Nhân một ngày về thăm lại chùa xưa
Vào những năm 1974-1996,
khi ấy tôi còn ở một ngôi chùa tọa lạc ngoại vi Thành phố. Trước đó, ngôi chùa
nầy có một lần trùng tu lại, vì nguyên thủy của nó chỉ xây dựng bằng phương tiện
vật liệu nhẹ như; mái, vách tôn, cột, kèo bằng gỗ thao lao, nền chùa lót bằng
gạch tàu trông vẽ đơn sơ, mặt sân đất thoáng rộng, dân cư chung quanh còn thưa
thớt lắm, nên không gian ở đây còn yên tĩnh hơn bây giờ nhiều.
Tôi còn nhớ năm ấy (1973),
cùng đi với cha tôi đến chùa dự lễ cầu nguyện nhân ngày Rằm tháng giêng (Nguyên
tiêu). Hình ảnh đầu tiên đã chạm vào mắt và tâm tư của tôi, đó là một mái chùa
đơn sơ núp dưới những cành mít, cành xoài, cành thị, đong đưa phía sau xa là
những ngọn tre tàu, tầm vong. Bức tranh chấm phá một phối cảnh tươi mát của màu
xanh hiền dịu và bình dị. Kế đến, trông những nhà sư khoát lên chiếc y vàng lẫn
trong những sắc màu của thế tục, hiền hiện một nét “Diệu hạnh” một trong những
hạnh đức của nhà sư, của một vị có tâm tu tập, có được tâm nhu nhuyển, và có tâm
an hòa dễ sử dụng giữa muôn trùng pháp duyên sanh diệt.
Cái đơn sơ thoáng đảng của
cảnh chùa, sự bình dị trong sáng hạnh đức của nhà sư, những hình ảnh ấy đã giúp
cho tôi có một cảm giác ý thức về đời sống tịnh lạc, siêu hóa giữa cuộc đời
thường của những bậc cổ đức xa xưa đã có được. Một thoáng nghĩ, một thoáng biến
mãn trong tâm tưởng ở thời tuổi trẻ, tôi lại mường tượng hình ảnh ấy về thời Đức
Phật và chư Thánh đệ tử khi còn lưu trụ ở những ngôi tinh xá như ; Tịnh xá Kỳ
Viên thuộc Xá Vệ Thành, Tịnh xá Trúc Lâm trong rừng trúc gần thành Vương Xá hay
Tịnh xá Nirodha ở thành Ca-Tỳ-La.v.v…
Khi một hình thức đã được
chuyển hóa nội dung đến với cuộc sống trong thế gian, và khi mà nội dung ấy thật
sự đã trở thành chất sống cho muôn sự sống, hiển bày sự trầm hùng, mầu nhiệm,
đặc thù pháp ý lan tỏa từ cội nguồn uyên nguyên hiển thị giữa bao lớp sóng trầm
luân, rộn ràng, lao xao trong cõi tử sinh. Và cũng chính từ những cảm thọ ấy mà
thời gian đã đưa tôi đến việc xuất gia học đạo.
Sau khi vào chùa như một đứa
trẻ còn nằm trong chiếc nôi (Giáo Hội), được sự nuôi dưỡng bởi dòng sữa “Giới
pháp” của Phật của Tổ Thầy và của Tăng thân, từ ấy mỗi lúc được lớn dần lên, nên
sự nghe, sự thấy, sự cảm thọ cũng được chuyển hóa tăng thượng tâm, từng lúc
hướng về phương trời chân lạc. Nhưng phải đâu chừng ấy việc như trong lòng bàn
tay nhỏ bé, để được thành tựu, nào là vỗ lòng theo tiếng chuông khuya, chuông
chiều, với đôi chân kiết già, lưng thẳng, với đôi mắt nhìn đời tỉnh thức, với
tiếng kẻng báo thức đầu ngày, với tiếng kẻng báo ngọ (trưa), với tiếng kẻng dự
lớp học tập (giáo lý)… Mà người xuất gia nào cũng phải có một thời đi đến thọ
nhận và tiêu hóa khi đã được ngang qua.
