Đức Phật mà mình đã nhận được trước
đây, vua Miến Điện Anawratha còn cử thêm một phái bộ gồm nhiều nhà sư thật giỏi
đến Tích Lan để giúp xứ này hồi phục lại "truyền thống tu tập" đã bị mất mát vì
chiến tranh. Kể từ đó Tích Lan và Miến Điện luôn giữ một mối giao hảo thật khắn
khít cho đến ngày nay và đây cũng là một sự kiện đáng cho chúng ta suy ngẫm.
Thật vậy tín ngưỡng không nhất thiết lúc nào cũng là chiêu bài để khuyến dụ và
áp đặt người khác, mà đôi khi còn là một mối dây buộc chặt giữa con người và các
dân tộc với nhau.
Kể
từ đó đến nay các vị vua của Miến Điện thay nhau bảo tồn và quảng bá Phật Giáo
Theravada. Đặc biệt hơn hết là vua Kyanzittha (trị vì: 1184-1112) đã từng trước
tác nhiều tập luận giải về Phật Giáo thật giá trị và cũng đã tự đứng ra thiết kế
và xây dựng ngôi chùa đồ sộ A-nan-đà (Ananda) tại Pagan năm 1091. Ông cũng quyết
định là nước Miến Điện phải nhận lãnh trọng trách trùng tu thánh tích Bồ-đề Đạo
Tràng (Bodh Gaya) ở Ấn.
1 2
H.1&2- Chùa A-nan-đà và quang cảnh di tích kinh đô
Pagan
1 2 3 4
B
Bốn
pho tượng bên trong chùa, mỗi pho cao 9 thước, đặt vào bốn hướng nơi chính điện.
1- Đức Phật Cồ-đàm (mặt hướng về
phương tây, thủ ấn - tư thế của hai tay / mudra - biểu trưng cho sự che chở)
2- Phật Konagamana (vị Phật thứ 2
trong số 5 vị Phật của vũ trụ hiện tại / kalpa hiện tại, mặt hướng về phương
đông. Thủ ấn biểu trưng cho sự săn sóc và chữa bệnh: một tay cầm một viên thuốc
nhỏ, một tay cầm một cành dược thảo biểu trưng cho Đạo Pháp của Đức Phật Cồ-đàm)
3- Phật Kassapa (vị Phật thứ 3
trong số 5 vị Phật của vũ trụ hiện tại, mặt hướng về phương nam, thủ ấn biểu
trưng cho sự giảng Pháp)
4- Phật Kakusanda (vị Phật thứ
nhất trong số 5 vị Phật của vũ trụ hiện tại, mặt hướng về phương bắc, thủ ấn
biểu trưng cho sự giảng Pháp)
Bốn vị Phật hướng về bốn phương
nói lên tính cách cùng khắp của Đạo Pháp trong không gian. Đức Phật Cồ-đàm là vị
Phật thứ 4, vị Phật tương lai Maiteya (Di Lặc) là vị Phật thứ 5. Cũng xin nhắc
lại là theo Phật Giáo Theravada thì các vị Phật thay nhau xuất hiện, mỗi lần chỉ
có một vị Phật duy nhất. Ngôi chùa A-nan-đà khi mới xây dựng thật ra mang tên là
chùa "Ananta pinya" (hay panna) có nghĩa là "trí tuệ vô biên" của Phật. Thế
nhưng sau này người ta gọi sai là Ananda, tên của một vị đệ tử thân cận của Đức
Phật.
Con trai của vị vua này khi lên nối ngôi (trị vì: 1112-1167) lại tiếp tục thực
hiện các công trình xây dựng chùa chiền do vua cha để lại. Pagan nhờ đó đã trở
thành một kinh đô Phật Giáo thật đồ sộ với 9000 ngôi chùa và bảo tháp. Phật Giáo
Theravada lúc đó tuy phát triển thật mạnh thế nhưng luôn giữ một mối tương giao
thật hài hòa với Phật Giáo Đại Thừa. Kinh điển Pa-li được mọi người tôn thờ và
xem như những báu vật thiêng liêng. Việc luyện tập thiền định được áp dụng đúng
theo những gì nêu lên trong Tạng Luận. Người tu hành và dân chúng thường xuyên
tổ chức đi hành hương ở Tích Lan.
Sự suy tàn của vương quốc Miến Điện vào thế kỷ
XIII
Vào thế kỷ XIII, có một nhà sư là Capata, trước đây tu tập ở Tích Lan và cũng đã
được thụ phong tỳ kheo trên hòn đảo này, cho rằng truyền thống tu tập của Phật
Giáo Môn (Theravada của Miến Điện) bị lệch lạc quá nhiều và phải sửa đổi lại
đúng với truyền thống tu tập (nikaya)
"chính thống" của ngôi Đại Tự Viện (Mahâvihâra) ở Tích Lan. Vị vua Miến Điện lúc
đó là Kyaswa (trị vì: 1234-1250) và cũng là một Phật tử thuần thành đã cố gắng
tìm đủ mọi cách để dàn xếp, thế nhưng không mang lại một kết quả nào. Tăng đoàn
chia ra thành bốn phe phản ảnh các khuynh hướng tu tập khác nhau. Đến năm 1287
thì các đạo quân Mông cổ của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan) tràn vào Miến Điện tàn
phá kinh đô Pagan.
Ngày nay Pagan chỉ còn lại khoảng 2000 chùa và bảo tháp và hầu hết nằm trong
tình trạng đổ nát, nước Miến Điện thì lại không đủ phương tiện tài chính để
trùng tu. Dầu sao thì 2000 ngôi chùa còn tồn tại đến nay dù trong tình trạng
hoang phế cũng đủ phản ảnh một thời vàng son và cực thịnh về mọi mặt từ tín
ngưỡng, văn hóa và kinh tế của kinh đô Pagan suốt ba trăm năm từ thế kỷ XI đến
XIII. Pagan nằm trong một vùng đất rộng lớn
vuông vắn với 42 km mỗi cạnh, và ngày nay đã được UNESCO xếp vào danh sách di
sản của nhân loại.
[Cách nay khoảng hơn hai mươi năm, may mắn tôi có dịp viếng Pagan và ở
lại đây một tuần để tham dự lễ Phật đản kéo dài ba ngày liền ở ngôi chùa
A-nan-đà. Vào dịp này dân chúng, hầu hết là những người nông dân chất phác, kéo
nhau từ khắp nước về đây tham dự. Họ đến bằng xe bò với cả gia đình, có người
phải đánh xe ra đi từ một tháng trước để kịp dự lễ. Những hôm trước lễ, đứng ở
sân chùa người ta có thể trông thấy những đoàn xe bò kéo nhau đến đây từ khắp
hướng. Trời nắng, bụi bốc lên mù mịt từ những vết chân bò chậm rãi và những
chiếc bánh xe lắc lư trên mặt đất gồ ghề.
Những người cùng làng hay quen biết nhau xếp xe bò thành vòng tròn, bên trong
phụ nữ giúp nhau nấu bếp, họ mang theo gạo và cả thực phẩm khô. Trẻ con nô đùa
và không được chạy ra khỏi vòng tròn vì nếu có đứa nào chạy lạc thì sẽ khó mà
tìm. Đàn ông rủ nhau đánh xe đi lấy nước hoặc ra chợ. Hàng ngàn vòng tròn xe bò
rải rác trong những khu ruộng và đất hoang chung quanh chùa, một bầu không khí
nhộn nhịp và hân hoan tỏa rộng. Đêm đến họ đốt lửa trại, quây quần ca hát hay
trò chuyện, trẻ con nô đùa, vài đứa ngủ lăn dưới gầm xe.
Khu
chợ được mở rộng thêm ra chung quanh trên một vùng đất mênh mông. Hàng hóa đầy
ắp. Những người nông dân ở các làng mạc xa xôi mượn dịp này để mua sắm: nào lu
hủ, chén bát, quần áo, các vật dụng bằng plastic đủ màu... Khu bán hoa quả thì
tấp nập hơn cả. Mỗi gia đình phải chuẩn bị một mâm lễ vật để đội lên chùa.
Sáng sớm ngày lễ đầu tiên, phụ nữ đội mâm nối đuôi nhau lên chùa trên
đỉnh đồi, họ đặt mâm vào những chiếc sạp kê sẵn từ hôm trước ở sân chùa và chung
quanh chùa. Trên mỗi mâm thường có cắm một cái que lên nải chuối hay quả bưởi,
đầu que cài một tờ giấy bạc. Tôi không được biết giá trị của các tờ giấy bạc ấy
mà chỉ thấy các cụ già và những người nông dân có vẻ nghèo nàn móc hầu bao lận
trong người, vuốt từng tờ giấy bạc thật ngay ngắn trước khi cài vào đầu que. Sân
chùa có những sạp bán các tờ vàng lá thật mỏng dán lên các tờ giấy quyến, người
đến chùa chen nhau mua và sau đó sẽ trèo lên bệ dán vào các pho tượng. Nơi chánh
điện các vị tỳ kheo ngồi thành hàng thật ngay ngắn thay nhau tụng niệm suốt
ngày.
