Trong thế giới văn học nghệ thuật Việt Nam thời hiện đại, mỗi
người có một cõi thơ riêng biệt như cõi thơ Bùi Giáng bát ngát càn khôn, cõi thơ
Hoài Khanh ngậm ngùi tha thiết, cõi thơ Phạm Công Thiện huyền mộng phiêu bồng,
cõi thơ Tuệ Sỹ trầm hùng bi tráng, cõi thơ Nguyễn Đức Sơn rờn lạnh hoang vu lửa
tịch mịch, cõi thơ Phạm Thiên Thư lãng đãng nàng thơ sương khói cỏ hoa còn cõi
thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh thì thanh thoát an nhiên, mở ra một miền Huyền Không
Sơn Thượng trầm ẩn tân kỳ.
Thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh sinh năm 1944 tại Hương Thủy, Thừa
Thiên Huế là một bậc tài hoa đủ điệu : Nhà thơ, nhà văn,
nhà biên khảo, nhà thư pháp, nhà mỹ thuật tạo vườn cảnh đồng thời là một đại sư
theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Nam tông với pháp hiệu Giới Đức. Xuất
gia năm 1973 ở Vũng Tàu rồi làm du tăng khất sĩ qua nhiều xứ miền Sài Gòn, Đà
Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng…
Cuối năm 1974 dừng gót lữ phong trần dưới chân đèo Hải Vân lập
cảnh chùa Huyền Không thơ mộng bên triền núi nhìn ra biển trời lộng gió trùng
khơi gần Lăng Cô xanh thẳm. Năm 1978 vì sự đổi thay của thời cuộc, Huyền Không
đành chấp nhận dời về Hương Trà, Huế, nhà thơ cùng với sư Pháp Tông và Huệ Tâm
tạo dựng vườn thiền mới theo phong cách Nhật Bản ngoạn mục bên một con sông lau
lách cạnh làng quê yên ả dặt dìu :
Chùa quê trăng ngủ mái rêu
Đất nghèo hoa nở sớm chiều tự
do
Qua sông ta chẳng lụy đò
Hú dài một tiếng bỏ bờ rong
chơi
Chơi rong một trận bồng bềnh trên sóng gió bể dâu cho đến năm
1989 hưởng ứng phong trào trồng cây xanh, Triều Tâm Ảnh lên núi cao vào tận rừng
sâu heo hút Hòn Vượn, chọn một khu đất hoang sơ rộng rãi có triền đồi thung lũng
hồ nước lập nên phong cảnh Huyền Không Sơn Thượng. Bằng con mắt thẩm mỹ, dưới
bàn tay nghệ sĩ sắp đặt tài tình đã biến nơi hoang dã thiên nhiên thành cảnh trí
diễm tuyệt đẹp lạ lùng chẳng khác chi cảnh thần tiên trong truyện cổ tích. Giữa
khung cảnh núi rừng tịch mịch tĩnh lặng, thấp thoáng vài mái thảo am, ẩn hiện
mấy nhịp cầu bắt qua hồ nước xanh ngần, phất phơ trúc biếc thảo hoa và có lẽ đó
cũng là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời ấn tượng nhất ở nơi “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ.
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.”
Hồn thơ hồn nhạc hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi mỹ lệ
để thi sĩ tiêu dao ngày tháng từ thuở nọ cho đến bây giờ.
Thơ và hơi thở cùng chan chứa giữa lòng núi trầm sâu tĩnh
lặng :
Lắng nghe hơi
thở vào ra
Ngàn năm thân thế sương
sa đầu cành
Lắng nghe hơi thở mong manh
Sợi thương sợi nhớ dệt thành
mộng con
Lắng nghe hơi thở mỏi mòn
Trái tim nhịp đập mãi còn lang thang
Lắng nghe hơi thở dịu dàng
Câu thơ đại định non ngàn vắng
không
Rỗng rang nhập cảnh giới tâm nguyên thiền định, thở bầu không khí
khoáng đãng vùng thượng sơn, bồng tênh trên tinh thần hân hoan sáng tạo diệu
thường, dường như tâm hồn thi nhân đã khai mở được mạch ngầm tâm linh sâu thẳm
nên trào tuôn suối nhạc nguồn thơ tràn bờ chảy lai láng rạt rào. Kỳ lạ là niềm
cảm hứng, sức sáng tạo dào dạt suốt bao nhiêu năm trường vẫn thường xuyên liên
tục đều đều. Nếu như cuồng sĩ Bùi Giáng uống rượu lu bù, nhảy múa quay cuồng
giữa ồn ào phố chợ cũng ra thơ tràn lan lấp lánh thì ẩn sĩ Triều Tâm Ảnh ngồi
tịch nhiên bất động giữa thâm sơn cùng cốc vẫn trào dâng không ngớt thơ văn, thư
pháp rồng bay phượng múa như thường :
Tháng ngày ăn móc uống sương
Lá đùa nắng nhẹ rễ vươn gió
ngàn
Non sâu ẩn giả mơ màng
Gặp thời hợp tiết cao sang
hiển màu
Nỗi buồn không phủi cũng rơi
Niềm vui thư
thái cười tươi với mình
Nhìn xem hoa cỏ hữu tình
Mở ra vô tận trang kinh đời
này
Bước ra thấy núi tọa thiền
Bước vô thấy Phật an nhiên mỉm
cười
Trong ngoài chẳng thấy chữ lời
Mình còn ham viết bụi rơi cửa
sài
Viết và viết miên man, sáng tạo và sáng tạo không ngừng nghỉ vì
thi nhân đã chạm được mạch ngầm tâm tư cảm xúc vi diệu cùng niềm hạo nhiên chi
khí làm bừng dậy cháy lên rực ngời ngọn lửa trong tim hồn rộn rã hòa âm thâm
viễn uyên tư :
Từ ngày đem lửa lên
non
Đốt kinh soi chữ lối mòn mù
sương
Nhen tim ấm áp khu vườn
Đồi đông hạo khí tùng vươn
ngọn tùng
Tùng xanh trúc biếc thông ngàn quyện vờn gió lộng không gian tịch
mịch, lồng bóng hồ trăng thanh tịnh cùng hợp tấu ngân nga quá nhiệm mầu vô
lượng nghĩa thanh tân mới lạ, hòa chan diệu ảo bao nhạc khúc thiên nhiên :
Chuông sương tỉnh thức non
triền
Kinh chiều cây cỏ
an thiền đã lâu
Trăng khuya chữ trắng sơn đầu
Lời vô lượng nghĩa nhiệm mầu
thắng hương
Cần cù đất đá hóa văn
Thông ngàn trỗi nhạc hồ trăng
dập dờn
Cỏ hoa lát thảm mảnh hồn
Hương thơ thấm tận đầu non cõi
huyền
Huyền Không Sơn Thượng đương nhiên là một chốn miền cố quận, là
cõi giao cảm thâm tình chí cốt, là bằng hữu tri âm tri kỷ đi về :
Tung đốm lửa vào lòng khe
Cháy bùng con nước đi về hạo
nhiên
Lá xanh ngủ giữa thung triền
Sáng nay thức dậy một miền cố
tri
Thi nhân lấy núi rừng hoang dã làm bạn tâm đầu ý hợp cố tri, vì
thế ngày đêm nhàn nhã tha hồ trao gởi xiết bao nỗi niềm tâm sự, cứ mênh mang
trút xuống tuôn trào nguồn mạch phong quang sáng tạo và kết tinh thành những tác
phẩm tâm tình sinh động độc đáo vô lường.
