Thích Thái Hòa
Nhân duyên học
là gì? Nhân duyên học
là học về giáo lý
do Đức Phật
dạy có nội dung về nhân duyên và
nhân quả. Nhân, tiếng Phạn gọi là Hetu.
Duyên, tiếng Phạn gọi là Pratya
và Quả, tiếng Phạn gọi là Phala.
Nhân hay hetu
là năng lực hay động cơ tác động;
Duyên hay pratya là những điều kiện tương tác, hỗ trợ khiến cho từ nhân sinh
khởi quả và quả hay phala là kết
quả hình thành do quá
trình
tác động thành tựu của nhân và duyên.
Nhân duyên, nhân quả là một
thực tại khách quan, là
chân lý
phổ
biến cho mọi hiện hữu. Ở trong đời, không có sự
hiện hữu nào là không
hiện hữu từ nhân duyên,
nhân quả. Nhân thiếu duyên, quả không thể sinh. Quả thiếu duyên, quả tự hủy diệt. Và nhân thiếu duyên, nhân
luôn
luôn ở trong trạng thái tiềm ẩn.
Sở dĩ
con người bị
rơi vào đời sống tà kiến và
luân chuyển trong khổ đau là do con người không giác ngộ được đạo
lý nhân
duyên,
nhân quả.
Ở trong đời, người nào gieo nhân
thiện, lại được yểm trợ bởi duyên lành,
người
ấy ắt hẳn sẽ gặt quả vui. Người nào gieo nhân ác, lại
được hỗ
trợ bởi duyên xấu, người ấy nhất định sẽ gặt quả khổ. Người
nào gieo nhân ác, lại
được yểm
trợ bởi duyên lành, quả
khổ sẽ đến với người ấy không có toàn
vẹn. Người nào gieo nhân
thiện, lại được yểm trợ bởi duyên xấu, quả lành sẽ không thành tựu toàn vẹn đối với người ấy.
Nhân duyên,
nhân quả là đạo lý sống động,
thẳm sâu, vi diệu, liên hệ chằng chịt giữa tâm và vật,
giữa tác ý và hành động,
giữa chủ thể và đối
tượng, giữa
đời này và nhiều đời về trước, giữa đời này và với nhiều
đời về sau, giữa người này với người kia, giữa người này với nhiều người kia, giữa con người với muôn loài, giữa muôn loài với
con người, giữa
con người với
thiên nhiên và toàn thể
vũ trụ, và nhân duyên,
nhân quả còn có sự
tương tác khiến liên hệ giữa con người với những thế giới khác,…
Và trong sự liên hệ
trùng trùng duyên khởi với nhau như vậy, “khiến cho cái này có
là cái kia có;
cái
này không là cái kia
không. Cái này diệt là cái kia sinh và cái kia
sinh là
cái
này diệt. Khiến cho cái này có
mặt trong cái kia và cái kia có
mặt
trong cái này, chúng làm
nhân duyên tự nội cho nhau. Trong cái
một có cái tất cả
và trong cái tất cả
có cái
một.
Chúng hòa điệu tuyệt đối với nhau, khiến cho cái này
làm nhân, thì cái kia
làm duyên; khiến cái kia làm nhân,
thì cái
này
làm duyên; khiến cho cái này làm
chủ thể, thì cái kia
làm đối tượng, và cái này làm
đối tượng,
thì cái
kia
làm chủ thể”.
Và do sự
liên hệ chằng chịt giữa nhân duyên và nhân
quả như vậy, nên tự thân của
các sự hiện hữu, không có sự
hiện hữu nào là hiện
hữu đơn thuần mà tất cả đều là hiện hữu bởi nhân duyên. Vì vậy, chúng
hoàn toàn không có một
cá thể nào tồn tại
độc lập trong cộng đồng nhân duyên ấy.
Vì vạn
hữu do nhân duyên tương tác cộng tồn, nên tự tính của
chúng lúc nào và ở đâu cũng là “vô ngã”;
vì vạn hữu do nhân duyên tương tác cộng tồn, nên mọi hình thái biểu hiện của chúng lúc nào
và ở đâu cũng đều là “vô thường”;
và vì vạn
hữu do nhân duyên tương tác cộng tồn, nên bản thể của chúng lúc nào và
ở đâu cũng là “không”.
Tính không
của vạn hữu, là không
sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không thường, không đoạn, không lai, không khứ,
không đồng nhất, không dị biệt, chúng vượt thoát mọi ý niệm của cảm giác, của tri giác, của các chủng
tử kinh nghiệm và của mọi quan năng nhận thức. Do quán chiếu thường trực đối với “không lý” của
vạn hữu mà thâm nhập
và chứng ngộ.
Vì vậy, ý nghĩa
của nhân duyên học không phải là cái học
thuộc về chữ nghĩa, suy nghiệm và đối chiếu, mà là cái học
của thực nghiệm, của tự tri, tự chứng và tự mình giác
liễu.