Bắt
đầu từ chiều ngày thứ ba nhiều gia đình đã cuốn gói lên đường về nhà. Những đám
bụi mù lại bốc lên từ những vết chân bò và những bánh xe lắc lư. Những đám bụi
nhỏ dần, xa dần... và mất hút ở chân trời dưới những tia nắng thấp. Chiều ngày
thứ tư cảnh vật vụt trở nên vắng lặng một cách lạ thường. Bốn pho tượng vẫn đứng
im lìm trong chánh điện vắng tanh, không
một vị tỳ kheo. Tôi ngồi xuống trong yên lặng giữa chánh điện để thả hồn về một
thời quá khứ xa xưa và nhộn nhịp của ngôi đền, cách nay đã gần mười thế kỷ.
Tôi
cũng đã từng cảm nhận được cái yên lặng đó cách nay cũng đã gần ba mươi năm. Từ
thành phố Yogyakarta (Indonêxia) tôi thuê xe tuk-tuk - một loại xe ba bánh kéo
bằng xe gắn máy thường thấy ở các vùng đô thị cũng như làng mạc ở khắp Á Châu -
đưa tôi đến ngôi đền Borobudur, và đến chiều thì trở lại đón tôi. Thật cũng may
tôi có mang theo một chai nước uống và một ít bánh khô. Một ngôi đền hùng vĩ
bằng đá núi lửa màu xám đen vươn lên như một quả núi giữa một khu rừng nguyên
sinh um tùm và xanh mướt. Ngoài tôi ra không một bóng người. Tôi ngồi xuống trên
một bệ đá ở tầng cao nhất nhìn ra bốn hướng, chỉ toàn là cây rừng mênh mông. Sự
vắng lặng đó mang lại cho tôi những cảm xúc thật bồi hồi. Nếu sự vắng lặng của
ngôi chùa A-nan-đà đưa tôi về quá khứ thì sự vắng lặng của ngôi đền Borobudur
chìm sâu trong quên lãng đã từ hơn mười thế kỷ lại vụt mở ra cho tôi những viễn
tượng của tương lai, dù rằng ngày nay ngôi đền Borobudur đã trở thành một nơi du
lịch ồn ào và phải mua vé vào cửa.
Thiết nghĩ đôi khi chúng ta cũng nên tìm cho mình một chút yên tĩnh để ý thức
được vị trí và sự hiện hữu của mình trong không gian và thời gian, hầu giúp mình
trở về với chính mình, thay vì tìm những xúc cảm từ một bài hát kích động và vô
nghĩa, một đĩa thức ăn cầu kỳ hay chạy theo những xúc cảm sơ đẳng nhất phát xuất
từ những đòi hỏi của bản năng].
Đến đây chúng ta hãy trở lại với gia đình Phật Giáo Theravada của Miến Điện vào
những Phật thời kỳ cận đại.
Giáo Theravada trong thời kỳ thuộc địa và hậu
thuộc địa
Phật Giáo Theravada đã trải qua một thời kỳ thật đen tối kể từ thế kỷ XIII. Kinh
đô Pagan bị các đạo quân Mông Cổ tàn phá, tăng đoàn chia rẽ và phân tán. Thế
nhưng cũng thật bất ngờ là vào thế kỷ XV vị vua Dhammaceti (trị vì: 1472-1492)
dùng uy quyền thống nhất được tăng đoàn và bắt buộc tất cả phải đồng loạt tu tập
theo truyền thống của ngôi Đại Tự Viện của Tích Lan. Hai mươi hai vị tỳ kheo
thật giỏi được gửi đi tu học ở Tích Lan và sau đó họ đã trở về Miến Điện năm
1476 để cải tổ lại tăng đoàn. Tăng đoàn Miến Điện lại được đoàn kết như xưa. Vào
thế kỷ XIX vua Mindon (trị vì:1853-1878) quyết định tổ chức kết tập trở lại giáo
lý Theravada. Hội nghị được tổ chức ở Mandalay và kéo dài ba năm liền, từ năm
1868 đến 1871 và được đặt dưới sự chủ tọa của chính vua Mildon. Nếu trên miền
bắc Ấn đại học Na-lan-đà là một trung tâm thượng thặng đào tạo những vị đại sư
siêu việt với những tư tưởng mới lạ, thì trên hòn đảo Tích Lan ngôi Đại Tự Viện
Mahavihâra tại kinh đô Anurâdhapura lại là một trung tâm bảo thủ vô địch trong
việc bảo tồn Đạo Pháp của những thời kỳ nguyên thủy. Miến Điện và sau này là
Thái Lan cũng đã tham gia thật tích cực vào sự bảo tồn đó.
Vào
thế kỷ XIX người ta lại thấy bùng lên một phong trào bành trướng đất đai thật
sôi động của người Tây Phương, các nước Âu Châu tranh nhau đi tìm thị trường và
đánh chiếm thuộc địa. Anh Quốc dòm ngó Miến Điện, trước hết là vì tài nguyên
phong phú của xứ này và sau đó là nếu đánh chiếm được Miến Điện thì người Anh sẽ
có thể mở ra một con đường bộ nối liền thuộc địa Ấn của họ và Singapore, và đồng
thời cũng sẽ hóa giải được ảnh hưởng của Miến Điện trong vùng vịnh Bengale. Thật
vậy Miến Đìện lúc bấy giờ là một quốc gia rất mạnh, các đạo quân Anh Quốc phải
mở ra ba cuộc chiến 1824-1826, 1852, 1885 mới chiếm được toàn bộ xứ này. Cũng
xin nhắc thêm là vào thời kỳ trên đây, quân đội viễn chinh Pháp đánh chiếm Sài
Gòn năm 1861 và sau đó thành lập thuộc địa Đông Dương gồm Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc
Kỳ, Campuchia và Lào.
Đối với các vùng đất mới chiếm thì người Anh luôn sử dụng thật tinh vi và khéo
léo công cụ tín ngưỡng để cai trị. Thay vì kỳ thị và đàn áp trực tiếp Phật Giáo
thì một mặt người Anh tìm cách cải đạo các dân tộc thiểu số và khuyến dụ họ theo
đạo Tin Lành Anglican, còn một mặt thì ào ạt đưa người Ấn theo Ấn Giáo và Hồi
Giáo vào Miến Điện. Chính sách này thật hết sức thâm độc vì sẽ làm mất đi tính
cách thuần nhất của Miến Điện trên cả hai phương diện tín ngưỡng và nguồn gốc
sắc tộc, nói một cách khác là nếu muốn chiếm đất thì cũng phải phá tan bản sắc
dân tộc của những người sinh sống trên mảnh đất ấy. Đơn giản và dễ hiểu hơn là
nếu muốn cướp nhà của người khác thì phải làm cho người ấy mất hết quyền sở hữu
gian nhà của họ. Tình trạng của nước Tây Tạng ngày nay cũng thế mà thôi. Chính
sách này cũng đã được người Anh thực thi ở Tích Lan khi họ ào ạt đưa người Tamil
vào hòn đảo này. Ngày nay chúng ta cũng không lấy làm lạ khi nhận thấy những
xung đột về tôn giáo, sắc tộc và đất đai xảy ra hàng ngày ở một số nước Phi
Châu. Thật cũng đáng ngạc nhiên là những người thực dân sử dụng công cụ tín
ngưỡng để cai trị kẻ khác nhưng lại không nhìn vào chính mình, thí dụ như trường
hợp những người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và Anh Quốc có cùng một tín ngưỡng với nhau
chỉ khác ở vài hình thức tu tập, thế nhưng lại giết nhau vì một món mồi bé tí
nhưng béo bở là hòn đảo Tích Lan.
Trở lại với trường hợp của Miến Điện thì chúng ta cũng có thể nhận thấy thật dễ
dàng là bản sắc của một dân tộc nào có phải chỉ đơn giản là nguồn gốc sắc tộc
hay một hình thức sinh hoạt văn hóa cá biệt nào, mà còn là tín ngưỡng nữa. Do đó
câu châm ngôn "Là người Miến Điện tức phải là người Phật Giáo" được rỉ tai trong
dân chúng như một phản ứng chống lại chính sách cải đạo, kỳ thị tôn giáo và âm
mưu mang người Hồi Giáo vào Miến Điện do thực dân Anh chủ xướng. Câu châm ngôn
này dù chỉ có chủ đích nói lên bản sắc tín ngưỡng và nguồn gốc dân tộc của người
dân Miến Điện, thế nhưng cũng khó tránh khỏi phản ảnh một hậu ý cực đoan nào đó,
và chính khía cạnh này đã khích động dân chúng và cả một số nhà sư tham gia vào
các cuộc bạo động chống lại sự đô hộ của người Anh - kể cả đối với chế độ độc
đoán và quân phiệt sau này - bất chấp các giới luật sơ đẳng nhất của người tu
hành. Ngày nay ở Miến Điện đôi khi người ta vẫn còn nghe thấy câu châm ngôn trên
đây. Quả thật điều ấy cũng không tốt đẹp gì cho Phật Giáo và cũng không vẻ vang
gì cho dân Miến. Dầu sao và dù đã phải trải qua một thời kỳ thuộc địa thật thâm
độc và những sự tàn phá của cuộc thế chiến thứ hai, thế nhưng Phật Giáo
Theravada của Miến Điện vẫn tồn tại đến nay.