Trước những tác phẩm đồ sộ, dày cộm dài mười mấy ngàn trang đủ
thể loại biên khảo, truyện ngắn, truyện dài, thi ca như :
Chèo vỡ sông trăng, Đá trắng chiêm bao, Lửa lạnh non thiêng, Chữ cháy bờ lau,
Giun dế hư vô và hạt lửa xanh, Bụi trăng và lửa, Miền mây trắng, Tình mẹ mùa báo
hiếu, Đóa hồng vàng của Phật, Kinh lời vàng, Sương khói Đường Thi ( thơ ) Ngàn
xưa hương bối, Bức tranh thay đổi thế giới, Người trồng hoa và chàng tu sĩ, Một
cuộc đời một vì sao, Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt, Chuyện của Thiền, Thanh
gươm Ba la mật, Hành hương tâm linh, Thắp lửa tâm linh ( truyện ) Học Phật căn
bản, Người cư sĩ ưu việt, Rèn luyện thơ văn, Phật học tinh yếu, Sử Phật giáo thế
giới, Sử Phật giáo Ấn Độ và Trung quốc, 38 pháp hạnh phúc, Tiếng hú trên đỉnh cô
phong ( biên khảo ) mang chở nội dung
tư tưởng nhân văn và Phật học vô cùng phong phú giá trị, vì thế Viện nghiên cứu
Phật giáo Nguyên Thủy Dallas-fort Worth ở Texas Hoa Kỳ đã trân trọng tuyên
dương, cấp phát văn bằng danh dự Tiến sĩ Văn chương cho thi nhân vào năm 2011.
Trong các tác phẩm đó, ngoài hàng chục tập thơ, nổi bật lên là
truyện dài 6 tập, dài hơn ba ngàn trang
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt,
viết về cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. So với
Ánh đạo vàng của Võ Đình Cường hay Đường xưa mây trắng của Nhất Hạnh thì Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt của Minh Đức Triều Tâm Ảnh dài
nhất, tái hiện lại được toàn bộ sinh hoạt xã hội Ấn Độ từ thời Đức Phật ra đời
đến xuất gia và thành đạo. Đây là một công trình vĩ
đại, chứa đầy tâm huyết, phải có tấm lòng tha thiết say mê văn học Phật giáo mới
thực hiện nổi.
Văn chương, nghệ thuật, thi ca phải chăng là tiếng hát của con
người từ muôn thuở đến muôn nơi trên mặt đất ? Tiếng hát ấy đã bay dậy rung ngân qua cung bậc nhân
sinh vừa ngậm ngùi trầm thống vừa hùng tráng thênh thang, hòa quyện nhau trong
cõi lòng tâm can chan chứa giữa mộng đời vĩnh viễn thiên thu :
Mai hết cuộc tôi xin về núi cũ
Giã từ ngày áo đỏ đèn xanh
Chẳng phải tôi nhớ nguồn nhớ
tổ
Mà bởi tôi chưa dung nổi thị
thành
Tôi đã ra đi bằng bài thơ thứ
nhất
Thuở đầu đời môi rượu lả đường
say
Tôi đã ra đi tự khối tình chân
thật
Yêu trần gian mà không dám cầm
tay
Tôi chẳng biết nơi nao là quán
trọ
Kiếp vốn tha hương cố quận bao
giờ ?
