Trước đây, mạng
Diễn Đàn có giới thiệu tập thơ song ngữ Những điệp khúc cho dương cầm –
Refrains pour piano – của Tuệ Sĩ, do bà Dominique de Miscault dịch ra tiếng
Pháp, và minh họa trang nhã. Lúc đó, tác phẩm vừa mới in xong.
Hôm nay, tập thơ
đã được phát hành và ra mắt dưới dạng một buổi tọa đàm tại Thành Phố Hồ Chí
Minh, khách sạn Legend, ngày 27-9-2009, với sự hiện diện của tác giả và dịch
giả.
Ngoài ra, chúng
tôi được biết sách hiện có bày bán nhiều nơi tại Paris, giá 10 €uros.
Vậy xin trở lại,
giới thiệu thi phẩm căn cơ hơn :
Tuệ Sĩ là bậc
danh sĩ cao tăng, đã trọng nhiệm nhiều chức vụ trong hàng giáo phẩm Phật giáo
Việt Nam. Trong và ngoài nước nhiều người biết danh và ái mộ, qua những trầm
luân mà ông chịu đựng non nửa thế kỷ, chúng tôi không nhắc lại nơi đây, vì ai
muốn truy tìm thì rất dễ.
Tuệ Sĩ còn là
nhà thơ, nhiều người biết danh, nhưng ít người được đọc, vì thơ ông ít được phổ
biến. Mới đây, trong nước, nhà xuất bản Phương Đông đã ấn hành tập thơ Những
điệp khúc cho dương cầm, song ngữ Việt-Pháp đối chiếu, do Dominique de
Miscault, nữ họa sĩ người Pháp, chuyển ngữ và trình bày, minh họa, bà gọi là « biểu
cảm đồ họa » (expressions graphiques). Trang bên trái là văn bản Việt-Pháp
nối tiếp, trang bên phải là hình cách điệu nhà sư đang lướt ngón tay trên phía
dương cầm.
Sách gồm 23 bài
thơ ngắn, trình bày trên 53 trang, khổ vuông 21 x 21 cm, giấy tốt, in đẹp và
trình bày trang nhã.
Điều đáng mừng
là độc giả Việt Nam và thế giới có dịp tiếp cận với thơ Tuệ Sĩ, trong niềm đồng
cảm nhân loại, qua thi ca và nghệ thuật. Trong lời tựa, bà De Miscault kể lại :
« Tôi được
hạnh ngộ với Tuệ Sĩ và người thân từ mùa xuân 2003.
Chúng tôi đã học
tập phơi trải và trao đổi hai thế giới, diễn dịch những cảm xúc, đồng thời là
dấn thân. Tôi không phải phật tử cũng không phải kẻ tu hành, lại không biết
tiếng Việt, nhưng thơ Tuệ Sĩ thì đã gặp đâu đó tại châu Âu già cỗi. Đó chẳng
phải là những khoảng hư không mà các tác gia thần bí đã trải nghiệm ? Kinh
nghiệm phiêu du trong bóng đêm và tĩnh lặng, cũng như những tâm hồn khắc khoải,
vô vọng truy tầm lời giải đáp cho những hy sinh, dù tự nguyện hay cưỡng chế ? »
Bà tiếp xúc với
thơ Tuệ Sĩ nhờ việc lược dịch của một người Pháp được Tuệ Sĩ duyệt lại.
« Tôi cố gắng
nắm bắt nội dung qua những hình ảnh, và không gian sống của Tuệ Sĩ như
tôi được trông thấy và đã khai thị cho tôi. Tôi chọn những từ ngữ và ảnh tượng
đơn giản nhất, đã giản lược và tát cạn tối đa thi pháp để tập trung vào cuộc
phiêu lưu thần bí của nhà sư mệt mỏi vì đời sống và những truy tầm vô vọng…
Vô vọng hay
không, vẫn là câu hỏi. Buông thả theo dòng đời.
Dương cầm và
tịch lặng là thần giao giữa hai lục địa giữa chúng tôi.
Nơi đây không
còn là hoài cảm hay xúc cảm, mà là phân tích khô khan cõi dửng dưng.
Tôi hân hoan
được tiếp tục chia sẻ, và trong dài lâu tính nhẹ nhàng tuyệt đối của đời sống. »
Bài tựa này đã
được Hạnh Viên dịch ở trang 7, tôi dịch lại để đóng góp.
Một cơ duyên
khác, là với kỹ thuật điện tử hiện đại, toàn bộ công trình của TS – Dominique de
Miscault và nhà xuất bản Phương Đông được đưa lên lưới, để người đọc, Việt hay
ngoại quốc, khắp năm châu bốn biển đều có thể thưởng lãm. Năm mươi trang giấy
không phải là công trình to tát gì, nội dung cũng không phải chuyện khai sơn phá
thạch, nhưng là một sự kiện văn học, như cơn gió bất ngờ đưa đóa lan rừng ra ánh
sáng.
