Trong nhân gian, từ lâu đã tồn tại
khái niệm về địa
ngục, coi đó là một nơi
trừng phạt
cái ác, trừng phạt những
con người bất thiện,
và biểu tượng của
sự khổ.
Nói cách khác, địa
ngục là nơi
chỉ tồn
tại những
cái khổ nối tiếp
nhau, một nơi đáng sợ
với những
hình phạt thảm khốc
hay là một thế giới
u minh với những lời
phán truyền và chịu tội.
Một vài quan điểm cho rằng
nếu không tuân thủ những
tín ngưỡng thần quyền
thì sẽ bị trừng
phạt giam hãm trong địa ngục
vĩnh viễn. Và
cũng có quan điểm cho rằng địa
ngục là nơi
công bằng nhất
vì không có thiên vị
mà chỉ có “
thiết diện
vô tư”.
Với cái nhìn thấu đáo bản thể sự vật, Phật giáo
đưa ra khái niệm về địa ngục và những yếu tố tạo nghiệp dẫn đến thọ khổ địa ngục
trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Theo kinh
Địa Tạng, nguyên nhân tạo ra địa ngục là như sau:
“Địa Tạng
Đại sĩ nói với Đại Bồ-tát Phổ Hiền. Thưa nhân giả, tất cả địa
ngục ấy được cảm ra bởi nghiệp lực của những kẻ làm ác ở châu Diêm phù”. Như vậy, bất thiện là nguyên nhân đầu
tiên dẫn đến địa ngục. Điều này cho thấy địa ngục chính là hệ quả của những hành
vi tạo ác. “Kẻ làm ác” ở đây chính là con người. Chính nơi kết quả này mà các
tôn giáo cũng như các hệ tư tưởng đã hình tượng hóa hoặc chỉ rõ những kết quả
của quá trình nhân quả qua những ngôn từ hoặc hình ảnh. Ngang qua đó, địa ngục
được hiểu là một cảnh giới đau khổ được thích nghĩa “vô
lạc, khả yếm, khổ khí, khổ cụ, hữu và vô”. Được hiểu là: không có niềm vui,
toàn là nỗi khổ đáng sợ; và hoàn cảnh xung quanh cũng làm tăng thêm không khí
sầu não; những dụng cụ đồ vật cũng làm tăng thêm nỗi khổ..v.v... Tuy hàm nghĩa
hẹp hay rộng, thì địa ngục là nơi khiến cho chúng sanh bức bách và khổ đau.
Xét trên kinh văn, địa ngục là do cảm
ra bởi nghiệp lực của những con người làm ác. Đây là hiện thân của nguyên lý
nhân quả, xuất phát từ ý nghĩa:
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiễm ô
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo.
Cảnh khổ phát xuất từ chủ ý tạo tác của con người.
Chủ thể địa ngục không hề có theo nghĩa hữu và vô, nhưng khi những tác nhân ô
nhiễm tác động thì hình thành nên địa ngục. Con người là kết quả của khổ nghiệp:
“Phù nghiệp thệ thọ thân, vị miễn hình lụy”;
hay “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân.
Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?”.
Hệ lụy của nghiệp dẫn đến thọ thân, và ở đó nghiệp hoặc đã tiềm tàng những cái
khổ và thọ khổ. Nếu yếu tố khổ xuất hiện nhiều hơn lạc thì đó chính là hiện thân
của vô lạc, khả yểm. Xét trên bình diện của cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy
điều này.
Xung quanh ta, có người vừa sinh ra đã chịu thiệt
thòi, suốt cả cuộc đời họ phải sống chung với những đau khổ. Cũng có người sinh
có được một cuộc sống đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần và trên cơ sở đó họ dễ
tạo thiện nghiệp để tăng thêm phước lực. Nhưng yếu tố bất thiện luôn tiềm ẩn bởi
con người ẩn chứa trong mình những hạt giống tam độc. Khi tam độc có mặt thì ý
sẽ dẫn hành động tạo nghiệp ác. Tam độc đã khiến con người “Gặp
được việc tốt thì phần nhiều hay lùi mất tâm chí ban đầu, còn gặp phải sự xấu
thì tăng thêm tội lỗi ngay trong từng ý nghĩ”. Từ đặc điểm này khiến “động tâm động niệm toàn là tội lỗi”.
Công cụ tạo nghiệp chính là thân ngủ uẩn; mặc dù
trên hợp duyên tứ đại, nhưng yếu tố tạo nghiệp do ý thức đã tạo thành những khổ
lụy kéo dài và nghiệp cảm cũng từ đây mà ra. Ở đây ta nói đến hiện thân của tứ
đại và ngủ uẩn, vốn không chủ thể, vốn vô thường. Bản chất của ngủ uẩn và tứ đại
không là động cơ tạo tác, mà chính yếu tố tham ái mới là nguyên nhân: “Chính
là khát ái này, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này,
chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái”.
Và chính ái này được hỗ trợ bởi năm thủ uẩn. “Tức
là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn”.