Nếu còn thở tôi vẫn còn bày tỏ
Yêu cuộc đời với nguyên vẹn
tình thơ
Từ tình thơ nguyên vẹn đó, từ những cảm hứng xuất thần nhập diệu,
thi nhân bước xuống dòng sông tâm thức lung linh tĩnh lặng mà
chèo vỡ sông trăng trên con thuyền hồn phiêu nhiên qua khắp mọi miền sông
dài biển rộng, rong chơi thong thả và ung dung nhàn hạ. Đã tự
bao giờ, người thi sĩ lên đường dấn mình vào cuộc khám phá cánh đồng vô tướng,
khu rừng huyền mặc tâm linh. Chuyện ấy khác hẳn với chuyện chinh phục vũ
trụ hay khai khẩn thiên nhiên, bởi vì cảnh giới đó không thể chỉ trỏ cầm nắm gì
được cả mà chỉ thầm trực nhận, cảm nhận ra thôi, nên ghềnh và thác, suối và đèo
ở đây là thác ghềnh của tâm cố chấp vào âm thanh, là đèo núi của tâm nô lệ dính
mắc vào sắc tướng, cần phải vượt qua và vượt
qua :
Qua sông bèn gọi con đò
Nôn nao lá rụng hai bờ sắc
không
Qua sông giữa cuộc phiêu bồng
Mới hay trăm sự trăng lồng
nước xuôi
Khi thấy được mọi sự ở đời như trăng lồng trong bóng nước chảy
trôi thì bao nhiêu phiền não khổ đau trĩu nặng oằn vai trong cõi người ta bỗng
chốc tan biến và tất nhiên nhà thơ liền thấy nhẹ nhõm cất bước
tung
tăng, chẳng còn chi nặng nề trầm trọng âu sầu. Sầu tư chi nữa, khi biết liền lập
tức cái phù du ảo mộng của muôn sự việc ở đời một cách rốt ráo “vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” rồi, nhất là cảm nhận
được sâu xa thăm thẳm cái mặt mũi xưa nay của chính mình từ lúc chưa sinh ra đời,
thành thử tự nhiên mỉm cười tỉnh thức vững chãi thảnh thơi :
Hóa ra chỉ thở và cười
Là trăm niềm nỗi một đời xa
bay
Hóa ra tỉnh thức phút giây
Là ta thấy rõ mặt mày chưa
sinh
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng hỏi Huệ
Minh : “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản
lai diện mục của ông ?” Bất thần nghe hỏi như thế, Huệ
Minh chợt hoát nhiên liền ngộ ngay đương
xứ tức chân hiện tiền sờ sờ trước mắt. Thấy là thấy
liền tức khắc, chẳng đợi mai mốt, tương lai hay vô lượng kiếp sau. Ồ cái mặt mũi thật, cái bản lai diện mục chân dung ấy ở ngay nơi
chính mình, hãy nhận lấy đi thôi, đừng có vọng tưởng chạy tìm kiếm bên ngoài tận
đâu đâu nữa. Xưa nay cũng nhiều cuộc lữ vạn lý du mù mịt rồi, thi nhân
rong ruổi dặm ngàn viễn xứ, cứ trầm tư khắc khoải mải mê kiếm tìm trong vô vọng
quắt quay… Bây giờ thì dường như đã thấp thoáng thấy hiện mặt mày ban sơ nên
dừng gót phiêu bạt giang hồ, trở về với cái thân yêu :
Mải mê giữa chốn chợ chiều
Vai đau tóc lấm đã nhiều gian
truân
Ta bèn rũ áo phủi chân
Dặm không đủng đỉnh chiếc thân
nhẹ hều
Nhẹ hều nhẹ nhõm nhẹ thênh trên con đường mây trắng phong quang,
thi nhân vẫn nhẹ nhàng như sương như khói thong dong giữa tuế nguyệt phiêu bồng.
Lòng vô vi vô trú, ngao du suốt bốn mùa mưa nắng, lãng
đãng qua lại chốn phù sinh. Đôi khi như con chim rừng hứng chí hót chơi dăm ba
điệu vô thanh lảnh lót vu vơ :
Cửa sài hai cánh mở
Mây trắng bước vào ra
Phù sinh chừ rỗi việc
Rong chơi suốt bốn mùa
Con chim qua rừng tía
Buồn nghển cổ hót chơi
Ta có mặt giữa đời
Đổ thơ lên suối chảy
Cõi này cao thăm thẳm
Gậy này bước khơi vơi
Năm tháng ta rong chơi
Chỗ chẳng trời chẳng đất
Cuộc chơi ở đây chính là cuộc lữ thi ca hoằng viễn
thênh thang biển rộng sông dài giữa vũ trụ mênh mông.
Không có một thi nhân nào từ vạn cổ đến nay mà không lấy nhật nguyệt thiên địa,
trăng nước gió mây làm chỗ giao du qua lại, bởi vì mặt trời mặt trăng, mặt đất
trần gian ngút ngàn sông biển mây gió bao la kia là ẩn ngữ thi ca, hàm dung tất
cả tinh túy mật ý mà người thi sĩ muốn bày tỏ với cõi tạm trần
ai :
Như mây lãng đãng sông dài
Và như hoa nắng trên vai ửng
màu
Và như tóc trắng trên đầu
Hạo nhiên gót lữ qua cầu nhân
sinh
Chút lãng mạn của mây trời
Giữa hư không vẽ một đời phiêu
du
Chút lãng mạn của mùa
thu
Giữa chiêm bao vẽ sương mù
lòng ta
Đầu năm nhặt cỏ vườn trăng
Câu thơ thiền đạo mầm măng nhú
chồi
Xanh non màu mắt xuân vui
Bút tâm vừa chạm đất trời nhẹ
rung
Xanh xanh chiếc lá nhân sinh
Hôm qua giọt nước hữu tình đến
chơi
Vì thương sa
mạc lòng đời
Hóa văn tình lọc chữ đời nguồn
trong
Vì thương yêu vô điều kiện, không mục đích nên thi nhân vẫn trung
thành với bước đi cô liêu độc hành ca qua khắp nẻo tồn lưu, nhìn ngắm mọi sự đời
như nước chảy mây trôi, không dính mắc chẳng ràng buộc
vào đâu hết cả. Buồn vui, sướng khổ… ừ thì biết là sướng khổ, buồn vui… thế thôi. Đôi khi cũng chạnh lòng, trằn trọc thao thức khi nghe tiếng chuông
chùa Hàn San của Trương Kế, từ mấy nghìn năm trước vọng về văng vẳng ngân nga.