Rồi thời gian cứ lặng trôi,
nay lại tiếp nhận một cảm thọ mới. Cái cảm thọ của sự kính trọng, của sự lễ bái,
của sự cúng dường, cái cảm thọ có thấy mình giữ giới, thấy mình có tu thiền,
tụng kinh, niệm Phật, thấy mình có học hiểu giáo lý, biết lý sự phân bua, biện
minh, tự phụ và hơn thế nữa, thấy mình có một vài chức danh, lợi lộc trong tăng
đoàn.v.v… Để rồi từ đó có tín đồ cận sự, có nhóm bạn nhóm bè, bởi thuận dòng tâm
thức với nhau, chiêu cảm nhau mà trở thành, xu hướng ấy là một từ trường, là một
vòng xoay đồng cảm, gặp nhau rồi duyên với nhau giữa muôn vạn hướng đời xuôi
ngược.
Vẫn biết rằng ; Bao hạnh phúc
bình yên, hay những niềm đau khổ lụy trên muôn ngã đường đời cũng không ngoài
kết quả từ hành động của tâm. Chính
những dòng lực dục nhiễm, ái nhiễm tự bao đời nó làm cho ta vấp phải. Nhưng với
những cường lực về tâm nguyện, nó lại giúp cho ta trên con đường trở về nơi cứ
điểm siêu hóa của tâm linh, vì:
“Sầu muộn của con người
Chính do sự sanh y
Ai không có sanh y
Không thể có sầu muộn”
K. Tiểu
Bộ I, 470, 34.
Thay vì tìm về nguồn tâm qua
sự tu tập để được an tịnh lạc, giải thoát lạc hay thiền lạc, an trú qua lời dạy
của Phật để được hiện tướng pháp hỷ, tăng trưởng thêm nhiều duyên lành, thì ở
đây chúng ta có thể dễ dàng rơi vào duyên thế lợi. Một giao lộ cảm thọ mới, một
xu hướng không ít phiền tạp giữa tốt và xấu, giữa bình yên và náo động, giữa
chân thật và giả tạm, giữa xây dựng và phá hại. Sự nghiêng chao nếu không có
năng lực chánh trí quán chiếu, không có sức sống thật sự của Tăng thân, thì sẽ
bị mất hút vào mê lộ lạc thú thỏa thích trong cảm giác ảo huyền sương khói bồng
bềnh theo điệp khúc giữa dòng đời hư thực, và cũng từ sắc màu , vị ngọt của cuộc
đời, mà ta cùng đến, cùng đi, cùng ngồi lại để nghe và nhận lan man những cảm
thọ trập trùng ngàn mây.
Không cuộc chơi nào lại không
tàn cuộc, tiếng nhạc du ngân nào lại không rụng mất thanh âm, giấc mộng nào lại
không phôi pha cho cuộc lãng du khi đã thấy vầng trăng bóng xế canh tàn ! Có còn
chăng, chỉ là hoài niệm xa xôi, mà thực tế và thực chất là câu trả lời đích thực
hơn bao giờ hết. Đối với vị theo pháp của Phật, thì cái được trong cõi phù du,
dù đã qua hay đang có, rồi có còn chăng, hay còn lại một mình ta ! Hư thực là
đâu, bỉ ngạn là đâu, thị ngạn là đâu !?.
Đức Khổng Tử khi còn sanh
tiền và Ngài còn được tôn vinh “Vạn thế sư biểu”, có lần Ngài gọi các thầy Tử
Cống, Tử Lộ và Nhan Hồi để hỏi về đức “Trí và Nhân”.Nhưng cuối cùng, người đệ tử
tâm đắc là thầy Nhan Hồi đã làm cho Đức Khổng Tử thỏa mãn ý nguyện của mình: Nếu
như người có Trí, là trước tiên phải tự biết mình, và người có Nhân là phải tự
thương mình, vì tự biết mình là Trí và tự thương mình là Nhân. Lời phát biểu ấy
là kết quả của sự tu tập, lắng đọng nguồn tâm, thương mình thương người, biết
mình biết người, với tầm nhận thức và truyền đi một cảm thọ, một nguồn nhân lực
và trí lực đến tất cả… Như vậy, thời ấy Đức Khổng Tử có được một Nhan Hồi.