Nước Miến Điện dành lại độc lập năm 1948. Phật Giáo Theravada nhờ đó phục hồi
được một phần nào truyền thống tu tập xưa với sự xuất hiện của một vài vị thầy
lỗi lạc như Mahâsi Sayadaw và Sunlun Sayadaw, thế nhưng chưa được bao lâu thì
năm 1962 đại tướng Ne Win lại đảo chánh và nắm trọn quyền bính. Vừa mới thoát
khỏi những sự tàn phá và đau thương do chiến tranh gây ra, dân tộc Miến lại rơi
vào ách độc tài quân phiệt. Năm 1988 sinh viên và các nhà sư biểu tình đòi tái
lập thể chế dân chủ, tức khắc họ bị đàn áp bằng sắt máu. Bà Aung San Suu Kyi một
nữ Phật tử đứng lên chống lại chính quyền độc tài bằng bất bạo động, và ngay sau
đó bà đã bị quản thúc tại gia. Khi được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1991,
bà lên tiếng kêu gọi dư luận thế giới hãy nghĩ đến số phận của dân tộc bà. Mượn
dịp này các nhà sư bùng lên biểu tình ủng hộ. Họ bị đàn áp thật tàn bạo, khoảng
300 đến 400 nhà sư bị bắt giam.
Sau vụ này tập đoàn quân phiệt đổi chiến thuật và quay ra lợi dụng Phật Giáo như
một công cụ tuyên truyền. Ngày 8 đến 11 tháng 9 năm 2004 "Đại hội Phật Giáo thế
giới vì Hòa Bình" lần thứ tư được tổ chức ở Yangoon (thủ đô Miến Điện), đại
tướng Than Shwe lãnh đạo tập đoàn quân phiệt thay mặt chính phủ đứng ra cúi đầu
đón chào các vị chức sắc Phật Giáo. Theo thông cáo chính thức thì có 2500 đại
biểu đến từ 37 nước Á Châu và ngoài Á Châu tham dự. Thế nhưng trên thực tế chỉ
có 500 nhà sư và 1000 đại biểu và quan sát viên đến từ 18 nước Á Châu và năm
nước ngoài Á Châu là: Hoa Kỳ, Úc Châu, Mễ Tây Cơ, Tiệp Khắc và Lỗ Ma Ní (Roumania). Sự vắng
mặt "nổi bật" nhất là các đại biểu của giáo phái Nembutsu-shu ("giáo phái Niệm
Phật") của Nhật Bản, là giáo phái đã tài trợ cho ba đại hội đầu tiên được tổ
chức ở Nhật (1998), Thái Lan (2000) và Campuchia (2002).
Một người làm chính trị cúi đầu vái chào các nhà sư thế nhưng cũng khó biết
những gì xảy ra trong đầu họ, bởi vì người làm chính trị lúc nào cũng nghĩ rằng
mình đứng lên trên tất cả các thể chế xã hội và xem độc tài là công cụ và là sức
mạnh của mình. Thế nhưng thật ra độc tài cũng chỉ là phản ứng của sự sợ hãi,
phản ảnh thật kín đáo một sự lo sợ nào đó trước kẻ khác, và tàng ẩn phía sau sự
hèn yếu của chính mình. Phật Giáo trường tồn đã hơn hai nghìn năm trăm năm không
phải là nhờ vào một hình thức độc tài tín ngưỡng nào cả mà đúng hơn là nhờ vào
sức mạnh và sự sáng suốt trong lòng người Phật tử và những người tu hành. Chẳng
phải sức mạnh và sự sáng suốt ấy đã thể hiện qua sự can đảm và kiên trì của một
người phụ nữ yếu mềm là Bà Aung San Suu Kyi hay sao? Bà được trả tự do năm 2010
sau 19 năm bị quản thúc và đã được dân chúng bầu vào quốc hội năm 2012.
Gia đình Phật Giáo Theravada của Miến Điện ngày nay vẫn giữ được sự sinh động
thế nhưng qua những thử thách của thời cuộc cũng không tránh khỏi ít nhiều biến
dạng và có khuynh hướng trở thành một hình thức Phật Giáo đại chúng, nặng phần
nghi lễ và đánh mất đi phần nào lý tưởng của Con Đường hướng vào sự giải thoát
và Giác Ngộ. Phật Giáo Theravada của Miến Điện còn phải cố gắng hơn nữa để phục
hồi lại thời vàng son trong quá khứ.
1 2 3
H.1&2- Aung San Suu Kyi năm 1951 và năm 2013 (Ảnh Reuters)
H.3- Đại tướng Than Shwe
Phật
Giáo Theravada Thái Lan
Phật Giáo Theravada - hay nói đúng hơn là Phật Giáo Môn tức là Phật Giáo
Theravada pha lẫn một vài đường nét Phật Giáo Đại Thừa của vương quốc Thaton
miền nam Miến Điện - được đưa vào Thái Lan trước nhất, tức là vào khoảng thế kỷ
thứ V đến thứ VII, và đã cùng phát triển với các giáo phái Ấn Giáo là Shivaism
(thờ thần Shiva) và Vishnunism (thờ thần Vishnu) đã được du nhập vào lãnh thổ
Thái Lan từ trước. Thế nhưng không lâu sau đó, vào thế kỷ thứ VII khi người
Khmer đánh chiếm Thái Lan và mở rộng lãnh thổ của đế quốc Chen-la (Chân Lạp /
ngày nay là Campuchia) của họ thì Phật Giáo Đại Thừa và Kim Cương Thừa cũng theo
đó được đưa vào Thái Lan. Dưới sự thống trị của người Khmer từ thế kỷ XI đến
XII, Phật Giáo Đại Thừa và Kim Cương Thừa phát triển rất nhanh thế nhưng dần dần
lại thu nạp thêm nhiều khía cạnh Ấn Giáo và sau cùng đã hoàn toàn bị đồng hóa
bởi tín ngưỡng này.
Phật Giáo Theravada và sự hình
thành của vương quốc Thái Lan
Vào thế kỷ XIII các đạo quân Mông Cổ tràn vào tàn phá Thái Lan và đánh bại người
Khmer. Dân chúng tháo chạy nhưng đồng thời họ cũng thoát được ách đô hộ của
người Khmer. Sau đó họ tập họp lại và thành lập hai vương quốc là Chiangmai và
Sukhothai. Vương quốc Sukhothai chịu ảnh hưởng của các nhà sư Miến Điện nên ngả
theo Phật Giáo Theravada. Vua Rama Kamheng (trị vì: 1281-1318) cũng theo Phật
Giáo Theravada và đã hết lòng quảng bá giáo lý trong Tam Tạng Kinh. Chính ông
cũng là người đã phát minh ra chữ viết cho Thái Lan.
Thế nhưng sau đó vương quốc Sukhothai lại suy yếu dần và năm 1350 một vương quốc
mới lại được thành lập ở một kinh đô khác là Ayutthaya. Vị vua đầu tiên của
vương quốc này là Ramathibodi đệ nhất, quyết định đưa Phật Giáo Theravada lên
hàng "quốc giáo", đồng thời ông cũng cho soạn thảo bộ luật đầu tiên của Thái Lan
là Dharmashastra, còn giá trị cho đến cuối thế kỷ XIX. Các sự kiện trên đây đánh
dấu một giai đoạn thật quan trọng trong lịch sử hình thành của vương quốc Thái
Lan. Trở lại với vương quốc Sukhothai thì từ đầu thế kỷ XIV các nhà sư Tích Lan
thường đến vương quốc này để thuyết giảng kinh điển Pa-li, và truyền dạy thiền
định cho các nhà sư trong vương quốc này, đồng thời giúp chùa chiền tổ chức và
quản lý tăng đoàn theo truyền thống của Tích Lan. Kể từ đó đến nay tất cả các vị
vua Thái Lan đều theo Phật Giáo Theravada và rất thành tâm.