Tuy sống với núi với đá mà hồn chưa thành đá thành núi, vẫn còn lẩn thẩn với
dòng sông với trăng nước cánh buồm xa vì trái tim vẫn
còn đập nhịp tình đời. Tình đời lý đạo giao thoa ở đây trong một niềm tri kỷ tri
âm thâm thiết không nói nên lời :
Sống với núi mà hồn chưa hóa
núi
Nên đôi khi lẩn thẩn một dòng
sông
Lẩn thẩn cánh chim màu hoàng
hôn ướt sẫm
Cùng cánh bèo xao xuyến nỗi
sầu đông
Tiếng ai hát mà bờ xa sóng vỗ
Đẩy con đò trôi hút cõi cô
liêu
Rừng không ngủ và ngàn sao
không ngủ
Tưởng lắng nghe chuông vọng
bến Phong Kiều
Sống như đá mà tình chưa hóa
đá
Lẩn thẩn trăng và lẩn thẩn
cánh buồm khơi
Đốm lửa chài nhấp nhô miền hư
ảo
Tưởng cùng ta nhấp nháy trái
tim người
Nên nỗi buồn cũng chàm rêu
thành quách
Dòng sông đêm con nước chảy mơ
hồ
Dăm tri kỷ tơ đàn xưa buốt
lạnh
Thoảng mộng trường dăm bảy hạt
sương khô
Giữa nhân sinh trường mộng, mỗi người trong chúng ta có lẽ ít
nhiều đều chạm mặt với nỗi buồn cô đơn khốc liệt, riêng với những tâm hồn thi
nhân thượng đẳng hoằng đại, họ sẵn sàng đón nhận sự cô đơn như đón nhận một tri
âm, tâm đắc ăn nằm với cô đơn một cách thân mật, đậm đà, họ thích tự do tự tại
bước thênh thang những phương trời cao rộng để sáng tác sáng tạo. Chính sự cô
đơn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên. Sứ mệnh của kẻ cô đơn là viết và viết
lên những tác phẩm siêu đẳng, viết văn siêu đẳng, làm thơ siêu đẳng, vẽ tranh
siêu đẳng vì cuộc đời siêu đẳng thượng thặng, tuyệt vời như cảnh giới huyền ảo
sương khói trăng
sao :
Cô liêu đứng giữa
sa mù
Nửa lòng lạnh trắng nửa
thu nhạt mờ
Cô liêu đá cô liêu thơ
Và cô liêu nữa chơ
vơ bốn bề
Bốn bề tám hướng mười phương đều phả một màu cô đơn trầm hậu. Nỗi
cô đơn, niềm cô độc không phải là xa lánh cuộc đời mà trái lại, để cho thi nhân
có dịp trầm tư, cúi xuống lắng nghe giữa lòng đời một cách thành tâm sâu sắc
hơn. Cô đơn và sáng tạo thường đi đôi sánh bước với nhau để cùng khơi mở suối
nguồn uyên nguyên trong tâm thức, nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh biết rất rõ
điều đó nên đã chọn cho mình một thái độ ẩn dật giữa núi non :
Con chim ẩn sĩ qua vườn
Làm rơi chiếc bóng bên sườn
nước trong
Ai kia đứng lặng giữa dòng
Mà nghe nửa có nửa không bàng
hoàng
Núi cao chẳng đứng hai mình
Không trung chẳng thể trăm
tình ở
chung
Bao năm khói bụi đi cùng
Cô đơn chiếc bóng hành
tung khó tìm
Cô đơn rờn lạnh quạnh vắng hoang liêu, người thi sĩ thì thầm
khuya sớm chuyện chi mà trăng tỏ rạng ngời nỗi lòng thiết tha như thế, để cho
thỉnh thoảng xuống núi chơi rong, có bài thơ sương khói làm quà tặng cho dâu bể
vô thường, lòng bồi hồi gió cát và mỉm nụ cười với tứ xứ mười phương hoa cỏ khơi
vơi :
Thơ về phố chợ rong chơi
Đề câu quán khách dặm lời khói
sương
Có khi chữ lấm tro hường
Có khi bụi trắng cúng dường bể
dâu
Dẫu như mây hiện giữa trời
Chút tình trăng nước tạc lời
làm vui
Mười phương gió cát bồi hồi
Mười phương hoa cỏ nụ cười
mênh mông
Có lẽ đó là nụ cười như Ma Ha Ca Diếp trong tích niêm hoa vi tiếu
thuở nào trên tuyệt đỉnh Linh Sơn rờn mây trắng hay nụ cười vô sự của thiền sư
xuống núi hoặc nụ cười vô vi của thi sĩ phiêu bồng những phương trời thi ca bát
ngát mông mênh :
Đạo tình nửa nhớ nửa quên
Chừ ta ở lại giữa miền bụi bay
Thơ còn mây trắng phương tây
Thì lòng thi sĩ tháng ngày còn
xanh
Trên dặm trường sương gió ra đi, thi nhân ngây ngất sững sờ giữa
quên và nhớ cũng như giữa có và không, giữa mộng và thực, giữa sống và chết,
giữa mê và ngộ… Hai trạng thái chỉ cách nhau kẽ tóc đường tơ nhưng thực ra chẳng
khác nhau gì cả mà hòa nhập tương dung tương tức, bất nhị tự thuở nào
rồi :
Đạo đời một mối khôn phân
Tình thiên thu nọ mà gần mà xa
Dòng lên dòng xuống cũng là
Đầu nguồn cuối biển sương
pha
mấy màu
Mấy màu sương pha hỡi dòng đời suối đạo ?
Thôi chớ bận tâm, đừng có mơ màng mộng mị chi thêm nữa mà hãy bất động rỗng rang
với lòng như thị như nhiên. Tuyệt diệu làm sao ! Bước đi không chỗ trú của đạo và thơ giữa ta bà huyễn
mộng phù du :
Ngàn xưa Đạo xuống thảo
lư
Trăng vàng ghé đọc tương tư
mấy mùa
Ngàn sau Thơ xuống hiên chùa
Chỉ nghe lá rụng gió lùa lạnh
hiu
Dìu dặt thần hồn giữa trăm miền quyến rũ
đầy âm thanh và màu sắc mà nhà thơ chẳng mắc dính buộc ràng trói cột vào bất cứ
gì vì đã giã từ, buông xả sạch trơn hết rồi. Đến nỗi bỏ luôn phồn hoa đô hội,
trút hết mộng mị thị thành để đơn thân độc mã, một mình một bóng lặng lẽ âm thầm
lên tận chốn non cao giữa rừng sâu rú thẳm, cắt cỏ lợp tranh trồng hoa vàng gầy
trúc biếc, dựng lên cảnh thần tiên Huyền Không Sơn Thượng. Một cảnh giới thuần
túy thiên nhiên, phưỡng phất ngợp đầy chất thiền vị thi ca giữa trời thơ đất
mộng, bồng tênh lênh láng lãng đãng sương mù và mây trắng chập chùng bay lượn
suốt sớm trưa chiều tối phiêu diêu. Tiêu dao tiêu sái, nhàn nhã thưởng ngoạn
trăng ngàn bàng bạc ngân nga hòa quyện suốt đêm
ngày :
Gánh mộng lên non thả gió bay
Đem thơ vào núi gởi cho mây
Thân ta sương khói phiêu bồng
cõi
Biết dính vào đâu giữa chốn
này ?