Thế nhưng ở thời Đức Phật,
với lời tán dương công đức “Thiên nhơn chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ”. Lúc ấy
trong giới cư sĩ có hai vợ chồng nhà vua là Pasenadi (Ba tư nặc) và hoàng hậu
Mallika (Mạt Lợi), vua đang trị vì thiên hạ lại có một cảm nhận về ý thức giác
ngộ thâm sâu trong lời dạy của Phật rằng: Một hôm trên thượng lầu hoàng cung,
vua hỏi : “Nầy Mallika, có ai thân ái với hoàng hậu hơn là tự ngã của hoàng hậu
? Được trả lời: “Thưa đại vương, không có ai khác thân ái với thiếp hơn là tự
ngã của thiếp”. Và trái lại, nhà vua cũng trả lời như vậy khi được hoàng hậu hỏi
lại. Sau khi nghe và biết chuyện như thế, Đức Phật chứng minh qua lời kệ :
“Tâm ta đi cùng khắp
Tất cả mọi phương trời
Cũng không tìm thấy được
Ai thân hơn tự ngã…”
Kinh Tương Ưng I. III.
Thế thì thiết nghĩ trong đời,
tùy vào tính chất và hình thành cuộc gặp gỡ của nó, có cuộc gặp gỡ thánh thiện,
trong sáng, lành mạnh, hướng tâm đến sinh lộ pháp của bậc Thánh, bậc Chân nhân.
Nhưng cũng có cuộc gặp gỡ phát xuất từ một ý niệm tha hóa, hoang vu, náo động,
những yếu tố ấy thành một dạng thức trí nô, ký sinh
tạm bợ, hạ liệt.
Nhưng, cho dù ở một trạng
thái nào đi nữa, một khi đã hiển thị trong dòng cuộc sống, tất cả những công và
việc, thực hay phi thực, chơn hay giả, theo cái nhìn của đạo Phật cho rằng; đều
có một tác dụng lớn, nhằm đánh động tâm thức con người trên lộ trình Sanh tử và
Niết bàn.
Nếu như không có chuyện thành
công hay thất bại, còn hay mất, tốt hay xấu, khổ đau hay hạnh phúc, chơn hay
vọng.v.v…, thì đạo Phật biết tựa vào đâu mà giáo hóa cho đời, và con người biết
lấy chi mà làm tâm điểm để nhận thức trong cõi vô thường dâu bể nầy. Do đó, với
lẽ thịnh suy, thăng trầm, tan hợp nơi kiếp sống của con người, điều nầy tưởng
cũng không xa lạ gì đối với người đệ tử Phật. Điều mà chúng ta cũng cần thấy
rằng; ta có còn dong ruỗi hay đang dừng lại bước thênh thang giữa dòng đời ảo
hóa của buổi chợ phú hoa.
Như vậy, kết quả tâm có tu
tập, tâm có nhu nhuyến, tâm dễ sử dụng, trước hết là người “biết sống một mình”,
quán chiếu chính mình, tự nghe và tự dừng lại chính mình, thì muôn pháp trở
thành nhứt tâm, và từ đó tỏa sáng, biến mãn khắp phương trời. Cảm thọ cũ lại một
phen vụt tắt đi, để tiếp nhận một cảm thọ mới nối tiếp vào khoảnh khắc nơi đây
và bây giờ.
Như dòng thác tuôn đi từ đỉnh
cao, qua bao nhiêu khúc quanh, hốc đá, lùm cây, ngang qua dòng trong, dòng dục.