Vua Lu Thai (trị vì: 1347-1361) của vương quốc Sukhothai là một Phật tử rất
trung kiên, đã từng trước tác một tập luận về vũ trụ quan Phật Giáo. Ông khuyên
phải giữ nguyên truyền thống tu tập của Tích Lan, về mặt cai trị thì bãi bỏ chế
độ nô lệ, ra lệnh đào kinh và đắp đường trên toàn lãnh thổ. Sau đó ông từ bỏ
cung điện và xuất gia. Năm 1369, vua Dhammikasayambhu của vương quốc Chiangmai
cũng chủ trương nên theo truyền thống tu tập của Tích Lan thế nhưng vẫn khuyên
không nên loại bỏ hẳn Phật Giáo Môn, tức là Phật Giáo Theravada mang một vài
đường nét Đại Thừa đã có sẵn trong vương quốc của ông. Sự sinh hoạt song hành và
chung đụng của hai truyền thống tu tập này đã tạo ra một hình thức Phật Giáo
Theravada tuy giữ nguyên căn bản giáo lý của Phật Giáo Theravada Tích Lan, thế
nhưng việc tụng niệm thì lại có sự khác biệt: một số nhà sư tụng niệm kinh điển
bằng tiếng Pa-li, một số khác cũng tụng niệm cùng các kinh điển ấy nhưng đã được
Phạn ngữ hóa. Tóm lại là kể từ đấy cho đến nay, Phật Giáo Thái Lan luôn giữ đúng
theo phong cách và nề nếp của gia đình Phật Giáo Theravada Tích Lan thế nhưng
trên phương diện thực hành thì lại phản ảnh một vài đường nét Đại Thừa. Truyền
thống tu tập của Thái Lan do đó đã mang tính cách khá cởi mở và được gọi là
mahânikaya (mahâ có nghĩa là lớn, nikaya có nghĩa là một tập thể, một truyền thống hay đường hướng).
Sự cởi mở đó là do ảnh hưởng của Phật Giáo Môn và Kim Cương Thừa đã lưu lại.
Năm 1782 vua Chao Phaya Cakkri (còn gọi là vua Rama đệ nhất, trị vì: 1782-1809)
khi vừa lên ngôi liền cho triệu tập một đại hội kết tập Đạo Pháp với mục đích
chỉnh đốn lại Tam Tạng Kinh. Vua Mongkut (trị vì: 1852-1868) ngày còn trẻ đã
từng xuất gia trong hai mươi tám năm liền (từ 1824 đến 1852) và sau đó cũng đã
nhường ngôi cho con là vua Chulalongkorn (trị vì: 1868-1911), cả hai cha con
cùng chung sức cải tổ Phật Giáo Theravada Thái Lan. Trước hết họ cho phát hành
một ấn bản mới về Tam Tạng Kinh, sau đó dưa ra một truyền thống tu tập (nikaya)
mới gọi là dhammayutikanikâya dành cho tăng đoàn với các giới luật khắt khe hơn
so với truyền thống mang tính cách cởi mở trước đây là mahanikaya. Họ cũng đồng
thời cố gắng loại bỏ các ảnh hưởng của Kim Cương Thừa và Đại Thừa đã ăn sâu từ
lâu đời vào các hình thức tu tập mang tính cách đại chúng rất phổ biến trong các
vùng thôn quê và các tầng lớp bình dân trong xã hội.
Phật Giáo Theravada
trong thời cận đại
Dưới triều đại của vua Mongkut, vương quyền và tôn giáo được liên kết với nhau
thật chẽ. Vương quyền dựa vào Phật Giáo để khoác lên việc quản lý đất nước một
chiếc áo đạo đức, tôn giáo dựa vào vương quyền để củng cố tăng đoàn, nói cách
khác là đặt tăng đoàn dưới sự bảo trợ và quản lý của vương quyền nhằm tăng cường
thêm tính cách chính đáng và uy tín cho tập thể này. Chức sắc trong tăng đoàn
được nhà vua trực tiếp đề cử. Thật ra thì thể chế đó cũng không phải là một điều
mới lạ gì vì đã được thực thi ở Lào và Campuchia. Tăng đoàn do đó đã trở thành
một thành phần của guồng máy quốc gia, và ngược lại quốc gia cũng xem Phật Giáo
như là bản sắc chung của cả một một dân tộc cần được bảo vệ và tôn trọng.
Vương quyền luôn tiếp tay với tăng đoàn trong mọi cố gắng loại bỏ các thói tục
dân gian mang tính cách dị đoan và mê tín. Chủ trương này cũng đã mang lại nhiều
kết quả tốt đẹp vào đầu thế kỷ XX, nhất là trong khoảng thời gian giữa hai cuộc
chiến thế giới. Việc mở mang trí tuệ cho người dân bằng các phương pháp tu tập
chân chính của Phật Giáo là một phương tiện vô cùng hữu hiệu làm giảm bớt ảnh
hưởng của Hồi Giáo ở các vùng biên giới phía nam giáp ranh với Mã Lai, và ngăn
chận bớt hiệu quả của các kế hoạch cải đạo của Tin Lành Giáo do các nước Tây
Phương chủ trương nhằm khuyến dụ các sắc tộc thiểu số. Gần đây hơn tức là vào
các thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, chủ trương "quốc giáo" đó - tức là sự kết
hợp chặt chẽ giữa Phật Giáo và chính quyền - của chính phủ Thái Lan cũng đã mang
lại nhiều kết quả ngoạn mục. Các tập thể Hồi Giáo và Tin Lành dù có cố gắng giữ
nguyên tín ngưỡng của mình đi nữa thì cũng phải tỏ ra thận trọng hơn và phải tìm
cách hòa nhập với sự sinh hoạt chung của xã hội Thái, một xã hội mà tất cả mọi
người đều nêu cao tinh thần Phật Giáo và tuân thủ giới luật. Cũng mạn phép xin
lưu ý là nếu muốn thực hiện được các mục tiêu đó thì nền tảng Phật Giáo phải
chân chính, người tu hành phải tinh khiết, người lãnh đạo phải lương thiện. Dầu
sao thì ngày nay vấn đề Hồi Giáo ở vài tỉnh giáp ranh với Mã Lai như Pattani,
Yala, và Narathiwat, cũng vẫn tiếp tục còn là một vấn đề thật khúc mắc cho chính
phủ Thái. Trong các tỉnh này thì 80% dân chúng là người gốc Mã Lai theo Hồi Giáo và các cuộc bạo động đòi độc lập đã
thường xuyên xảy ra. Lý do cũng dễ hiểu vì vương quốc (sultanate) Pattani chỉ
mới được sáp nhập vào lãnh thổ Thái vào năm 1902.
Một hiện tượng khác cũng đáng lưu ý là vào thế kỷ XX, chùa chiền ở Thái Lan ngày
càng bị "đô thị hóa". 95% chùa chiền nằm trong các vùng đô thị, và lẽ tất nhiên
là 95% tăng sĩ trong tổng số 200 000 vị trong toàn quốc cũng "chen nhau" tu hành
trong những nơi đông đảo. May mắn thay cũng có một vài vị cao tăng ý thức được
tình trạng đó và đã đứng ra phục hồi truyền thống tu tập vào những thời kỳ
nguyên thủy của Phật Giáo: đó là "Truyền Thống Tu Trong Rừng" (Forest Tradition,
còn gọi là Monks of the Forest). Trong số này có một nhà sư thật lỗi lạc là
Ajahn Chah, đã gây được tiếng vang trên khắp thế giới và đã đào tạo được một đội
ngũ đệ tử người Tây Phương rất đông đảo và uyên bác.
Phật Giáo Theravada Campuchia
Giai đoạn du nhập:
thế kỷ thứ V-XII
Dân tộc Môn-Khmer trước hết theo Ấn Giáo (giáo phái Shivaism, tức thờ thần
Shiva) từ thế kỷ thứ V, và sau đó lại chuyển sang học phái Phật Giáo xưa là
Sarvasthivadin (Nhất Thiết Hữu bộ). Xin nhắc lại là người Môn là một sắc dân gốc
miền nam Miến Điện di dân đến nước Chân Lạp và sống trà trộn với người Khmer khi
dân tộc này mở rộng biên giới của lãnh thổ họ đến các vùng miền nam Miến Điện,
Thái Lan, Lào, Mã Lai. Thế nhưng vào thế kỷ thứ XII vua Jayavarman VII (trị vì:
1181-1219) bất thần chủ trương phải theo Đại Thừa Phật Giáo và cho xây dựng hai
ngôi đền Angkor Thom và Bayon, là hai ngôi đền nhằm tôn vinh Quán
Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara). Nghệ thuật tượng hình của hai kiến trúc này
thật hết sức độc đáo và mới lạ: cả hai kiến trúc đều vươn lên như những quả núi
khổng lồ, với các đường nét thật tròn trịa nhất là đối với gương mặt của các
nhân vật, và các nhân vật này lại đều phản ảnh chân dung của chính vua
Jayavarman. Điều này cho thấy ảnh hưởng thật rõ nét của Ấn Giáo đối với Phật
Giáo Campuchia thời bất giờ: đó là sự tôn thờ một "vị vua thiêng liêng"
(devaraja / roi divin / divine king). Sự pha lẫn này giữa Ấn Giáo và Phật Giáo
cũng đã ăn sâu vào nền văn hóa của Campuchia từ đó.