Giữa chốn trần gian đầy hỗn độn, lộn nhào đảo hoán mọi giá trị
tinh thần, nhất là giá trị đạo đức đều sụp đổ tan hoang, kể cả tôn giáo cũng đeo
mặt nạ giả dối vì những thủ đoạn của thế lực vô minh xen vào âm mưu phá hoại một
cách tinh vi quỷ quyệt. Biết rõ tận tường chuyện đời điên đảo xảo trá mưu mô đó,
cho nên thi nhân vất bỏ ngoài tai những chuyện thị phi,
xem thường mọi sự như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng
xấu… Thấy mọi hiện tượng, màu sắc, âm thanh, danh lợi đều huyễn hoặc vô thường
như sương bóng phù du, nên lặng lẽ từ tạ giã biệt bỏ đi, có chi đâu mà vướng bận dính mắc, chẳng có gì phải đuổi
bắt hy vọng mong cầu :
Tạ từ xuôi ngược bể dâu
Tạ từ danh tướng sắc màu thế
gian
Non sâu đã lặng tiếng đàn
Đêm đêm nguyệt trúc gió ngàn
vô thanh
Hai bờ trang giấy vô hư
Chữ bơi ở giữa tưởng tư cuộn
dòng
Ta bèn giọt mục sang sông
Đỡ phiền bát nhã đỡ công sắm
đò
Bỏ lên non cao, tìm vào rừng sâu rú thẳm với phong
độ khinh an, thoát vượt mọi tham si, thi
nhân nhẹ nhàng lắng nghe cung đàn vô thanh vi vu vi vút vọng về. Để rồi, mỗi sớm
tinh sương óng ả hay những buổi chiều tà hoang lương cô tịch, bình yên thả bước
dạo vòng quanh qua nhịp cầu Lãm Thương dịu ngát hương sen rồi rong rêu qua hồ
Thủy Nguyệt xanh ngần bóng núi trầm hùng, nhẹ mỉm cười với mấy vần thơ đung đưa
thư pháp bên hiên Am Mây Tía hay thỉnh thoảng, đôi khi cùng tâm sự với hoa vàng
trúc biếc lung linh huyền ảo dưới ánh trăng ngà long lanh lấp lánh :
Qua vườn thăm thảm cỏ xanh
Thăm câu lục bát thăm cành
liễu trơ
Có khi trăng động mặt hồ
Bóng hồn lẫn với bóng thơ bồng
bềnh
Bốn mùa xanh biếc trúc
ơi !
Ruột không tiết thẳng đứng
trời hạo nhiên
Quanh năm nhả khí cao hiền
Còn tung xác lá án thiền tặng ta
Ta yêu trời đất sương mờ
Và yêu mây trắng
ngu ngơ non tùng
Bao năm gót lữ đã từng
Dặm người dặm bụi xin đừng hóa
dâu
Sâu thẳm tình yêu lồng lộng không tên, bềnh bồng thanh khí, thở
cùng hồn đất hồn trời, hồn sông núi thiên nhiên, Huyền Không Sơn Thượng gợi nhớ
đến cảnh giới tuyệt vời Lô Sơn mà Tuệ Sỹ giới thiệu trong
Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng : “Lô Sơn hùng vĩ phiêu bồng nhưng u ẩn.
Lòng núi giấu kín những tâm sự nghìn năm không nói, lòng núi ủ kín những cuộc
đời trầm mặc, những thân thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh
như tro tàn mùa đông. Núi âm thầm cho gió ngàn gào thét cho mây trời vần vũ và những dòng
thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống. Lô Sơn đồng
vọng một cõi thi ca bát ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn ngữ kỳ diệu.”*
Ẩn ngữ ấy được thi nhân nhận biết là hơi thở trong vô biên và là nụ cười trong
thực tại bây giờ :
Chừ vô biên chỉ còn là hơi thở
Và nụ cười bất diệt khắp quanh
đây
Đời đạo sĩ con còng già bỏ tổ
Hóa thân làm lau cỏ ngát đồi
tây
Hóa thân làm cỏ lau xào xạc ven sông, làm hồn hoa cỏ may lay động
bóng chiều tà óng ả, làm giọt sương mai óng ánh, làm đá tảng triền đồi hát vang
những lời vu vơ thơ nhạc ban sơ phơi
phới :
Có khi tâm đá thốt lời
Có khi hồn cỏ dạo chơi thung
triền
Cũng là thơ cũng là thiền
Sương treo công
án một miền lá xanh
Xanh ngát ngàn thông vi vu vi vút giữa
truông đồi mây gió hoang vu, không còn phân biệt đâu là ngày đâu là đêm, đâu là
thực đâu là mộng, đâu là đến đâu là đi… Chỉ biết rằng chút thân bèo bọt này đã
trải qua vô lượng kiếp trùng trùng sinh diệt giữa biển trầm luân nghiệp báo lưu
linh
rồi :
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là
trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã từng tử
sinh
Thấy sinh tử như những bọt sóng nhấp nhô nổi trên mặt
biển hiện tượng có sinh có diệt đồng thời cũng nhận biết bản thể của sóng là
nước, vốn không sinh không diệt thì lòng trạm nhiên rỗng lặng, chẳng còn sợ hãi
gì nữa. Mưa nắng phiêu nhiên, tuế nguyệt phiêu bồng
mở ra bát ngát cõi thi ca lồng lộng để hồn thơ phiêu diêu sương khói vô vi, quên ta quên người, quên thân quên thế, quên mộng quên
thực, quên hết xưa sau… Chỉ còn lại hương vị cô liêu dìu dặt tình yêu thương
không đối tượng mà chứa chan bao cảm mộ giao hòa với thực tại bây giờ và ở
đây :
Bài thơ viết giữa khói mây
Ngẩn ngơ sương trắng
lay bay rừng chiều
Chim trời rớt hạt cô liêu
Mới hay câu chữ nghiêng xiêu