Ái
chính là hiện thân của khổ tập. Và khổ tập chính là nhân tố của thế tục đế chỉ
cho những hành động thiếu sự có mặt của trí tuệ. Kinh
Địa Tạng viết: “Kẻ chưa giải thoát thì
thức tánh bất định: Làm dữ thì kết thành khổ quả, làm lành thì
cảm ra phước báo, và làm dữ làm lành gì cũng tùy hoàn cảnh chi phối; rồi luân
chuyển năm đường liên miên bất tận, trải qua những kiếp nhiều như cát bụi mà vẫn
còn mê mờ, lầm lẫn, vẫn bị chướng ngại, tai nạn”.
Hoàn cảnh ở đây chính là yếu tố của
năm uẩn kết hợp với hoàn cảnh thực tại nơi con người đang sống hay còn gọi là
căn-trần-thức… Trên yếu tố của tứ đại, ngủ uẩn có cả thảy 8 thức theo Duy thức
học. Nhưng biểu hiện dễ nhận biết có ba thành phần và sáu chi: sáu căn nhãn,
nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý, tiếp xúc với sáu trần gồm có sắc, thanh, hương, vị,
xúc và pháp. Từ sự kết hợp giữa căn và trần sinh ra sáu thức gồm nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân và ý thức. Nếu trong sự tiếp xúc này có mặt của ái thì nó trở thành
những chấp thủ về sắc và pháp thông qua phù trần căn và tịnh sắc căn. Từ đó
thông qua Mạt-na thức và A-lại-da thức tạo thành những chủng tử thiện hay bất
thiện. Khi chủng tử thiện hiện hành thì lạc thọ xuất hiện, khi khổ thọ xuất hiện
thì cả thân và tâm bị chi phối bởi những cảm giác bất ổn; và có thể dẫn đến
thân, lời nói và hành động thiếu kiểm soát… rồi tiếp tục tạo nên những hành vi
bất thiện…
Một con người bình thường vốn hiền
lương, nhưng khi tam độc làm chất xúc tác cho căn-trần-thức thì sinh ngã và ngã
sở, từ đó sẵn sàng bảo vệ, chiếm đoạt những cái họ cho là ta hay của ta, và cũng
từ đó dẫn đến những hành động làm tổn hại đến thân thể và tinh thần của người
khác, thậm chí là của chính mình… Và từ đó, oán kết kéo dài. Nếu bất thiện
nghiệp nhiều hơn thiện nghiệp thì dẫn đến thọ sanh trong những thế giới khổ và
đầy đủ cảnh khổ. Nhưng trong mối tương quan đặc biệt, mỗi khi một yếu tố của
căn-trần-thức của một uẩn xuất hiện cùng với ái, thì chuyển động đầy đủ các yếu
tố còn lại, đây chính là nguyên nhân dẫn đến oán đối và nội kết… Khi đó chúng ta
tự mình không cảm nhận được niềm vui, dù hoàn cảnh đó người khác vẫn thấy an
nhàn và thanh thoát. Điều này được thi vị hóa với câu:
Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Như vậy, cảm thọ của con người tác
động lên hoàn cảnh. Nó xuất phát từ tâm của con người đang ở trạng thái của thọ,
nên cho dù hoàn cảnh nơi đó đang vui, nhưng với một người đang ở trạng thái buồn
chán thì cảnh đó cũng chẳng làm cho họ vui được. Điều này chúng ta có thể cảm
nhận được ngay nơi chính bản thân mình. Ví dụ, khi tứ đại của mình bất hòa thì
những món ăn ưa thích hàng ngày cũng chẳng làm mình hứng thú, hoặc nhưng hương
vị hàng ngày mình thích trở nên nhạt nhẻo nhàm chán. Yếu tố bất định như vậy nên
hàm nghĩa hữu và vô. Tùy theo quan kiến của mỗi người để chiêu cảm những cảm xúc
của mình. Như vậy, không phải khi chết cảnh khổ mới hiện hình để hành hạ hay chờ
đợi những phán xét, mà hiện thời, con người đã bị bức bách đau khổ.
Những nghiệp nhân địa ngục không phải do mặc khải bởi ai đó mà do
con người tạo nên. Trên tứ đại ngủ uẩn giả hợp với sáu căn thức, khi không có
mặt của trí tuệ đã trở thành những công cụ tạo tác nghiệp ác. Đặc thù của những
khổ thọ địa ngục rất chính xác, nó trở lại trên từng cá nhân thông qua cảm thọ
và người nào tạo tác người ấy sẽ gánh chịu. Sự cảm thọ này được nêu rõ qua kinh văn “Chí thân như tình cha con đi nữa, cũng đường ai nấy đi.
Túng sử gặp nhau, cũng không được chịu thay cho nhau”.
Điều này khẳng định, nghiệp địa ngục không mang tính di truyền hay đồng bộ mà
chỉ có chủ thể tạo tác và những hệ lụy từ hành động của chính mình. Nên để cho
mọi người ý thức được việc này, Đức Phật thông qua hệ thống kinh điển đã dạy: “Giống
như mình tung bụi ngược gió, bụi không đến người kia, trở lại dính vào mình”.