Tuệ Sĩ không
phải là người tìm danh vọng, nhất là bằng thi ca. Ông không tìm độc giả, tìm tri
kỷ, tri âm. Ông thừa nội lực để sống an nhiên trong tịch lặng giữa cõi ta bà.
Nhưng thơ ông xuất hiện như vầng trăng ra khỏi đám mây, như mùi hương bông sứ
chợt thoảng vào vườn khuya, là một niềm vui chung, và cho người lữ khách ngồi
lại bên đường, buổi chiều, « cười với nắng một ngày sao chóng thế… đỉnh đá
này và hạt muối đó chưa tan », câu thơ ngày xưa của ông mà Bùi Giáng hết lời
ca ngợi.
Thơ, thơ gì đi
nữa, thì trước tiên phải là ngôn ngữ. Ngôn ngữ của ai đi nữa thì cũng mang sử
tính. Thơ thiền sư làm bằng ngôn ngữ hàng ngày vẫn vang âm xã hội và lịch sử.
Ví dụ bài cuối :
Giăng mộ cổ
Mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ.
Ý nghĩa chính
xác của bài thơ là gì ta không nên giải thích chân phương. Nhưng từ ngữ thì rõ
ràng là trầm tích đau thương của con người trong lịch sử. Bà De Miscault dịch
hay và thoát (xem Trên kệ sách của mạng Da màu). Tôi vẫn táy máy dịch
lại xem như góp một nốt đàn vào bản hợp tấu :
Sur les tombes
antiques
La pluie du soir se confond en larmes
Des mythes illusoires
En ruine esseulés,
La bruine givre
Les épaules meurtries de laurier
Serrant la statue
J’aime ô que j’aime les espaces innocents
Trầm tích lịch
sử còn dư vang rõ hơn trong bài này ;
Ngoài biên cương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
Tr. 34
A la frontière
Le grand arbre rougeoie
Le soldat vieillit sur la tombe antique
Le soleil éteint la bataille
Le sang se condense en rosée.
Thơ gì, thơ ai,
thơ nước nào, trong ngôn ngữ vẫn là một thứ ngoại ngữ ; người đọc một bài thơ
trong tiếng mẹ đẻ là đã dịch bài thơ ấy ra ngôn ngữ của riêng mình. Gọi là tiếng
lòng.
Trong nghề dạy
học và việc bình luận văn chương tôi có đôi kinh nghiệm về việc dịch thuật và
thông ngôn này. Gặp những bài thơ Tuệ Sĩ việc giảng luận có phần trắc trở. Ngôn
ngữ vẫn là ngôn ngữ chung là tiếng Việt, nhưng tương quan giữa người nói và lời
nói thì khác nhau. Khi Tuệ Sĩ viết đâu đó « Áo màu xanh không xanh mãi trên
đồi hoang » thì ông không chỉ nói về màu áo, cũng không nói về ngọn đồi, mà
phản ánh tâm linh trong một thế giới khác. Đưa lời thơ Tuệ Sĩ vào ngôn ngữ thế
tục e dễ thành dung tục.
Thơ bao giờ cũng
phản ánh ba tính cách : môi trường xã hội trong lịch sử ; ngôn ngữ trong những
biến chuyển với thời đại ; và tác giả, qua đời sống hàng ngày ; nhưng ở Tuệ Sĩ
đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như đã thăng hoa, thành một siêu
thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý giải chân phưong và đơn phương.
Đầu thế kỷ XX
giới văn học tây phương đưa ra khái niệm « thơ thuần túy », và nghệ thuật nguyên
chất theo nghĩa của hóa học : thực thể nguyên chất đối lập với những thực thể
tạp chất « impur », có lẫn lộn nhiều ngoại tố. Nghệ thuật nguyên chất là kiến
trúc của ngôn ngữ : một dạo khúc dương cầm, một tranh tĩnh vật, một bài thơ đẹp.
Người thưởng thức không pha lẫn vào đó những kỷ niệm, buồn vui riêng tư, nhất là
những thành kiến lịch sử, chính trị. Yêu một chân dung phụ nữ không phải vì nó
hao hao giống một người bạn cũ.
Trong nghệ
thuật, dân tộc là một tạp chất.
Tôi nghĩ khi Tuệ
Sĩ đặt tên Những điệp khúc cho dương cầm, và làm những bài thơ mô tả
tiếng dương cầm, là ông muốn cho tiếng thơ mình trong trẻo, thuần khiết « trong
như tiếng hạc bay qua ». Do đó, bình giải thơ Tuệ Sĩ là tạo cơ nguy
gây tạp âm không phải lẽ và không phải lúc. Bài viết này vẫn mang tạp âm là
ngoài ý muốn của chúng tôi.