bóng mình
Qua cầu bỏ bóng quên mình
Bóng bao nhiêu ảnh mê tình bấy
nhiêu
Cỏ xanh liễu biếc yêu kiều
Thế thân sương khói phiêu diêu
mấy bờ
Mấy bờ lau lách xanh reo cười nói điều chi như thế, để trên ngõ
về cố quận, nếu ngày xưa nhà thơ Phạm Thiên Thư có lần mơ ước một ngày nào đó sẽ
lên núi rừng cao thẳm lập am mây bên động hoa vàng để tự do ca hát say sưa cho
thoải mái, thỏa nguyện, thỏa chí bình
sinh :
Mai sau trời đất thái bình
Về lưng núi phượng một mình
túy ca
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ
mây**
Thì hôm nay, nhà thơ Triều Tâm Ảnh đã thực hiện được
ước mơ đó một cách ngoạn mục như ý rồi. Ơi
chao ! Suốt bình sinh một đời người, thi sĩ buông xuống xả ly hết mọi sự
để thể nghiệm niềm tự do vô ngại ngay nơi bản thân và đã cảm ngộ vô ngần niềm tự
do đó giữa nhật nguyệt thiên địa, mưa nắng gió trăng, cỏ hoa mây nước, sương
ngàn núi biếc quyện hòa trên cung bậc Nhất
Như :
Lối nhỏ qua cầu bóng thảo
lư
Vườn thơ vườn cỏ dáng khiêm từ
Mấy mùa lặng lẽ màu thanh thủy
Bao độ u nhàn nghĩa cổ
thư
Trăng ghé hồ trăng không lại
có
Gió xao cành gió thiệt rồi hư
Hốt nhiên tâm ý đàm hương
quyện
Soi tỏ trời chiều một chữ Như
Chữ Như của thi sĩ Triều Tâm Ảnh khiến cho chúng ta sực nhớ lại
chữ Như của thiền sư Phước
Hậu :
Kinh điển lưu truyền tám vạn
tư
Học hành không thiếu cũng
không dư
Đến nay nghĩ lại đà quên hết
Chỉ giữ trong lòng một chữ Như
Như Lai, Như Như hay Chân Như, Phật Tánh đều giống nhau, chỉ cái
bản thể Diệu Tâm thâm thúy của vũ trụ nhân sinh vốn có sẵn, luôn luôn hiện hữu
ngay trước mắt mình đây thôi như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đã
nói : “Tất cả chúng sinh đều có
Phật Tánh, Phật Tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.” Khi mình thấy muôn loài vạn
vật đều sống trong Phật Tánh thì tức là thấy tánh và tướng của sanh tử là Niết
bàn đều an lạc, vô ngại tự tại tự do.
Có một hành giả hỏi thiền sư Cảm Thành : “Thế nào là Phật ?” Sư đáp :
“Khắp tất cả chỗ.” Lại hỏi tiếp : “Thế nào là tâm Phật ?” Lại
đáp : “Chẳng từng
che giấu.” Như thế, chẳng từng che giấu và
khắp tất cả chỗ
là sự bình đẳng tuyệt đối của Phật Tánh.
Đây là sự bình đẳng rốt ráo, bất nhị của Niết bàn và sanh tử, của Phật Thích Ca
và chúng sinh.
Tánh Phật bất khả tư nghì cũng giống như Tánh Không mông mênh
chẳng ngằn mé kia, cho nên không có bất cứ một chúng sinh nào có thể sống
ngoài Tánh Không được cả. Tánh Không vô ngại rỗng rang vốn tự do tự tại, giải
thoát triệt để ngay từng giây phút
như thị như nhiên, như vầy như thế, như
thơ như nhạc, như có như không, như mộng như huyễn, như rứa như ri ngay đang là
đó tức thì :
Ta và mặt nhật cùng đi
Chẻ câu thơ thấy man di kiếp
người
Trăm năm một hơi thở thôi
Ta cùng chữ thức giữa trời tự
do
Tay buông tay bắt phí công
Thế tình tan tụ có không lẽ
thường
Ai người còn bỏ còn vương
Ngắm nhìn như thị bụi hường ở
đâu
Bụi hồng khói đỏ, cỏ vàng lá xanh hay niết bàn sinh
tử, thiên đường địa ngục…đều tùy duyên biểu hiện chập chùng như hoa đốm giữa hư
không mà thôi. Vậy thì, chúng ta hãy sống trọn vẹn,
hít thở bầu tự tánh Chân Không, Tánh Không rỗng lặng, tuyệt nhiên chẳng nên hoài
công phí sức tiêu diệt hoa đốm làm chi nữa :
Sợi tóc chẻ vô công
Chẳng thể thấy Chân Không
Tìm đốm hoa mà diệt
Có sạch được trần
hồng ?
Hỏi tức là trả lời rồi.
Vì thế, cuộc đời người thi sĩ xuất chúng kia tự nhiên thanh thoát, sáng ngời như
một bài thơ bất tuyệt giữa đỉnh cao và hố thẳm tâm linh đã về đã
tới :
Bài kinh đi suốt cuộc đời
Đêm nghe gió nổi tiếng lời
sạch không
Chừ đây một cõi phiêu bồng
Chỉ còn ta đứng mênh mông bóng
mình
Muôn xưa bóng bọt đăng trình
Muôn sau bóng bọt tấp ghềnh
chiêm bao
Chiêm bao huyễn mộng cũng là thực tại, một thực tại
hiện tiền ngay trước mắt. Đức Phật đã chỉ rõ cho
chúng ta thấy cái pháp thực tại ấy trong kinh Pháp Bảo : “Pháp đã được
khai thị bởi đức Thế Tôn là thực tại hiện tiền, phi thời gian. Hãy quay đầu là thấy ngay trên đương xứ mà mỗi người trí tuệ đều có
thể tự mình chứng nghiệm.” Hay như Lục Tổ Huệ Năng
: “Trong sát na không có tướng sanh, không có
tướng diệt mà cũng chẳng có sự sanh diệt nào phải diệt đi cả. Đó là cái thực tại
hiện tiền tuyệt đối, không hạn cuộc bởi một ranh giới nào, nên lúc nào cũng tự
tại an vui.”