Chủ nhân tác nghiệp thì tự mình thọ nhận, không sai
sót mảy may. Tuy nhiên, mỗi khi “động khí phát thô” thì khuấy động lục
căn, tạo nên những ảnh hưởng, có thể tác động đến những người xung quanh, làm
cho hoàn cảnh xung quanh thay đổi nhất thời. Cũng có thể là người khác sanh tâm
hỷ nộ ái ố, nhưng trước hết, chính bản thân người tạo ra nó đã bị chính ngọn lửa
của si mê và cuồng nộ đốt cháy…
Thông thường, các hệ thống luật pháp thế gian chỉ
chỉ rõ hình phạt và khung hình phạt cho những điều trái với quy ước của mỗi địa
phương, quốc gia, vùng miền, còn tư tưởng giáo dục theo nguyên lý nhân quả, tạo
nghiệp và trả báo hay lãnh thọ khổ cảm thì không được đề cập đến. Khi đã tạo
nhân của địa ngục thì dù ở bất cứ nơi đâu “nhân duyên hội ngộ thời, quả báo
hoàn tự thọ”.
Tuy nhiên, tư tưởng diễn tả khi chết trả báo trong địa ngục và sáu nẻo luân hồi
chỉ rõ ở giai đoạn hậu báo trong nguyên lý nhân quả. Còn sinh báo, thì người nào
đã sinh ra thì có những cái cảm thọ của riêng họ. Nhưng để cho con người tránh
những khổ đau từ hậu báo, các tôn giáo hoặc các hệ tư tưởng thường khuyên răn
con người tránh những hành vi bất thiện. Tiền nhân đã nói:
Muốn biết nhân đời trước,
Xem thọ báo đời nàỵ
Muốn biết quả đời sau,
Xét việc hiện đang làm!
Việc đang
làm chính là cuộc sống của chúng ta hiện tại. Nếu xây dựng một môi trường thân
thiện thì cuộc sống và hoàn cảnh gia đình, cơ quan của mình luôn được hưởng
những kết quả thân thiện, hạnh phúc. Còn nếu với tâm tham, sân, si, mạn... thì
tạo nên một môi trường căng thẳng, và nơi đó chính là địa ngục giam hãm chúng ta
hằng ngày. Nói rộng ra, xã hội chúng ta hiện đang chịu ảnh hưởng của những hành
động bất thiện do con người tạo ra. Thực tế cho thấy, con người đang hủy hoại
mạng sống của nhau bằng những thực phẩm bẩn, hóa chất gây hại cho sức khỏe, tàn
phá môi sinh... Và như vậy, con người đang tạo nghiệp địa ngục và hiện tại đang
sống trong “kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược”.
Đây cũng chính là sự chiêu cảm của năng lực tạo tác. Và tuy có cộng nghiệp và
biệt nghiệp, nhưng đều có chung một cảnh giới và hoàn cảnh xung quanh dễ chiêu
cảm những khổ thọ. Chính nghiệp bất thiện là nền tảng dẫn đến cảnh giới này.
Chính ở đây cho thấy cần hiểu khái niệm địa ngục như là sự sách tấn con người
phải biết sống bằng chánh nghiệp và chánh mạng. Nếu như ai cũng biết và hiểu về
những nguyên nhân dẫn đến khổ đau thì họ sẽ sống tránh xa khổ đau. Nhưng, hầu
như con người khi khổ mới biết, và khi biết cũng là lúc khổ thọ và những cảm
giác của khổ thọ đang đè nặng lên họ.
Hệ thống kinh điển nhà
Phật chỉ rõ những hành vi dẫn đến thọ khổ trong hiện báo và hậu báo. Thông qua những đoạn trích từ các kinh
điển cho chúng ta ý thức được những việc chúng ta đang làm có thể tạo ra những
nghiệp gì. Tuy nghiệp nhân của địa ngục có muôn ngàn hiện trạng nhưng được thể
hiện qua thân, khẩu, ý. Đây cũng chính là nơi để tạo phước, nhưng cũng chính là
nơi tạo ra những khổ đau. Nói cách khác, nếu chúng ta không sử dụng ba nghiệp
này vào sự quán chiếu tu tập thì nó sẻ trở thành công cụ tạo ác...
Hiểu về địa ngục trước
hết chúng ta cần hiểu những động cơ và hành vi dẫn đến địa ngục. Chúng ta cứ
tưởng tượng ra những cảnh khổ khủng khiếp sau khi chết mà thường quên đi mình
phải làm gì để tránh khỏi những cảnh đó. Hiện thân của địa ngục là tham, sân,
si, mạn, nghi, ác kiến, biên kiến, tà kiến... Chính những thứ này dẫn dắt chúng
sanh ngay trong đời đã tạo ra những sinh báo địa ngục. Vậy chỉ có con đường
thanh tịnh tam nghiệp theo giới, định và tuệ mới là cách đống tất cả các lối vào
địa ngục. Và Tịnh độ chính là nơi tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Vĩnh Thi