Nhưng đâu phải để dừng lại những khúc đoạn ấy, dòng thác vẫn mãi miết đi, đi để
gặp những dòng sông lớn hơn và rồi cùng xuôi ngọn về đại dương, va chạm với đại
dương, hòa nhập trong đại dương. Cùng thế ấy, nếu như không ngang qua và cảm
nhận được những tấn tuồng, những vỡ bi hài của trò đời muôn mặt, những ý vị bùi
ngọt đắng cay…, thì ta nào biết được;
“Đâu là lời kinh Phật tụng
Giữa dòng đời triền miên
Mở ra nguồn tuệ giác
Người về cõi trang nghiêm”
Có lúc ngay cả Đức Phật cũng
trở thành người độc hành giữa hội chúng tỳ kheo, sự kiện cuộc đấu tranh ở
Kosambi (Kiều Thưởng Di) đã cho ta biết điều đó, và hơn ai hết, chính Đức Phật
là người biết sống một mình, lặng lẽ, chiêm nghiệm dưới một gốc cây, cảm thọ
giải thoát lạc giữa cảnh rừng không tiếng động ban trưa. Có lần Ngài cũng từ
khước 500 vị tỳ kheo ở thôn “Xa đầu tụ lạc”, để tránh đi một hội chúng đệ tử đầy
nhiệt não, ồn ào, tháo động, hơn thua phải quấy, khởi nguồn từ lợi dưỡng, địa
vị, chức danh bèo bọt phù du, ở đây, ta mới thấy rằng:
“Khác thay duyên thế lợi
Khác thay đường Niết bàn”.
PC.
75.
Chiều nay, mây nghiêng bên
thềm hoa cỏ, tiếng chim khách gọi trên cành xa, những giọt nắng rơi thành vô số
những chấm vàng rây trên lối cỏ, bờ hoa, bên chung trà nghe vẳng tiếng chuông
đưa, giây phút trở về và ngồi dưới chùa nay mà nhớ chùa xưa, nơi mà đã hơn 30
năm trải bao cuộc thăng trầm, buồn vui ấm lạnh, với thời gian không ngừng biến
đổi. Mái chùa đơn sơ xưa mất đi ít nhiều của thời xa xưa, hình ảnh bình dị tươi
mát “diệu hạnh” của nhà sư xưa cũng nhòa đi và trôi xa theo chiều bụi vẳng hôm
nào, cũng nghe trống vắng đi bao lớp bạn bè cả đời và đạo thường tới lui với bao
câu chuyện vơi đầy.
Thay vào đó, nay có một ngôi
đạo tràng khang trang hoành tráng, từ mọi phương tiện thờ phượng, phòng ốc và
những hình thức khác cũng được nâng lên theo cấp thời đại. Nếu như cùng thế ấy,
sự khang trang hoành tráng, sự nâng cấp mọi sinh hoạt và hình thức theo tầm thời
đại được thắp sáng từ một Tăng thân, từ một dòng lực “trực hạnh, chánh hạnh…”
Thì điều đó đáng được cung kính trân trọng hơn bao giờ hết.
Tất cả mọi sự thay đổi đều
đưa đến một cảm thọ mới, ý thức và từ bỏ một cảm thọ cũ, thay đổi là để tiến
hóa, siêu hóa tâm linh, thay đổi là để nhận ra từng cung nhịp thời gian, không
gian là “vô thường, khổ, vô ngã…” và để như :
“Với ai các tùy miên
Hoàn toàn không hiện hữu…
Vị tỷ kheo từ bỏ
Bờ nầy và bờ kia
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa”
(Tiểu bộ, I, chương I).
Từ một năm, mười năm, rồi ba
mươi năm và có hơn thế nữa, từng cột móc thời gian được nhổ lên, từng khoảnh
khắc thời gian được thay đổi siêu hóa. Và tuyệt cùng hơn trong từng ý niệm tỉnh
giác, tự mình quán chiếu với sự nhập cuộc trong dòng chảy, nhận thức đúng đắn
khi đối diện với mọi hiện tượng… và cho đến :
“Bao giờ tôi hiểu sâu lòng
đất
Là thấy đường lên cõi Niết
bàn” VHC.
Long Xuyên, một chiều Thu 2013
MẶC PHƯƠNG TỬ