Như vậy, nói theo sư Viên Minh, người bạn thâm
tình chí cốt, huynh đệ với Triều Tâm Ảnh :
“Pháp của Phật phải hội đủ những tánh chất : Thực tại hiện tiền, hồi đầu mà
thấy, thấy ngay lập tức không qua thời gian, phải ứng xử ngay trên thực tại thì
mỗi người sẽ tự thấy ngay…Thiền tông nói rằng : “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh
thành Phật.” Trực chỉ không thể ngày mai, ngày kia phải thế
không ? Thẳng vào tâm mình cũng có nghĩa là trở về ngay nơi thực tại hiện
tiền này, đừng đợi thời gian, hãy trở lại mà thấy cái ngay tại đây và bây giờ.
Đó cũng chính là kiến tánh… Khi đang sân, ngay lúc đó chỉ có
cái sân là thực, chúng ta cần trọn vẹn thấy rõ cái sân đó với toàn bộ tính chất
của nó. Ấy mới là kiến tánh, mới là cước căn điểm địa. Nó chính là định
là tuệ, chẳng có cái định, tuệ nào tối thượng hơn.”***
Có lẽ thường xuyên sống trong thực tại mới mẻ đang là như thị đó,
cho nên thi nhân vẫn im lặng sáng tỏ, buông bỏ xuống hết trăm công nghìn việc,
vắng vẻ mọi nỗi ưu phiền :
Trần gian trăm việc tạm yên
Thơ đề góc núi đầy hiên nắng
vàng
Gió trăng thế sự không bàn
Giấc thiền lặng lẽ nhẹ nhàng
tình không
Rỗng rang nhàn nhã, bao nhiêu nhiêu khê tế toái chuyện thế gian
chẳng còn bận tâm luận bàn chi thêm nữa cho mệt, chỉ còn biết hứng thú làm thơ,
thường xuyên viết thư pháp, đàm đạo uống trà cùng hư vô hố thẳm và lắng nghe
trăng khuya đọc thơ chơi giữa ngàn sao chiếu diệu
vời :
Trăng khuya tìm đọc thơ rơi
Núi rừng đã ngủ đất trời còn
ta
Mời hư vô cạn
chung trà
Giọt sương thinh lặng la đà
hiên văn
Trăng ngồi góc núi làm thơ
Mây qua đỉnh biếc viết tờ kinh
không
Thương ai tất tả dặm hồng
Lên đây lượm chút phiêu bồng
về chơi
Còn hoa thì bướm tìm về
Còn kinh còn chữ tỉnh mê còn
bàn
Còn lý sự còn
lan man
Ra sông úp chiếc đò ngang khỏe
liền
Tuyệt diệu là khỏe liền như thế đó mà có mấy ai thực hiện được gì
đâu ? Thôi thì, một khi thi nhân lãnh hội được điều ấy
rồi thì cứ việc thong dong thoải mái đến đi, tùy thuận tùy duyên mà chuyển hóa
những tâm hồn đồng điệu bằng phương tiện nghệ thuật thi ca thiền học.
Thiền và thơ như đôi cánh phụng hoàng tung bay chín tầng trời cao ngất
như thi nhân nhận định
: “Thơ bay vi vút trong không
gian thẩm mỹ ước lệ, Thiền bay thênh thang trong cõi tịch mặc, trong sáng và vô
duy. Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, làm cho con chữ lấp lánh nhiều sắc màu, ý
tưởng, lung linh đa chiều tư duy và cảm xúc, Thiền là tinh hoa của minh triết
Đông phương, là đóa trăng soi giữa miền u tĩnh, đánh thức vô minh, vọng lầm để
tao ngộ với quê hương sơ thủy. Thơ là sự suy tưởng của triết lý thất bại, là
giấc mơ tại thế, là cánh chim ước vọng bay vào giấc mơ riêng tư, cô đơn nhưng
lại xa rộng khôn cùng, nó còn muốn nhảy vào cả hố thẳm vô thức câm nín nữa,
Thiền là miền đất bên kia, thuộc lãnh địa của tâm năng trực giác, là chỗ mà lý
trí tuyệt lộ, là ngôn ngữ vô ngôn của cố quận thuở ý tưởng và khái niệm chưa
sinh ra đời… Cả thơ và thiền đều như trăng, chẳng soi chiếu cho riêng ai mà làm
sáng cho tất cả. Trăng còn để dành cho khách lãng tử và bạn tri âm, đôi khi nó
đối ẩm với chính mình, cỏ hoa và trời đất nữa.”
Thật vậy, trăng gió nước mây, hoa vàng trúc biếc, giun dế chim
muông… là ẩn ngữ của thiền và thơ như Thiền Lão đại sư có lần tuyên
bố :
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh
khác
Trăng trong mây trắng hiện
toàn chân
Chân Tâm, chân lý như thị như nhiên, hiện tiền ngay trong từng sự
vật bé nhỏ, ngay trong mỗi lá cỏ đóa hoa dại ven đường như thi sĩ Quách Thoại có
lần đã sực thấy thẳm
sâu :
Đứng yên bên hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu
Còn nhà thơ Triều Tâm Ảnh thì thấy nghe vi diệu tuyệt vời ngay
trong các loài động vật nhỏ bé như giun dế, chim chóc líu lo ríu rít huyền
hòa :
Chim và giun dế du ca
Hát lên nào hỏi quê nhà là đâu
Lang thang trăm quán nghìn cầu
Trái tim nốt nhạc bên nhau chẳng rời
Dĩ nhiên đó là những ẩn ngữ của thi ca và thiền.