Lấy một ví dụ
ngoài đề, cho thông thoáng. Nhà thơ Phạm công Thiện, thời trẻ, có lúc tu tại một
Phật Viện Nha Trang. Một hôm anh về chơi với nhà văn Võ Hồng, ở lại mấy hôm, khi
về Chùa, anh có thơ :
Mưa chiều thứ
bảy, tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Anh tâm đắc
thường đọc cho chúng tôi nghe, và chúng tôi hiểu đại khái, nhưng chưng hửng khi
nghe Phạm Công Thiện, mười năm sau, tự dịch câu thơ ra tiếng Pháp :
Je suis le
Retour
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Chúng tôi đã
hiểu chung chung : thứ bảy là trước chủ nhật, cây khế là cây khế, ngọn đồi là
ngọn đồi, nhưng qua bản dịch tiếng Pháp, thì nội hàm câu thơ không phải chỉ có
vậy.
Nhưng nghĩ cho
cùng, ai làm sao hiểu hết một câu thơ, kể cả tác giả ?
Và cách tiếp cận
thơ Tuệ Sĩ của bà De Miscault biết đâu là cách hay nhất, như câu tiếng Pháp
không biết của ai « la voix du cœur est la voie au cœur » : lời trái tim là
lối đến con tim.
Đọc thơ Tuệ Sĩ.
Bằng trái tim. Nỗi Nhớ
Màu tối mù lan
vách đá
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt
Để hờn trên đỉnh gíó
Ta ở đâu ?
Cánh mộng phù du
Tr. 18
Les ténèbres
envahissant les pierres du mur
Immense le souvenir des regards de nos adieux
Et je m’en vais à jamais
Délaissant les chagrins aux cimes de l’ouragan
Où suis-je ?
Frêles sont les ailes de l’éphémère
Tình người :
Ta sống lại trên
nỗi buồn ám khói,
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Tr. 50
Sur mes chagrins
enfumés, je revis
L’Amour des hommes à chaque instant de mes songes
Dès l’origine la parole a été retenue
Comme l’océan retient le reflet du printemps en fleur
Des refrains animent mes ailes épuisées
Pour l’Homme, j’ouvre mes mains au firmament étoilé
Trần thế :
Theo chân kiến
Luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u
Thế giới chập chùng
Quãng im lặng
Nghe mùi đất thở
Tr. 46
Traces de fourmi
Je faufile entre les herbes
Ténèbres des ténèbres
Les mondes s’amoncellent
Silences entre silences
J’accueille la terre respirante.
Thơ Tuệ Sĩ cô
đúc, hàm súc, uyên áo. Người đọc không quen cho là khó hiểu, vì tác giả không đề
cập đến một đề tài nào chính xác, không miêu tả không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh
ánh sáng tâm cảm và ngoại giới, trầm tư và huyễn mộng. Hình ảnh chập chờn, ngôn
từ lảo đảo, như những tiếng dương cầm đuổi bắt nhau, chưa kịp tương phùng đã
muôn đời vĩnh quyết.
Thỉnh thoảng,
người đọc cảm thấy an tâm trong đôi lời thơ mạch lạc :
Cửa kín chòm mây
cuốn nẻo xa
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà
Tr. 26
Người Thơ hé mở
một thoáng tâm linh, nhưng hình ảnh vẫn mang tính cách tượng trưng, xa cách, xóa
nhòa tâm sự cá nhân, pha loãng tình riêng vào làn mưa trên mái ngói.
Đôi khi người
đọc gặp vài từ ngữ, ẩn dụ trở đi trở lại như những ám ảnh, tạo nên dăm viên đá
cuội trên lộ trình cậu bé tí hon, nhưng dễ gì tìm được heo hút đường về.
Ngoại giới biết
đâu là ảo giác :
Bóng sao đêm dài
vời vợi
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền
Tr. 10
Và thơ, tập thơ
mình cầm trong tay, những nốt nhạc, những hàng chữ « đen trắng đuổi nhau
thảnh ảo tượng ». Thơ, tất cả thi ca trên cõi trần này biết đâu chẳng là ảo
giác của ảo giác ?
Cần gì để nói
thêm về Những điệp khúc cho Dương cầm của Tuệ Sĩ ?.
Phải chăng là
tiếng ve sầu chung thủy, ưu hoài những mùa hạ đã ra đi ?.
Tiếng ve trở về,
Khóc mùa hè mà
khô cả đại dương.
Đặng Tiến