Thơi kỳ phát triển:
thế kỷ XV
Dù rằng sự sinh hoạt của Phật Giáo Đại Thừa lúc nào cũng rất sinh động trong dân
chúng, thế nhưng phía sau lưng thì Phật Giáo Theravada vẫn âm thầm phát triển,
lý do là vì có nhiều nhà sư Miến Điện thường xuyên thay nhau đến Chân Lạp thuyết
giảng. Vào đầu thế kỷ XIV, một biến cố xảy ra: vương quốc Ayutthaya của Thái Lan
bất thần kéo quân đánh chiếm Angkor của vương quốc Chân lạp và gây ra loạn lạc
khắp nơi, trong lúc vương quốc này đang phải đối dấu với một tình trạng căng
thẳng trong dân chúng: bất công xã hội gia tăng, thuế khóa nặng nề vì phải bảo
trì các công trình kiến trúc khổng lồ nhằm để tôn thờ một "vị vua thiêng liêng".
Biến cố trên đây khiến dân chúng quay lưng lại với Phật Giáo Đại Thừa và đổ xô
theo Phật Giáo Theravada vì cho rằng Phật Giáo này mang tính cách "bình đẳng"
hơn (không tôn thờ ai cả). Vua Indravarman III (trị vì: 1295-1308) vì thế cũng
đã phải ngả theo Phật Giáo Theravada và tuyên bố Phật Giáo này là quốc giáo.
Dưới triều đại của vị vua này tiếng Phạn được xem là ngôn ngữ của đạo Bà-la-môn,
do đó việc tụng niệm nơi chùa chiền và mọi việc ghi chép trong hoàng triều đều
phải dùng tiếng Pa-li. Xin nêu lên một chi tiết nhỏ là trong ngôn ngữ ngày nay
của các quốc gia như Miến Điện, Thái Lan và Campuchia có rất nhiều chữ rất gần
với tiếng Phạn và tiếng Pa-li.
Phật Giáo Theravada trở nên cực thịnh dưới triều đại của vua Prea Thomno Reachea
(trị vì: 1468-1514), là một vị vua nổi tiếng là thuộc lòng toàn bộ kinh điển
Pa-li. Dưới triều đại của vị vua này, Phật Giáo Theravada được toàn thể dân
chúng kính trọng và do đó cũng có thể xem như biểu trưng cho bản sắc của dân tộc
Khmer. Sự phát triển cao độ đó cũng đã gián tiếp góp phần vào việc loại bỏ một
vài khía cạnh vay mượn của Kim Cương Thừa và nhất là các thói tục dị đoan mang
màu sắc tín ngưỡng dân gian trong gia đình Phật Giáo Theravada.
Phật Giáo Theravada của Campuchia chủ trương việc tu tập phải theo truyền thống
mahânikaya tức mang tính cách "phóng khoáng" và "cởi mở", thế nhưng ngày càng
chịu ảnh hưởng của truyền thống dhammayutikanikaya của Thái Lan mang tính cách
"khắt khe" và "kỷ cương" hơn. Hiện nay thì các tập thể người Campuchia lưu vong
ở các nước ngoài tu tập theo truyền thống mahânikaya, trái lại trong nước ở các
vùng đô thị thì việc tu tập phải tuân theo chỉ thị của chính phủ, tức là phải
theo truyền thống dhammayutikanikaya, thế nhưng trong các vùng thôn quê dân
chúng vẫn giữ truyền thống mahânikaya như trước đây.
Thời kỳ cận đại: thế
kỷ XIX-XXI
Ngược về lịch sử thì năm 1863 Campuchia được đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp.
Tuy nhiên cũng chính nhờ đó mà Campuchia đã bảo toàn được thể chế quân chủ của
mình dù chỉ là bù nhìn, và cũng vì thế mà chính sách cải đạo của nước Pháp bảo
hộ không được đem ra thực thi một cách quy mô như ở nước láng giềng thuộc địa là
An Nam. Dưới triều đại của vua Norodom Sihanouk (trị vì: 1953-1970) Phật Giáo
Theravada vẫn tiếp tục giữ vững được thời vàng son kéo dài từ thế kỷ XV.
Dưới chế độ Khmer đỏ từ 1975 đến 1979, một phong trào cuồng tín tôn thờ một chủ
nghĩa ngoại lai đã bùng lên chống lại Phật Giáo: 90 000 nhà sư bị sát hại, 65
000 vị bị đưa đi lao động, và hơn 2 300 ngôi chùa bị san bằng. Các học giả Tây
Phương cho biết là 80% kinh điển xưa chép trên lá bối trở thành tro bụi trong
các ngôi chùa bị đốt phá. Phật Giáo nào có làm điều gì sai trái đối với dân tộc
Khmer đâu, và sự căm thù đó đã phản ảnh những gì thâm độc hơn của các đại cường
quốc. Thật vậy Pol Pot và những người nông dân chất phác Khmer cũng chỉ là nạn
nhân, tương tự như những nạn nhân khác mà thôi. Nếu suy nghĩ sâu xa hơn nữa thì
tất sẽ phải thấy rằng một chủ nghĩa điên rồ và không tưởng do một con người
cuồng tín hô hào và một số người phụ họa cũng có thể gây ra không biết bao nhiêu
khổ đau và chết chóc. Phật Giáo gọi sự điên rồ đó là vô minh, và đáng buồn hơn
nữa là sự vô minh đó lại phát sinh từ những con người xa lạ mang đầu óc bệnh
hoạn, ở những lục địa xa xôi, trong một bối cảnh xã hội không dính dáng gì với
các xã hội Á Châu. Sự điên rồ và vô minh đó tỏa rộng khắp nơi, nối kết chằng
chịt với lòng tham và hận thù của từng cá nhân, thúc đẩy bởi bản năng và sự sợ
hãi ẩn tàng trong mỗi con người. Thật hết sức khó để thoát ra khỏi tình trạng bế
tắc đó.
Trở lại với tình trạng của xứ sở Campuchia hậu Pol Pot thì kể từ thập niên 1990
Phật Giáo lại hồi sinh trên mảnh đất chùa tháp của dân tộc Khmer. Phật Giáo được
đưa lên hàng quốc giáo, chùa chiền được trùng tu, tăng đoàn lại được thành lập.
Các nhà sư trên nguyên tắc lại tiếp tục giữ vai trò trước đây của mình là giáo
dục quần chúng và hòa giải những bất đồng chính kiến trong xã hội. Thật vậy sự
tham gia của các người tu hành thật hết sức cần thiết trong sự sinh hoạt của một
xã hội với 60% dân chúng mù chữ. Dầu sao thì hậu quả của một quá khứ kinh hoàng
vẫn còn chưa xóa hết trên quê hương của dân tộc Khmer, và hơn nữa sự tham gia
của nhà nước vào các sinh hoạt của Phật Giáo cũng chỉ là những hình thức kiểm
soát Phật Giáo mà thôi. Tăng đoàn chia thành hai phe: phe đa số là Mohakinay kết
hợp 90% các nhà sư nhà nước và 10% các nhà sư còn lại thuộc phe thiểu số là
Tomayut "độc lập".
Một số học giả Tây Phương cho rằng sự tham gia hiện nay của chính phủ Campuchia
vào sự sinh hoạt của tăng đoàn cũng chỉ nhằm vào mục đích chi phối và canh chừng
họ. Trên thực tế dân chúng cũng chẳng quan tâm đến điều ấy làm gì mà chỉ lo "tu
hành" và "tụng niệm". Ngoài ra Phật Giáo Theravada Campuchia còn phải đương đầu
với những khó khăn khác nữa: đấy là tình trạng "tây phương hóa", "kinh tế hóa"
và "nhà nước hóa" xã hội đã mang lại cho người dân một cuộc sống tâm linh nghèo
nàn, và tạo ra một tăng đoàn cô lập khiến người tu hành không còn giữ được vai
trò của mình trong xã hội nữa. Tóm lại gia đình Phật Giáo Theravada dù được hồi
sinh trên mảnh đất của dân tộc Khmer thế nhưng cũng không khác gì như một "đứa
trẻ èo uột".
Phật Giáo Theravada Lào
Trên phương diện sử liệu thì Phật Giáo Theravada được chính thức đưa vào lãnh
thổ của Lào vào thế kỷ thứ VII. Thế nhưng thật ra có lẽ Phật Giáo đã được du
nhập vào Lào sớm hơn, bởi vì trước đó hai thế kỷ vùng đất này thuộc lãnh thổ của
đế quốc Khmer theo Phật Giáo. Dầu sao thì trên phương diện lịch sử thì Lào cũng
chỉ chính thức được thành lập kể từ thế kỷ XIV, vì trước đó vùng đất này thuộc
lãnh thổ Chiêm Thành và sau đó lại thuộc đế quốc Khmer (nước Chân Lạp). Vào thế
kỷ XI người Thái ồ ạt di dân vào vùng đất này và cũng đã mang theo với họ Phật
Giáo Theravada. Tóm lại là vào những thời kỳ trước khi lập quốc, Ấn Giáo, Phật
Giáo Đại Thừa và Phật Giáo Theravada cũng đã từng hiện diện và phát triển chung
trong lãnh thổ của nước Lào ngày nay.