Tiếng thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh là tiếng lòng rung động khôn dò của một đạo
nhân hay một thi sĩ đã dấn mình đi sâu vào hố thẳm và đỉnh
cao của cuộc đời, lang thang trong thế giới phiêu lãng của ngôn từ, đốt cháy lên
từng con chữ, từng khái niệm hữu vi vô vi làm bừng sáng tư tưởng thượng thừa
vượt thoát nhị nguyên, huyễn ảo chiêm bao :
Dấu chân trên cỏ hôm nào
Vẫn còn sương ướt lời chào cố
tri
Kẻ hữu vi
người vô vi
Mênh mang mây nước cuộc đi
cuộc về
Có thiền ẩn tận hang sâu
Có thiền vào chợ dăm câu ba
vần
Hỡi ai phiêu lãng đường trần
Quay nhìn chiếc bóng chợt gần
chợt xa
Câu thơ đốt lửa ra đi
Đất trời khát vọng trí tri
cuộc bồng
Phiêu nhiên cháy một đốm hồng
Soi vài vệt tối chút không tìm
về
Tay cầm một đóa đông phương
Niềm vui hoa nở con đường hữu
duyên
Nước mây chan chứa đạo thiền
Yêu thương khổ đế não phiền
trăng soi
Trần ai còn khổ đế, ta bà còn khổ lụy là thi nhân vẫn
còn tiếp tục làm thơ và hành thiền. Tiếng thơ ấy
đang cưu mang một tính mệnh quê hương Việt Nam lớn lao như lời nhận xét tinh tế
của thi sĩ Phạm Công Thiện : “Đọc đi đọc lại mấy lần, mấy chục bài thơ của Triều Tâm
Ảnh, tôi có linh cảm rằng thi sĩ đang cưu mang một Tính Mệnh lớn lao mà có ít
thi sĩ Việt Nam nào hiện nay có thể đủ trầm lặng đạo lực cưu mang nổi. Không
phải vì những tên tuổi bi tráng như Nietzsche hay Rimbaud mà tác giả yêu thích
đã khiến tôi nhận xét như trên mà vì chính những gì loáng thoáng đàng sau những
dòng thơ kỳ diệu của thi sĩ.
Thi nhân ở đây
đồng thời cũng là một đạo nhân.
Thi nhân đang đứng giữa trung tâm điểm cơn bão tố địa cầu, đứng giữa Triêu dương
của Đông phương và Tịch dương của Tây phương, đứng giữa Tây nhập và Đông khởi
của Hoa Nghiêm Kinh… Như những đám mây
trôi nổi ở vùng mặt trời lặn, tôi xin gởi đôi dòng linh cảm này về thi sĩ và tạ
ơn được đọc những bài thơ sâu sắc tuyệt đẹp, ít thấy trong thi ca Việt Nam
hiện đại.”
Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh hay cõi thơ thanh thoát an nhiên
đó đã khơi mở biết bao cảm hứng cho những nghệ sĩ thi nhân, nhất là cảnh giới kỳ
tuyệt Huyền Không Sơn Thượng kia, như có một thần lực vô hình chiêu cảm những
bước chân du tử lãng tử, những hành nhân thi sĩ đi về hân hoan nôn nao hồn reo
vui rộn rã :
Huyền Không Sơn Thượng rất xa
Đã qua làng xóm còn qua núi
đồi
Ở đây vườn cảnh xanh tươi
Lan rừng nở rộ chim trời hót vang
Đã trở về mái nhà xưa
Thì trăng thì gió bốn mùa
thênh thang
Lắng nghe chim tấu khúc ngàn
Lắng nghe hơi thở dịu dàng cỏ
thơm
Đợi làn mây tía qua hiên
Chung trà hương sói kết duyên
bạn bầu
Khói sương ý hợp tâm đầu
Lá hoa cười nói chữ câu xóa
liền
Huyền Không Sơn Thượng ơi ! Lang thang sĩ này cũng từng về nơi
chốn ấy nhiều lần rồi, thường lặng lẽ một mình lên nằm mắc võng đong đưa giữa
hai đầu nhật nguyệt một vài hôm để lắng nghe tiếng thơ tịch mịch vang dội rền
mênh mang khắp đất trời. Có bận đi với thi sĩ Trần Đới, Phạm Thư Cưu, Hải
Tuệ, Kiều Trung Phương, vài lần cùng với Nguyễn Văn Nho chọn một đêm rằm lên
ngắm trăng Huyền Không Sơn Thượng. Sương khuya lãng đãng hòa quyện trăng ngàn
xanh biếc lùa vào thảo am ngan ngát hương trầm, chỉ còn nghe gió thiên thu đồng
vọng trong giọng ngâm thơ của Nguyễn Văn Nho truyền cảm làm xao động mấy cành
trúc la đà phất phơ quanh bờ suối hoa vàng và tôi cũng trầm hùng đọc một bài thơ
mới vừa cảm tác giữa cùng cốc thâm sơn :
Đường lên đó thoảng lời chim lảnh lót
Dọc ven sông hoa nắng trổ thơm lồng
Dòng Hương khuất sau cánh rừng cây lá
Qua dốc đồi thoáng hiện bóng Huyền Không
Không mà có khi lòng buông bỏ hết
Thì thong dong là cái được của Huyền
Kinh lời vàng
vọng ngàn xưa hương bối
Chợt bừng ra vi
diệu nghĩa uyên nguyên
Miền sương trắng
lặng hồn sâu trầm tịch
Tình non thiêng hiển lộ cái vĩnh hằng
Cầm rất khẽ làn hương khuya mới mẻ
Nghe ngoài kia ai chèo vỡ sông trăng
Về ngõ hạnh hành hương tâm linh nọ
Gió muôn trùng không dấu vết thơ bay
Ồ đá trắng chiêm bao
thành thực tại
Cõi thi ca bát ngát giữa phương này
Tâm Nhiên
* Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha
những phương trời viễn mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973
** Phạm Thiên Thư. Động hoa vàng. Tiếng Thơ xuất bản, Sài Gòn
1971
*** Viên Minh. Thực tại hiện tiền. Tôn
Giáo xuất bản 2005
Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh
( chữ
nghiêng ) trích trong các tác phẩm :
Chèo vỡ sông
trăng.
Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế xuất bản 1993
Chữ cháy bờ
lau.
Thuận Hóa xuất
bản
2004
Giun dế hư vô
và hạt lửa xanh. Văn Học xuất
bản 2008
Bụi trăng và
lửa. Văn
Học xuất
bản
2011