Nước Lào thời bấy giờ mang tên là Lang Xiang (hay Lang Xang, Hán ngữ gọi là Vạn
Tượng). Vị vua đầu tiên là Fa Ngum cưới một công chúa Khmer và do đó đã theo đạo
vợ là Phật Giáo Theravada. Vua Fa Ngum mời hai mươi vị sư từ Chân Lạp lên Lang
Xiang hoằng Pháp. Các vị sư này mang theo một bộ Tam Tạng Kinh và một pho tượng
Phật bằng vàng mang tên là Luang Prabang. Vua Fa Ngum mượn tên của pho tượng này
để đặt tên cho kinh đô của mình. Dân tộc Lào bắt đầu theo Phật Giáo Theravada từ
đó.
Dưới triều đại của vua Soulignavongsa (1637-1694) Phật Giáo Theravada đạt đến
một mức phát triển thật cao độ, và cũng dưới triều đại này lần đầu tiên người
Tây Phương bắt đầu tiếp xúc với vương quốc Lào. Đó là một thương gia người Hòa
Lan là Van Wusthof và một vị cố đạo dòng Tên người Pháp là Jean-Marie Leria. Cả
hai đều cho biết là họ vô cùng sửng sốt trước cảnh vàng son của kinh đô Luang
Prabang và cảnh thanh bình trong dân chúng. Thế nhưng sau khi vua Soulignavongsa
băng hà (năm 1694) thì anh em trong hoàng tộc tranh dành quyền bính và nội loạn
xảy ra. Năm 1713 nước Lang Xiang tách ra thành ba vương quốc nhỏ, và Phật Giáo
Theravada cũng suy yếu từ đó.
Người Pháp đã "thống nhất" nước Lào và đặt dưới sự bảo hộ của mình vào năm 1893.
Trong thời kỳ bảo hộ có một phụ nữ người Pháp rất uyên bác là Suzanne Karpelès
(1890-1968). Bà tốt nghiệp một trường nổi tiếng của Pháp là Ecole Pratique des
Hautes Etudes (EPHE) và sau đó đã đến Hà Nội năm 1922 và hợp tác với Trường Viễn
Đông Bác Cổ (EFEO / Ecole Française d'Extrême Orient). Bà thành lập Thư Viện
Hoàng Gia cho Campuchia ở Phnom Penh và một Thư Viện Hoàng Gia khác cho Lào ở
Luang Prabang. Sau đó bà lại thành lập thêm hai Viện Nghiên Cứu Phật Học ở hai
kinh đô này. Tại Lào với tư cách là chủ tịch Viện Nghiên Cứu Phật Học bà cổ vũ
việc trùng tu các chùa chiền đổ nát và khuyến khích tăng đoàn Lào nên tích cực
hơn nữa trong việc giáo dục dân chúng và trẻ em. Trong thời gian này bà dịch các
kinh sách tiếng Phạn và tiếng Pa-li, và hợp tác với các học giả Pháp khác ở Đông
Dương, trong số này có Louis Finot là người đầu tiên dịch quyển
Bodhicaryavatara
(La Marche vers la Lumière / Hành Trình đến Ánh Sáng, còn gọi là
Bồ-tát Đạo hay Hành Trình đến Giác Ngộ) của Tịch Thiên
(Shantideva) sang tiếng Pháp và đã được xuất bản ở Hà Nội vào năm 1920.
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, đảng cộng sản Pathet Lao lên nắm chính quyền năm
1975, đàn áp và khủng bố người tu hành và đặt tăng đoàn dưới sự kiểm soát của
nhà nước. Các con số thống kê cho biết ngày nay 60% dân Lào theo Phật Giáo
Theravada và chịu ảnh hưởng của hai truyền thống tu tập của Thái Lan là
mahânikaya (cởi mở) dành cho dân chúng và dhammayutikanikaya (khắt khe và kỷ
cương hơn) dảnh cho người xuất gia. Trong nước có khoảng 5000 ngôi chùa và 22
000 nhà sư, thật ra trên thực tế trong số này phần lớn là những người xuất gia
ngắn hạn, và tăng đoàn chính thức cũng chỉ gồm khoảng 9 000 người. Diện tích
nước Lào lớn hơn 2/3 diện tích Việt Nam thế nhưng dân số thì chỉ vào khoảng hơn
6 triệu người, trong số này 40% là các sắc tộc thiểu số gồm hơn 100 sắc tộc, bộ
tộc và chi tộc khác nhau. Thiên Chúa Giáo chiếm 2% dân số, nhưng đạo Tin Lành
(gồm chung cả đạo Mormon của Mỹ) lại đông gấp đôi. Tin Lành Giáo nói chung rất
"sở trường" trong việc khuyến dụ và cải đạo các bộ tộc thiểu số thật thà và chất
phác, và nước Lào là một mảnh đất rất thuận lợi cho các tôn giáo chủ trương bành
trướng (proselytism).
Phật Giáo Theravada ở các nước Bangladesh, Mã Lai và
Inđônêxia
Tại các nước Hồi Giáo Đông Nam Á cũng có sự hiện diện của Phật Giáo Theravada,
thế nhưng gia đình Phật Giáo này không cho thấy một triển vọng nào đáng kể. Ở
Bangldesh, các dân tộc thiểu số sinh sống trong các vùng đồi núi dọc theo biên
giới Miến Điện theo Phật Giáo Theravada, thế nhưng trình độ hiểu biết về Đạo
Pháp của họ còn khá thấp. Đối với Mã Lai thì Phật Giáo được đưa vào quốc gia này
vào khoảng năm 1400. Lúc đó trên các đảo của Inđônêxia ngày nay thường xảy ra
chiến tranh và cướp phá. Các đạo quân trên đảo Java tràn lên đảo Sumatra và chiếm đóng hòn đảo này. Parameswara là một
hoàng thân Phật Giáo ở tỉnh Palembang trên đảo Sumatra bỏ trốn sang bờ biển phía
tây của bán đảo Mã Lai và thành lập một vương quốc mới là Malacca. Phật Giáo
cùng phát triển chung với Ấn Giáo trong vương quốc này. Thế nhưng sau đó các vị
hoàng thân trong vương triều bất ngờ lại cải đạo theo Hồi Giáo. Năm 1511 người
Bồ Đào Nha chiếm Mã Lai, và bán đảo này bị phân chia thành nhiều vương quốc nhỏ.
Phật Giáo suy tàn dần và biến mất ở Mã Lai vào cuối thế kỷ XVI. Ngày nay gần như
chỉ có những người Hoa di dân là theo Phật Giáo, sự hiểu biết về giáo lý của họ
cũng không được vững chắc lắm. Các nhà sư Thái Lan thường xuyên đến Mã Lai để
thuyết giảng về Phật Giáo Theravada với mục đích phục hồi và nâng cao trình độ
Phật Giáo trong các tập thể người Hoa. Cũng xin nhắc thêm là hiến pháp của Mã
Lai dự trù nhiều biện pháp nhằm "kiểm soát và giới hạn việc thuyết giảng và
truyền bá các tôn giáo khác cho các tập thể người Hồi Giáo", trong lãnh vực hành
pháp thì có những đạo luật khắt khe cấm cải đạo người Hồi Giáo.
Đối với Indônêxia thì Phật Giáo là một tín ngưỡng lâu đời được đưa vào xứ này từ
thế kỷ thứ II và đã từng phát triển thật cao độ song song với Ấn Giáo đã có từ
trước. Ngôi đền Phật Giáo Borobudur lớn nhất thế giới được xây dựng vào thế kỷ
thứ VIII trên đảo Java là bằng chứng hùng hồn nhất phản ảnh một thời vàng son
của Phật Giáo trên hòn đảo này. Vào thế kỷ thứ VII tức là trước cả khi ngôi đền
Borobudur được xây dựng, nhà sư Trung Quốc Nghĩa Tịnh (Yi Jing) sau hai mươi năm
hành hương và tu học ở Ấn Độ đã từ Tích Lan trên đường biển trở về Trung Quốc có
ghé vào đảo Sumatra và ông đã gặp nhiều người đồng hương sang tu học trên hòn
đảo này. Hồi Giáo được đưa vào Indônêxia vào thế kỷ XIII và dần dần lấn lướt Ấn
Giáo và Phật Giáo, cuối cùng là hai tôn giáo này biến mất trên các hòn đảo
Inđônêxia kể từ thế kỷ XVI.
Ngày nay ở Inđônêxia Phật Giáo được xem là một trong sáu tôn giáo chính thức.
Đúng ra trên phương diện "luật pháp" Phật Giáo không được xem là tôn giáo. Tuy
rằng điều khoảng 29 trong hiến pháp của Inđônêxia công bố năm 1945 bảo đảm sự tự
do tín ngưỡng, thế nhưng chính quyền Inđônêxia chỉ công nhận là tôn giáo các tín
ngưỡng nào thờ Trời. Cũng may là trong kinh Chalachakra của Kim Cương Thừa có
nói đến khái niệm về một vị Phật Nguyên Thủy hay Nguyên Sinh gọi là Adi-Buddha.
Vị "Phật Nguyên Thủy" (Primordial Buddha) tuy không mang ý nghĩa là một vị "Phật
Sáng Tạo" thế nhưng cũng được chính quyền Inđônêxia đồng hóa như một vị Trời,
nên nhờ đó Phật Giáo được công nhận là tôn giáo. Sự kiện này cho thấy một sự
"hòa giải" nào đó, thế nhưng phía sau còn có những lý do khác nữa: trước hết
Phật Giáo là một chứng tích lịch sử của Inđônêxia, sau đó và cũng thực tế hơn là
ngôi đền Borobodur, di sản của nhân loại, còn là một niềm hãnh diện của dân tộc
Inđônêxia và là một nơi hành hương mang lại một nguồn ngoại tệ quan trọng.
Ngày nay ở Inđônêxia có sáu tín ngưỡng thờ Trời: Hồi Giáo (88%), Tin Lành (6%),
Thiên Chúa Giáo (3%), Ấn Giáo (2%), Phật Giáo (0.95%), Khổng Giáo (0.05%). Tín
ngưỡng Ấn Giáo trên đảo Bali ngày nay phản ảnh
khá rõ rệt một số đường nét của Kim Cương Thừa và cả Phật Giáo Theravada. Ngoài
ra cũng xin nhắc lại một sự kiện đáng lưu ý là năm 1934 vị cao tăng Narada
Mahâthera của Tích Lan đã từng thân hành đến Inđônêxia thuyết giảng, lúc đó nơi
này còn là "Đất Ấn Độ của người Hòa Lan" (Indes Néerlandaises / Nedeland-India)
tức là thuộc địa của người Hòa Lan. Trong dịp này vị cao tăng Narada Mahâthera
cũng có mang theo một chồi cây Bồ-đề và đã đích thân chủ tọa buổi lễ trồng chồi
cây này ở ngôi đền Borobudur (độc giả có thể xem thêm bài viết Borobudur, ngôi đền Phật Giáo lớn nhất thế giới, trên
trang web Thư Viện Hoa Sen). Từ những năm 1930 vị cao tăng này cũng đã nhiều
lần viếng thăm và thuyết giảng ở miền nam Việt Nam, và cũng đã đích thân trồng
một chồi Bồ-đề ở Thích-ca Phật Đài tại Vũng Tàu, vào ngày 2 tháng 11 năm 1960.
Ngài cũng là tác giả của một quyển sách nổi tiếng là
Buddha and his Teachings đã được cư sĩ Sunanda Phạm Kim Khánh dịch ra tiếng
Việt (Đức Phật và Phật Pháp, Sài Gòn, 1970).
Tóm lại là dù rằng hai nước đầu đàn của gia đình Phật Giáo Theravada ở Á Châu là
Tích Lan và Thái Lan đã nỗ lực trong việc hoằng Pháp, thế nhưng các nước Á Châu
Hồi Giáo dường như không phải là những mảnh đất thuận lợi cho gia đình Phật Giáo
này định cư và phát triển. Trái lại và thật lạ lùng là một mảnh đất mới, tuy xa
lạ nhưng đầy hứa hẹn, lại đang mở ra cho gia đình Phật Giáo Theravada: đó là thế
gìới Tây Phương.
1 2 3
H.1- Các vị tỳ kheo đang tụng
một thời kinh buỗi sáng tại ngôi chùa Dhammacakka Vihâra (Jakarta, Inđônêxia) .
H.2- Ngôi đền Borobudur xây dựng theo mô hình
của một man-đà-la trên đảo Java
H.3- Các vị tỳ kheo đang tụng
niệm nơi ngôi đền Borobudur
1 2
H.1- Narada Mahâthera (1896-1983)
H.2- Thích-ca Phật Đài
Phật Giáo Theravada trong
thế giới Tây Phương
Phật Giáo không nhất thiết là một tôn giáo hướng vào mục đích khơi động lòng tín
ngưỡng nơi con người, hoặc quy định các nghi lễ nhằm thờ phụng hay tôn vinh một
đấng thiêng liêng nào cả, mà thật ra là một phương tiện - nếu nói theo thuật ngữ
Phật Giáo thì đấy là một Con Đường - giúp phát huy sự suy nghĩ và khả năng lý
luận lô-gic của con người, giúp họ biết suy nghĩ sâu xa hơn về sự hiện hữu của
chính mình và bản chất của thế giới. Đấy là những gì mà các tín ngưỡng lâu đời
trong thế giới Tây Phương không đáp ứng được. Khoảng trống tạo ra trong tâm hồn
người Tây Phương bởi những niềm khắc khoải và thất vọng sâu kín đó chính là mảnh
đất dọn sẵn chờ đón gia đình Phật Giáo Theravada (có thể xem thêm:
Phật Giáo Trong Thế Giới Tân Tiến Ngày Nay - G.S. Heinz Bechert / Hoang
Phong chuyển ngữ, trên trang web Thư Viện Hoa Sen).
Phật Giáo nói chung đã làm say mê các nhà tư tưởng và triết gia Tây Phương từ
thế kỷ XIX, chẳng hạn như Schopenhauer (1788-1860, triết gia người Đức), Léon
Tolstoï (1828-1910, tư tưởng gia và văn hào người Nga), Carl Jung (1975-1961,
nhà tâm lý học người Đức), Eugène Burnouf (1801-1852, học giả và triết gia người
Pháp), Edwin Arnold (1932-1904, văn hào, thi sĩ và triết gia người Anh), v.v...
Sự phát triển của Phật Giáo nói chung trong thế giới Tây Phương là một chủ đề
thật rộng lớn, do đó trong khuôn khổ của bài viết này chúng ta sẽ chỉ đề cập
thật ngắn gọn giới hạn trong gia đình Phật Giáo Theravada.
Năm 1896, văn hào và học giả người Mỹ Paul Carus (1852-1919) tác giả một quyển
sách nổi tiếng thời bấy giờ là The Gospel of Buddha (Phúc Âm của Đức Phật, 1894) có mời
Anagârika Dharmapâla (1864-1933, anagârika có nghĩa là vô gia cư, Dharmapala có nghĩa người bảo vệ Đạo Pháp) một cư sĩ thượng thặng
của Tích Lan sang Mỹ giảng Pháp và dạy thiền. Dharmapâla từng hợp tác với Henry
Steel Olcoott người thiết kế lá cờ Phật Giáo, trong các nỗ lực phục hồi Phật
Giáo ở Tích Lan và cả Ấn Độ. Trước đây Dharmapâla cũng đã từng đến Anh Quốc để
tiếp xúc với William Rhys Davis (có thể xem tiểu sử và công trình của nhân vật
này trong bài 1) và Edwin Arnold (1832-1904), thi sĩ, nhà báo và tác giả của một
quyển sách được nhiều người biết đến thời bấy giờ là Light of Asia (Ánh sáng Á
Châu, 1879).
Thật ra trong thế kỷ XIX một số người Tây Phương cũng chỉ thán phục và say mê
Phật Giáo mà thôi. Mãi đến đầu thế kỷ XX thì mới bắt đầu thấy một số người Âu
Châu đích thân đến các nước Á Châu tu tập, xuất gia và thụ phong tỳ kheo. Sau đó
họ trở về Âu Châu và thành lập các tăng đoàn đầu tiên trên lục địa này. Có một
người Anh tên là Allan Bennett (1872-1923) sau khi đọc quyển sách Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold trên đây
đã quyết tâm đến Miến Điện để tìm thầy tu học. Năm 1901 ông được thụ phong và
trở thành vị tỳ kheo đầu tiên của cả Âu Châu.
1 2 3 4 5
Vài gương mặt nổi bật của Phật Giáo Theravada Âu
Châu vào hậu bán thế kỷ XIX và tiền bán thế kỷ XX
1- Anagârika Dharmapâla (1864-1933)
2- Edwin Arnold
(1872-1923)
3- Allan Bennett (1872-1923), pháp danh Ananda
Mattaya người tỳ kheo đầu tiên của Âu Châu
4- Anton Gueth (1878-1957) pháp danh Nyanatyloka,
người tỳ kheo thứ hai của Âu Châu
5- Arthur Schopenhauer (1788-1860)
Bắt đầu từ thế kỷ XX, Phật Giáo Theravada phát triển quy mô hơn và không còn
mang tính cách lẻ tẻ và cá nhân như trước nữa. Năm 1908 Allan Bennet tức là vị
tỳ kheo Ananda Mettaya trên đây quay trở về Anh Quốc và đi cùng với ông là ba vị
tỳ kheo người Miến Điện. Họ cùng gia nhập Hiệp Hội Phật Giáo Anh Quốc do William
Rhys Davids sáng lập, trước đó năm 1881 ông cũng đã sáng lập Hiệp Hội Kinh Điển
Pa-li (Pali Texts Society). Hiệp hội này đã ấn hành Tam Tạng Kinh bằng tiếng
La-tinh và đã dịch một phần lớn các bài kinh cũng như các bài bình giải trong
tạng Luận. Các công trình này đã góp phần thật tích cực trong việc quảng bá Đạo
Pháp, không những ở Tây Phương mà cả trên toàn thế giới. Cũng xin nhắc thêm là
Hội Phật Giáo Anh Quốc cũng do chính William Rhys Davis thành lập đã phát hành
năm 1909 tập san Buddhist Review là tập san Phật Giáo đầu
tiên trong thế giới Tây Phương.
Năm 1926 Anagârika Dharmapâla từ Tích Lan trở
lại Anh Quốc và thiết lập một đầu cầu mới cho hội Mahâ Bodhi Society do chính
ông thành lập ở Ấn với mục đích giúp hồi sinh Phật Giáo Ấn và trùng tu Bồ Đề Đạo
Tràng (Bodh Gaya), vườn Tiên Uyển (Sârnâth), Câu-thi-na (Kushinâra). Trong dịp
này ông cũng đã thiết lập một ngôi chùa Phật Giáo Theravada đầu tiên dành cho
các tỳ kheo người Tích Lan ở Anh Quốc.
Năm 1954 ngôi chùa (vihâra) đầu tiên dành cho người Anh được xây dựng tại Luân
Đôn. Cùng trong năm này một người Anh là William Purfhurst được thụ phong tỳ
kheo ở Thái Lan với Pháp danh là Kapilavaddho. Hai năm sau thì vị này trở về quê
hương và thành lâp tăng đoàn Phật Giáo Theravada đầu tiên tại Anh Quốc. Nhiều
người Tây Phương được thụ phong tỳ kheo ở Anh Quốc và đã gia nhập tăng đoàn do
nhà sư Kapilavaddho thành lập, trong số này có một vị người Gia Nã Đại là Ananda
Bodhi đã đứng ra thành lập một ngôi chùa tu tập theo truyền thống Thái Lan và
một trung tâm luyện tập thiền tại Scotland (bắc nước Anh).
Năm 1977, tăng đoàn Phật Giáo Theravada ở Anh (English Sangha Society) mời một
vị cao tăng Thái Lan là Ajahn Chah đến Anh Quốc để thuyết giảng. Trước khi trở
về Thái Ajahn Chah khuyên một đệ tử người Mỹ tháp tùng với ông là Ajahn Sumedho
nên lưu lại Anh để thiết lập "Truyền Thống Tu Trong Rừng". Ngay sau đó ngôi chùa
đầu tiên tu tập theo truyền thống này được xây dựng ở Sussex trên bờ biển miền
nam, và sau đó nhiều ngôi chùa khác mọc lên khắp nơi. Năm 1985 Ajahn Sumedho
thành lập tu viện Amaravati Buddhist Centre ở Hertfordshire bắc Luân Đôn, dành
cho người xuất gia và cả người thế tục cùng tu tập chung với nhau. Và cũng từ đó
"Truyền Thống Tu Trong Rừng" bắt đầu lan sang các quốc gia khác ở Âu Châu và cả
những lục địa khác như Mỹ Châu và Úc Châu. Năm 1979 vị thiền sư Miến Điện
Sayagyi U Ba Khin đến Anh Quốc thuyết giảng và thành lập trung tâm thiền định
quốc tế International Meditation Centre ở Wiltshire vùng tây nam nước Anh.
Trong khuôn khổ của bài viết ngắn này những gì trên đây cũng chỉ là một vài nét
phác họa về những bước đầu tiên của gia đình Phật Giáo Theravada khi đến định cư
ở Anh Quốc. Những bước đầu tiên đó tất phải còn rụt rè trong một thế giới mà các
tín ngưỡng khác tuy không hồi đáp được những khắc khoải của người Tây Phương
trong các xã hội hiện đại, nhưng cũng đã bắt rễ từ lâu đời trên các mảnh đất
này, thế nhưng những bước đầu đó ngày càng có vẻ vững vàng hơn. Những bước đầu
của Phật Giáo Theravada ở nước Anh cũng có thể tiêu biểu cho thành quả ở những
nước khác ở Âu Châu và cả Mỹ Châu cũng như Úc Châu. Sau thời kỳ đầu tiên thuộc
tiền bán thế kỷ XX khi người Âu Châu tự mang Phật Giáo Theravada về quê hương
mình, thì vào hậu bán thế kỷ XX những người "di dân" Á Châu đến từ các nước Tích
Lan, Lào, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam... đã mang theo với họ một sinh khí mới
góp phần vào sự sinh hoạt chung của gia đình Phật Giáo Theravada trong thế giới
Tây Phương.
Lời kết
Những gì phác họa trên đây phản ảnh sự thăng trầm của gia đình Phật Giáo
Theravada qua thời gian và không gian. Sự thăng trầm đó cũng đã nhiều lần nhuốm
đầy nước mắt và gian nan. Thế nhưng gia đình Phật Giáo Theravada vẫn sống còn và
phát triển. Sự trường tồn đó là nhờ tấm lòng của một số người và sự quyết tâm
của từng mỗi con người trong chúng ta. Sự quyết tâm đó của những người trong gia
đình Phật Giáo Theravada là phải giữ gìn phong thái của gia tộc, truyền thống
của tổ tiên, dù phải đối đầu với những khó khăn nào đi nữa.
Dầu sao thì Phật Giáo cũng không phải là một tín ngưỡng khô cằn và già nua. Một
gia đình khác của Phật Giáo lại chủ trương con cái phải cải tiến, mở rộng và
chấp nhận những gì mới mẻ: đó là gia đình Phật Giáo Đại Thừa. Cả hai gia đình
cùng mang một hoài bảo, cùng mở rộng hai cánh tay, cùng yêu thương con người và
sẽ cùng thực hiện một mục đích chung là giúp tất cả mọi người cùng bước lên Con
Đường mà mình đang tiến bước.
Tuy rằng Phật Giáo đã hiện diện và phát triển khắp nơi ở Á Châu từ hơn hai ngàn
năm trăm năm nay, thế nhưng có thể nói rằng cho đến đầu thế kỷ XIX gần như hầu
hết những người Tây Phương chưa hề biết đến Phật Giáo là gì. Vào thời Trung Cổ
các nhà truyền giáo Tây Phương đã được gửi đi khắp nơi trên thế giới và họ cũng
đã tiếp xúc với các tín ngưỡng ở các nước Á Châu, thế nhưng họ lại cứ nghĩ rằng
các tín ngưỡng ấy cũng chỉ là các tín ngưỡng riêng của từng dân tộc khác nhau.
Vào thế kỷ XVIII có một vị cố đạo dòng Tên người Pháp là Jean-François Pons
(1698-1752), và cũng là một trong các chuyên gia tiếng Phạn đầu tiên trong thế
giới Tây Phương, được gửi đi các nước Á Châu để truyền giáo và đã ghé vào Ấn Độ
năm 1740. Trong dịp này vị ấy mới khám phá ra rằng tất cả các tín ngưỡng mà mình
đã từng tiếp xúc trước đây đều mang một nền móng giống nhau và một giáo lý như
nhau, vị này bèn dùng tiếng Phạn để gọi nền móng tín ngưỡng ấy là
Bauddhamatham, chữ matham có nghĩa
là quan điểm, tư tưởng (view, thought), và trong trường
hợp này thì có nghĩa là một sự tổng hợp giữa một hệ thống triết học và các phép
tu tập liên hệ (an opinion philosophy and practice collectively). Sau này các
học giả Tây Phương dịch thuật ngữ trên đây là
Buddhism
với ý nghĩa là một tôn giáo, tương tự như các tôn giáo hữu thần của họ. Thế
nhưng ngày nay Phật Giáo nói chung tức kể cả Phật Giáo Theravada và Phật Giáo
Đại Thừa, không nhất thiết là một tôn giáo theo cách hiểu của người Tây Phương
căn cứ vào các tôn giáo của họ, và cũng không còn phải là một tôn giáo đặc thù
của Á Châu nữa, mà đúng hơn là một tôn giáo toàn cầu.
Bures-Sur-Yvette, 20.12.13
Hoang Phong